Giuse Nguyễn Đoàn Tân, O.F.M.
Lịch sử cho thấy tôn giáo có những
chức năng rất phức tạp và đa dạng. Tôn giáo vừa là năng lực cho sự cấu kết cộng
đoàn và vừa là nguyên nhân gây nên chia rẽ trong xã hội. Tôn giáo vừa thể hiện
các xung lực vô thức vừa là sự chọn lựa có ý thức của con người. Tôn giáo vừa
biểu tượng hóa cấu trúc của tư duy vừa tạo nên mạng lưới ý nghĩa cho thế giới.
Tôn giáo vừa phản ảnh trải nghiệm thánh thiêng vừa lý giải cho sự tồn tại của sự
dữ. Tôn giáo vừa cố bảo vệ chân lý của mình trước các thử thách khoa học vừa giải
thích cho cứu cánh của vũ trụ tự nhiên. Có lẽ vì những năng lực đối nghịch nhau
này mà tôn giáo có sức mạnh lôi cuốn con người suốt tiến trình lịch sử phát triển
của nhân loại. Như thế, tôn giáo là chiếc “la bàn thiêng liêng” giúp điều phối
nhiều lĩnh vực quan trọng của cuộc sống như cấu trúc xã hội, nền tảng tâm linh,
biểu tượng nhân học, cách lý giải những thử thách đến từ khoa học trong hành
trình tìm hiểu ý nghĩa tối hậu của tồn tại.
Bài này sẽ sơ lược qua các nỗ lực định
nghĩa tôn giáo và về tiến trình khoa tôn giáo học được tách biệt ra khỏi thần học.
Kế tiếp, chúng ta sẽ dùng một số lý thuyết để phân tích cách tôn giáo điều phối
các lĩnh vực xã hội và tâm linh của con người, cùng với cách con người biểu tượng
hóa chính mình và trải nghiệm về sự thánh thiêng. Vì lý thuyết là công cụ cho
nên chúng ta cần một thùng đầy đủ đồ nghề để dùng cho phù hợp với vấn đề cần phải
giải quyết.
CÁC NỖ LỰC ĐỊNH
NGHĨA TÔN GIÁO
Hầu hết các nỗ lực định nghĩa tôn
giáo thì quá hẹp hoặc quá rộng. Trước thế kỷ XVI, định nghĩa tôn giáo như là “đức
tin vào Thiên Chúa” thì quá hẹp bởi vì nó giả định quan điểm hữu độc thần và loại
bỏ rất nhiều tôn giáo khác hay chiều kích khách quan của đời sống tôn giáo. Định
nghĩa cho rằng tôn giáo là sự “lưu tâm tối hậu” (ultimate concern) ở
thế kỷ XX thì “quá rộng” vì không giải thích được hành vi và ý định cụ thể của
tín đồ hoặc ranh giới giữa bên trong và bên ngoài cộng đoản đức tin. Một cách định
nghĩa hữu hiệu hơn cho rằng tôn giáo là một hệ thống truyền thông được thiết lập
bởi đấng siêu việt liên quan đến lời mời gọi về một cách sống đặc thù nào đó. Lối
định nghĩa này nhận diện rõ ràng hơn về ý định và niềm tin của cộng đoàn tôn
giáo, nhưng không giới hạn tôn giáo vào một nền văn hóa nào cả.
