Vincentê Vũ Văn Hán
Quy tắc tối hậu
của đời tu là đi theo chân Chúa Cứu Thế như đã được trình bày trong Tin Mừng
(x. HP 74). Và điều đó đòi buộc người tu sĩ không chỉ dừng lại ở mức độ đi theo
nhưng là đi sát đến “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” (x. HP 25). Vậy, điều
này được thể hiện như thế nào?
Trong thực tế,
để bước theo một người, trước tiên phải tin tưởng người đó, sau đó điều chỉnh
hướng đi và cuối cùng là sự di chuyển. Đó cũng là cách thức người tu sĩ bước
theo chân Đức Kitô.
Trước tiên,
không ai có thể đi theo một người mà họ không tin. Và tin là điều kiện thiết yếu.
Đối với người tu sĩ, Đấng mà họ tin là Đức Kitô. Đời tu là một cuộc lội ngược
dòng trước tất cả những giá trị về hạnh phúc và thành công mà thế gian đặt ra.
Đứng trước thách đố đó, người tu sĩ phải có một niềm tin tưởng cách kiên vững
vào Đức Kitô nếu không, họ thực sự “là những kẻ đáng thương” (1Cr 15,19). Vì thế,
đời sống của họ phải được xây dựng bằng những cuộc gặp gỡ đích thân với Đức
Kitô. Bởi đức tin là một cuộc gặp gỡ đích thân với Đức Kitô, ở bên Người và sống
gần gũi với Người.[1] “Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14). Và cầu nguyện là con đường để họ hiện
thực hóa được điều đó.
Như các Tông
Đồ, qua đời sống cầu nguyện, họ sẽ được nghe, được thấy tận mắt, được chiêm ngưỡng
và được chạm đến Thầy Chí Thánh (x. 1Ga1,1). Đồng thời, Chúa giúp họ hiểu được
tình yêu mà Người dành cho họ, một tình yêu cá vị, trung thành và quảng đại đến
nỗi chết cho họ (x. Ga 15,13). Và điều này sẽ đổ đầy tâm hồn họ một niềm bồi hồi
xao xuyến khiến họ có thể tin tưởng cách chắc chắn vào Người (ĐTC Phanxicô). Một
khi đã tin, họ không thể không yêu mến Người: “Đức tin hành động nhờ đức ái”
(Gl 5,8). Lòng yêu mến nơi người môn đệ là điều kiện duy nhất Chúa muốn và cũng
là sức mạnh của họ. Vậy nên, mỗi giây phút cuộc đời của người môn đệ là lời ứng
đáp không ngừng cho câu hỏi của Thầy mình: “Anh có yêu mến Thầy không?” (Ga
21,17).
Thứ đến là điều
chỉnh bản thân. Nó cũng đồng nghĩa với việc hoán cải và từ bỏ nơi người tu sĩ.
Việc tin vào Đức Kitô đòi buộc người tin phải hoán cải (x. Mc 1,15) và sự từ bỏ
cũng là yêu sách dành cho người môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình
vác thập giá mình mà theo” (Mc 16,24). Bởi chưng, với người tu sĩ, Đức Kitô
luôn là trung tâm của cuộc đời nên họ sẽ phải không ngừng hoán cải tâm hồn hầu
thanh luyện các động cơ trong hành động và lời nói (x. HP 49). Đồng thời, họ
cũng từ bỏ đi chính mình và mọi sự họ có hầu Đức Kitô là “kho tàng” duy nhất:
“Tôi coi mọi sự là rơm rác trước mối lợi tuyệt với là được biết Đức Kitô Chúa của
tôi” (Pl 3,8).
Mặt khác, đáp
lại những đòi hỏi như thế, người tu sĩ không coi đó như là một điều kiện của một
hợp đồng, nhưng là khuôn mẫu và yêu sách của tình yêu: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ
giữ lời Thầy” (Ga 15,23). Nên đối với họ việc đặt Đức Kitô là trung tâm và khước
từ đi chính bản thân là lời đáp trả tình yêu trước tình yêu của Đấng đã chết
cho họ. Vì tự bản chất, tình yêu hệ tại là ra khỏi bản thân và đặt trọng tâm
mình nơi con người khác.[2] Đồng thời, dưới sự thúc bách tình yêu Đức Kitô, họ
không chỉ bằng lòng chọn Đức Kitô làm ý nghĩa cuộc đời nhưng họ còn muốn được
trở nên đồng hình đồng dạng với Người (x. HP 25) khi chọn sống khiết tịnh, khó
nghèo và vâng phục. Qua đó, họ dâng hiến cuộc đời cho Đức Kitô nghĩa là sống
cho Người. Mà sống cho Người không gì khác hơn là chia sẻ vào sự “hiện hữu vì”
của Người.[3]
Sau cùng, một
người đã được gặp gỡ, được niềm vui Tin Mừng của Đức Kitô biến đổi thì không thể
không tham gia vào sứ mạng của Người. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng” (1Cr  9,6).  Khi kêu gọi nhóm Mười Hai, Đức Kitô đã không
giữ họ mãi bên Người nhưng Người cũng trao cho họ sứ mạng : “Người sai các ông
đi rao giảng” (Mc 13,15). Trước khi về trời, Người lại một lần nữa trao cho các
môn đệ sứ mạng cứu độ của Người: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,14). Với tư cách là môn đệ Đức Kitô,
người tu sĩ không chỉ được kêu gọi tiếp nối sự hiện diện của Đức Kitô nhưng còn
để tiếp nối sứ mạng cứu độ của Người trên trần gian này (x. HP 23). Và việc đáp
trả hiến dâng cho Đức Kitô cũng bao hàm việc dấn thân cho sứ mạng cứu độ của
Người, vì cuộc đời Đức Kitô là một sứ mạng.
Họ theo gương
Đức Kitô bằng cách rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó (x. HP 1) và sứ mạng
này nhắm đến việc giải phóng cũng như cứu độ con người cách toàn diện (x. HP
5). Dù âm thầm hay minh nhiên họ sẽ tìm mọi cách thức để có thể công bố mầu nhiệm
Đức Kitô (x .HP 8). Ngay cả khi không thể rao giảng, họ sẽ âm thầm làm chứng bằng
sự hiện diện huynh đệ và đời sống đức ái của họ (x. HP 9,10). Trong tất cả, họ
làm vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi cho các linh hồn (x. HP 53).
Đời tu không
phải là một lời đáp trả trong một vài thời điểm nhưng là sự đáp trả liên tục
trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống. Điều đó đòi hỏi người tu sĩ cần có một sự
bền bỉ trong đời sống cầu nguyện, hoán cải và từ bỏ cách liên tục, và tận tâm tận
lực dấn thân cho sứ mạng. Với người tu sĩ DCCT, việc sống mật thiết với Đức
Kitô không bao giờ được tách khỏi sự dấn thân cho sứ mạng. Vì việc hiến mình
cho Thiên Chúa đồng một trật cũng là hiến mình cho hoạt vụ thừa sai (x. HP 1).
Như thế, họ mới trở nên những môn đệ đích thực bước theo chân Chúa Cứu Thế.
[1] x.
Felicisimo Diez Martinez, Đời tu gạn đục khơi trong, 126.
[2] x. Ibid.,
127.
[3] x. Đức
Giáo hoàng Benedictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 28.