Trong thực tế của cuộc sống, chúng
ta trải nghiệm tôn giáo như một mạng lưới của những giá trị luân lý, với mục
tiêu giúp con người được siêu thăng. Các thực hành tôn giáo như nghi thức, phụng
tự, và quy luật cư xử tạo nên sự phân biệt giữa không gian thánh thiêng và cõi
phàm tục. Tôn giáo còn tạo nên một cơ cấu giai cấp với hệ thống điều hành và thẩm
quyền cho phù hợp cho mỗi cấp bậc. Linh đạo của tôn giáo trải dài từ đời sống
chiêm niệm cho đến hoạt động từ thiện, hay từ ngôn ngữ tư tế đến phán đoán của
ngôn sứ. Cuối cùng, tôn giáo là nơi lưu giữ phong phú nhất về dữ kiện của các
truyền thống văn hóa như nghệ thuật, âm nhạc, triết học, sử học, nhân học và
khoa học. Sự hiểu biết về tôn giáo giúp giải thích nhiều phạm vi của tư tưởng
và hành vi con người. Khó mà giải thích được mối thù và chiến tranh liên lỉ giữa
Arập và Israel suốt hơn nữa thế kỷ qua nếu không hiểu gì về Do Thái giáo hoặc Hồi
giáo. Không thể nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc, nghệ thuật ảnh tượng và
kiến trúc mà không nắm bắt được lịch sử của linh đạo Kitô giáo.
Trước khi phân tích sâu hơn về tôn
giáo, chúng ta hãy sơ lược qua các quan điểm thông thường. Khởi đầu, quan điểm “thần
sử” (euhemerism), lấy tên từ triết gia Hy-lạp Euhemerus (300BC),
cho rằng mọi tôn giáo bắt đầu bằng những chuyện kể về những nhân vật siêu phàm
nào đó trong lịch sử. Sau khi các vị đó qua đời, các trình thuật này được thổi
phồng và trở thành các huyền thoại, như đã thấy trong trường hợp Môsê, Đức
Giêsu, Đức Phật hay Mohammed. Quan điểm này không giải thích được tại sao tôn
giáo vẫn tiếp tục và phát triển như thế nào. Hơn nữa, khó mà kiểm chứng lịch sử
tính chân thực của thần sử. Một hạt bụi trong giọt nước mưa không thể giải
thích nguồn gốc của giọt nước mưa đó.
Một quan điểm khác cho rằng tôn
giáo là một loại khoa học ấu trĩ. Quan điểm này giả định cách hiểu các tài liệu
tôn giáo theo nghĩa từ nguyên, và đánh giá tri thức “sơ khai” hay “tiền logic”
của người cổ đại về vũ trụ như là sự sai lầm so với tri thức khoa học ngày nay.
Tuy nhiên, nhận định về con người cổ đại hoàn toàn khác và kém logic hơn con
người ngày nay lầm lẫn giữa chú giải khoa học và chú giải lịch sử. Đây là hai lối
tiếp cận của cùng một bản văn nhưng đến từ hai mô hình tri thức khác nhau. Nỗ lực
tạo mây thì hoàn toàn khác với cầu nguyện cho mưa xuống, cho dù cả hai hành vi
muốn đạt đến cùng một mục tiêu.
Cách nhìn thứ ba là xem tôn giáo
như là ảo tưởng tâm lý hay sự tha hóa của xã hội. Quan điểm tâm lý cho rằng qua
tôn giáo và giấc mơ, con người có thể thực thi những gì mà họ không thể làm
trong thế giới. Tôn giáo cho phép con người thể hiện các xung lực của mình cách
an toàn cho xã hội. Quan điểm này giải thích tính phổ quát của cảm xúc tôn
giáo, vì chúng ta chưa hiểu biết hoàn toàn về hoạt động của vô thức cho nên khó
mà kiểm chứng được tính khoa học của quan điểm này. Mặt khác, tôn giáo cũng thường
bị cho là một ảo tưởng tiêu cực, cản trở sự tiến bộ của xã hội, và là công cụ để
biện minh cho cơ chế thống trị và bóc lột giới lao động. Marx xem tôn giáo như
là “liều thuốc phiện ru ngủ của quần chúng,” một bộ phận trong
guồng máy ý thức hệ của giai cấp trưởng giả, tồn tại trên nền tảng không phải
là nó. Một khi giai cấp trưởng giả bị phá đổ thì tôn giáo sẽ tự hủy diệt. Tuy
nhiên, quan điểm này không giải thích được sự tồn tại kiên trì của tôn giáo sau
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa cộng sản.
Vì tôn giáo rất đa dạng và phức tạp,
cho nên thay vì tìm một học thuyết để giải thích tôn giáo chúng ta nên mô tả
chúng. Nhưng nếu mô tả từ một “yếu tính” của tôn giáo, thì yếu tính đó được
trích xuất từ tôn giáo cụ thể nào và có cơ may loại trừ các tôn giáo khác. Nếu
mô tả theo giá trị thực tế trong xã hội thì rất dễ lầm lẫn tôn giáo với nhiều
nhóm từ thiện có cùng chức năng. Wittgenstein đề nghị xem tôn giáo như một “gia
đình,” và mô tả những “nét chung” trong cách dùng ngôn ngữ và biểu tượng, cùng
với những niềm tin và thực hành chồng chéo lên nhau trong gia đình này. Phương
pháp này không giả định yếu tính siêu nghiệm nào cả, mà chỉ nhận diện những dấu
vết hoặc đường nét mà hầu hết các tôn giáo đều chia sẻ. Kết quả có bốn nét
chung về tôn giáo là: (1) Nhìn thế giới qua một nhãn quan hay một niềm tin nhất
định nảo đó. (2) Nhãn quan này tạo nên ranh giới phân biệt bên trong và bên
ngoài tôn giáo. (3) Bao gồm một thực tại hay Đấng Siêu Việt tồn tại bên trên thế
giới con người. (4) Niềm hy vọng về sự sống đời sau, và một cuộc “phán xét” qua
đó con người sẽ bị đánh giá để xứng đáng được hưởng phần thưởng vĩnh hằng.
KIM TỰ THÁP: LA
BÀN THIÊNG LIÊNG CHO CON NGƯỜI
Nhà nghiên cứu tôn giáo nổi danh
Mircea Eliade dùng hình ảnh chiếc “la bàn thiêng liêng” để mô tả chức năng của
tôn giáo giúp con người định hướng cuộc sống của mình trong vũ trụ. Vũ trụ
được sắp xếp theo một trật tự song đôi: “thần thánh/thiên đàng/cõi sống” và
“con người/trái đất/cõi chết.” Mô hình này được phản ảnh qua nhiều cấu trúc tôn
giáo (kim tự tháp) và huyền thoại về nguồn gốc của vũ trụ (sách Sáng Thế hoặc
Kinh Vệ Đà). Tôn giáo nào cũng có một vũ trụ luận (cosmology), giúp con
người định vi tư thế của mình trong tương quan với thế giới. Từ “cosmology”
do từ “cosmos” (thế giới) và “logos” (sự thông tri, diễn ngôn) kết
lại. Trong khi vũ trụ luận khoa học (thuyết cơ lượng tử của Einstein) mở rộng
nhãn quan của con người về giới hạn của vũ trụ vật chất, thì vũ trụ luận tôn
giáo giải quyết các vấn nạn trong cuộc sống (sự dữ) để con người khỏi rơi vào sự
hỗn loạn tâm lý hay thiêng liêng. Vũ trụ luận tôn giáo dựa trên niềm tin bất biến
và vĩnh cửu, còn vũ trụ luận khoa học dựa trên sự tiến bộ của phát minh khoa học.
Vũ trụ luận tôn giáo trả lời cho những
loại câu hỏi: Vũ trụ từ đâu mà ra? Đâu là số phận hay vận mệnh của vũ trụ? Ý
nghĩa của cuộc sống là gì? Sách Sáng Thế cho rằng: “Từ thủa ban đầu, Thiên
Chúa đã tạo dựng trời và đất.” Tin Mừng Gioan giải thích “Từ thủa ban đầu
đã có Ngôi Lời.” Điểm đặc biệt của vũ trụ luận cho dù ý vị của nó là thể
lý, nhưng ý nghĩa của nó là phi-vật chất, tức là một la bàn thiêng liêng vốn điều
phối và định hướng con người trong thế giới vật chất. Những vật thể tiêu biểu
cho vũ trụ luận tôn giáo đầu tiên xuất hiện khoảng giữa 3500 BC đến AD 500 tại
vùng Cận Đông qua hình thức Kim tự tháp Ai Cập và những thần thoại (myths)
về trật tự của thế giới. Kim tự tháp được dựng nên để gây ấn tượng thiêng liêng
và cung cấp sự định hướng tâm linh cho dân tộc Ai cập cổ đại. Truyện thần thoại
Ai cập nói lên mối tương quan loại suy giữa thiên nhiên và cuộc sống con người.
Mọi sự vận hành theo chu kỳ: cuộc sống con người khi tỏ khi khuất, mặt trời mọc
lên và lặn xuống, dòng sông Niles khi cạn khi đầy, nhưng tất cả không biến mất
hoàn toàn. Sự chính xác trong kích thước hình học và chiều hướng phù hợp với trục
trái đất và các vì sao cho thấy Kim tự tháp là mô hình của vũ trụ, chỉ ra
phương hướng và các cấp độ tồn tại (địa ngục/trái đất/thiên đàng). Là diễn
ngôn về vũ trụ luận, Kim tự tháp nói lên logic đối lập của “sự sống/cái chết,”
hay “thần thánh/con người,” tức là sự truân chuyên trong cuộc sống trần
ai mà mọi con người phải vượt qua.
Trong khi vũ trụ luận Ai cập dùng
phạm trù không gian, thì vũ trụ luận Hindu xoay quanh sự kéo dài của thời gian.
Vũ trụ luận của Hindu mô tả một vũ trụ đã tồn tại qua quãng thời gian rất dài hầu
như vô tận, hơn cả 13 tỷ năm của thuyết Big Bang. Thay vì theo chu
kỳ “chết/tái sinh” của Ai cập, thì Hindu cho rằng hạnh phúc vĩnh cửu của
con người là đạt đến Nirvana, tức là thoát ra khỏi bánh xe luân hồi của vô số
chu kỳ sống, chết và đầu thai. Như thế, tôn giáo mà cho rằng thế giới đã xuất
hiện quá lâu thì ơn cứu rỗi là thoát khỏi thế giới đó. Tôn giáo cho rằng đời
người là quá ngắn ngủi thì hạnh phúc là được sống đời đời trong cõi vĩnh hằng.
Đây là một hình thức của logic đối nghịch của vũ trụ luận tôn giáo.
Cuối cùng, trong sách Sáng Thế hàm
chứa vũ trụ luận của Do Thái giáo với sự nhấn mạnh vào sự tốt lành của tạo vật
do Thiên Chúa đã tạo nên. Con người khởi đầu từ nguồn gốc thiện hảo nhưng đã trở
nên sa ngã và mang đau khổ vào cuộc sống thế nhân. Sự dữ xuất hiện như sự suy đồi
của sự thiện nền tảng mà Thiên Chúa đã đặt để trong loài thụ tạo có lý trí. Vũ
trụ luận Do Thái giáo cũng dùng mô hình đối nghịch giữa “thần thánh/thiên
đàng/sự sống” với “con người/trái đất/sự chết.” Mọi nỗ lực tự con
người muốn vượt qua ranh giới này đều thất bại (Tháp Babel). Chỉ qua cách tuân
giữ lời giao ước và Thập Điều thì con người mới kết nối được với nền tảng thánh
thiêng của mình. Trong tương quan với Thiên Chúa, sự thánh thiện ở mức độ cá
nhân thì không quan trọng cho bằng sự gắn bó cộng đồng.
TÔN GIÁO BIỂU TƯỢNG
HÓA CON NGƯỜI VÀ TRẢI NGHIỆM THÁNH THIÊNG
Tôn giáo không chỉ là tập hợp những
biểu tượng hay cổ vật, nhưng còn là hành vi tham dự vào hoạt động xã hội qua đó
tỏ lộ cấu trúc của tư tưởng và tạo nên một mạng lưới văn hóa. Lối phân biệt giữa
“ngôn từ” (ký hiệu) và “diễn ngôn” (hành vi ngôn ngữ) của Ferdinand de Saussure
(1857-1913) giúp chúng ta nhận ra bề dày của biểu tượng tôn giáo. Những
“âm-hình” hay ký hiệu không thể tự nó tạo ra sự khác biệt trong thế giới, nhưng
con người dùng chúng để tạo nên những “khái niệm” để nói lên sự khác biệt đã có
sẵn trong thế giới. Khi hiểu hành vi hay biểu tượng tôn giáo như là “diễn ngôn”
thì ta có thể nhận ra ngôn ngữ tỏ lộ cấu trúc của tư tưởng và cũng tạo nên mạng
lưới biểu tượng của văn hóa.
Trước tiên, Claude Lévi-Strauss
(1908-2009) nhắm vào cấu trúc của tư tưởng đứng sau các diễn ngôn tôn giáo.
Lévi-Strauss kết nối tri thức luận của Kant và ký hiệu học của Saussure, để kết
luận rằng phải có những cơ cấu trong tâm trí vốn điều phối cách con người dùng
biểu tượng trong tôn giáo. Các cơ cấu này có thể được nhận diện qua việc
so sánh những cách mà các bộ lạc bố trí biểu tượng của họ. Các cơ cấu tư tưởng
được tái diễn qua nhiều hình thức với mục đích bảo đảm chân lý tôn giáo sẽ
không trở nên mơ hồ và tối nghĩa qua thời gian. Cho dù, hành vi tôn giáo mang
tính ngẫu hứng, nhưng luôn có một vô thức tập thể hay nguyên mẫu trong cách con
người tạo nên sản phẩm tôn giáo. Mặt khác, Clifford Geertz (1926-2006)
dùng phương pháp “phân tích dày” (thick description) để tách ra các ý
nghĩa đan quyện với nhau trong mạng lưới các biểu tượng văn hóa. Geertz
chú tâm vào cách mà hệ thống biểu tượng thôi thúc con người tiếp tục tâm thức
và đảm nhận những hoạt động cố định trong thế giới. Lối tiếp cận thực dụng này
cho thấy tôn giáo như một hệ thống tác động lên sự thiết lập tâm thức và động lực
mạnh mẽ và lâu bền nơi con người. Tôn giáo dàn dựng và mặc lên những trật tự xã
hội một hào quang văn hóa hiện thực. Chỉ tôn giáo mới có thể lý giải những sự hỗn
loạn bất thường và phục hồi sự tự tin để con người có thể tiếp tục thăng tiến
cuộc sống của mình trong thế giới.
Cuối cùng, tôn giáo còn tỏ lộ sự
đáp trả của con người khi trải nghiệm về sự thánh thiêng. Kant cho rằng khác với
cái đẹp, và cái cao cả là trải nghiệm về sự siêu thăng được cảm nhận từ những
thực thể mang sự tồn tại dày đặc hơn những thực thể khác, như khái niệm “Thượng
Đế.” Trải nghiệm thánh thiêng là một sự gợi cảm (ahndung), một cái gì đó
có thật từ thế giới bên ngoài, được cho qua trực giác (intuition). Rudolf Otto
(1869-1937) phân tích trải nghiệm về “Sự Thiêng Liêng” và chỉ ra rằng gặp gỡ sự
thiêng liêng (numinous) sẽ gợi lên cảm xúc nhiệm mầu, khủng khiếp, và
lôi cuốn, tức là những trải nghiệm cực kỳ khác lạ, làm cho con người trở nên bất
lực và kinh ngạc như được truyền tải năng lực, cùng với sự lôi cuốn và thôi
thúc muốn biết thêm nữa. Qua trải nghiệm về sự thiêng liêng, con người nhận ra
tính “thụ tạo” hay thân phận bất tất triệt để của mình.
Mircea Eliade (1907-1986) đi xa hơn
khi khẳng định tôn giáo là hiện tượng “sự thánh thiêng” (the sacred)
đang xâm nhập vào thế giới con người. Sự xâm nhập này để lại ảnh hưởng
trên xã hội và văn hóa như được thấy từ cấu trúc phố xá, đỉnh mái đền thờ cho đến
các hình mẫu tâm linh cơ bản trong các truyện cổ tích. Từ cái nhìn của tín đồ,
không gian như được phân chia ra thành cõi phàm (không gian sinh hoạt hằng
ngày) và cõi thiêng là nơi sự thánh thiêng tỏ hiện. Không gian thánh thiêng là
điểm tụ, hay trục thế giới (axis mundi), giúp con người định hướng sự tồn
tại của mình trong thế giới. Truyện thần thoại kể lại những gì xảy ra và nghi
thức tái diễn các hoạt động của thần thánh, và qua đó, con người hiểu được ý
nghĩa tối hậu của cuộc sống thường ngày. Một ngôi thánh đường, đền thờ, hay điểm
hành hương là không gian thánh thiêng. Trong lúc Giêrusalem, Rôma hay Mecca là
“đất thánh.” Bên ngoài không gian thánh thiêng là sự hỗn tạp và hoang dại,
ngoài phạm vi của trật tự đã được thánh hóa; nhưng đó cũng là nơi con người được
tái tạo, biến đổi, thử thách hay tiêu diệt. Các ngôn sứ, Đức Giêsu hay Phaolô
vào sa mạc để bị thứ thách trước khi bắt đầu sứ vụ của mình. Trải nghiệm thánh
thiêng chuyển hướng ngôn ngữ tôn giáo về “Nguồn” của sự thánh thiêng.
Năm 1870, Max Muller chính thức khởi
xướng “Khoa học về tôn giáo” và các học giả tân thời tiếp tục khai triển viễn
tượng này qua các nhãn quan xã hội học, tâm lý học, nhân học và hiện tượng học
mà không hề phải nại đến các yếu tố siêu nhiên nào cả. Các học thuyết này đã để
lại một gia sản phong phú cho khoa tôn giáo học. Clifford Geertz kêu gọi chúng
ta hãy chú giải thay vì giải thích tôn giáo, nếu chúng ta muốn thông diễn chân
lý mà tác giả truyền đạt. Nhân học biểu tượng xem tôn giáo là hệ thống các ký
hiệu mà con người tạo nên và truyền thông ý nghĩa, do đó, tôn giáo học cần phục
hồi mạng lưới ý nghĩa thay vì giải thích chúng. Tuy nhiên, người chú giải cũng
cần có khoảng cách tri thức để nhận ra các ý thức hệ đang tiềm tàng trong nguồn
liệu hay tiến trình thông diễn. Chủ thuyết Maxít có thể vạch trần những bất
công trong tôn giáo, hay phân tâm học của Freud có thể giúp ta nhận thức vai
trò lành mạnh hơn của tôn giáo.
Đóng góp quan trọng của hiện tượng
luận trong thế kỷ XX là sự nhận diện trải nghiệm thánh thiêng vốn làm cho con
người trở nên khắc khoải muốn tìm cách đáp trả. Loài dã thú có thể nhận ra các
dấu hiệu thay đổi trong thiên nhiên trước khi chúng xảy ra, nhưng chỉ con người
mới có khả năng lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Đấng Thánh Thiêng. Tôn
giáo là “công cụ” giúp con người phát hiện sự xâm nhập thánh thiêng và cũng là
“nơi” Đấng Thánh Thiêng tỏ hiện. Khi con người đón nhận trải nghiệm thánh
thiêng như là một “món quà” vô điều kiện, từ đó con người hiểu được mạc khải và
sàng lọc lịch sử để tìm kiếm ý nghĩa của mầu nhiệm “nhập thể.” Con người phóng
chiếu mình qua biểu tượng tôn giáo và khởi đầu cuộc hành trình tìm hiểu cách cư
ngụ trong “Nước Chúa” và nói về Thiên Chúa (theo-logos).
Tài liệu tham khảo
Joseph Tân Nguyễn, ofm. Tôn giáo: la bàn thiêng liêng cho con người. Đồng Nai: NXB. Đồng Nai, 2023.