GIỚI THIỆU CÁC MÔN HỌC
Phân khoa Triết học
- Các môn Triết học
1. Triết học Nhập môn
Phụ trách: Cha Giuse Trương Văn Tính, O.F.M.
Con
người mở ra với thực tại bằng ba “cửa sổ” hay ba lãnh vực khác nhau: Khoa học,
Triết học và Thần học. Triết học – yêu mến, tìm kiếm sự khôn ngoan – trước khi
như là một khoa học, đã là một hoạt động, một lối sống, một thao thức của con
người về ý nghĩa của sự hiện hữu. Học Triết và làm Triết là điều thực sự cần thiết
đối với mỗi người, bởi vì, chúng ta có thể nói như Socrate: “[…] Đời sống không suy
xét là không đáng sống” (Platon, Socrates biện hộ, 38a). Nhập môn Triết
học Tây phương là môn học hướng dẫn các học viên khám phá sơ khởi về các nội
dung liên quan đến lãnh vực Triết học như: Triết học là gì? Nguồn hứng khởi của Triết học; Phương pháp
Triết
học; Tương quan giữa Triết học với khoa học và Thần học; Giá trị đào tạo của Triết học; Một vài triết gia,
tác phẩm Triết học và các triết thuyết tiêu biểu trong dòng lịch sử… Với những kiến thức
cơ bản của Triết học Nhập môn, sinh viên có thể hứng khởi bước vào khám phá
“ngôi nhà triết học” và tránh được những bỡ ngỡ.
2. Triết sử Tây phương Thượng cổ
Phụ trách: Cha Phanxicô Xaviê Trần Văn Quảng, C.Ss.R.
Với môn học này, sinh viên tiếp cận và làm quen
với nền Triết học Cổ đại qua khuôn mặt các triết gia nổi bật như
Socrate, Platon, Aristốt… Các sinh viên tìm hiểu và đào sâu tư tưởng Triết học
của các triết gia này, nhờ đó, có thể nắm vững nguồn mạch triết học chi
phối hệ thống triết học lâu dài sau này như thế nào. Chẳng hạn, qua việc học
hỏi, đào sâu tư tưởng Triết học Cổ đại, sinh viên nhận biết được nó có tầm ảnh
hưởng thế nào trên truyền thống Triết học Kinh viện sau này.
3. Triết sử Tây phương Trung cổ
Phụ trách: Cha Phanxicô Xaviê Trần Văn Quảng, C.Ss.R.
Môn học này tiếp nối lịch sử tư tưởng Triết học Thượng
cổ. Sinh viên, với môn học này, đào sâu các vấn đề Triết học cổ cựu dưới viễn tượng
Triết học của thánh Augustinô, Boethius, Anselmô, Bônaventura, và thánh Tôma Aquinô.
Nghiên cứu đào sâu Triết học Trung cổ, sinh viên cũng học biết mối liên hệ mật
thiết giữa Thần học Kitô giáo và Triết học.
4. Triết sử Tây phương Cận đại
Phụ trách: Cha G. Bosco Nguyễn Hữu Thy, O.Cist
Thời
Cận đại – từ cuối thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII – là thời kỳ chuyển tiếp giữa
thời Trung cổ và thời Hiện đại. Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong suốt dòng
lịch sử Triết học nhân loại. Triết học thời Trung cổ – từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII – đặt nặng các
vấn đề siêu hình và các hình thức đượm tính cách giáo điều; nó bị chi phối bởi Thần học
và chịu ảnh hưởng sâu xa quan điểm của giáo lý Kitô giáo. Bước sang thời Cận
đại, khuynh hướng Triết học được lật qua một trang sử hoàn toàn mới: Đề cao con
người, các vấn đề nhân bản và thiên nhiên độc lập một cách cụ thể, loại bỏ khuynh
hướng giáo điều.
Dưới
cái nhìn tổng quát, Triết học thời Cận đại được chia ra làm hai khuynh hướng:
Khuynh hướng duy lý và khuynh hướng duy nghiệm. Theo khuynh hướng duy lý, chân lý không nằm ở
đối tượng được suy tư, nhưng nằm trong tư tưởng của chủ thể suy tư: Tôi có ý
tưởng rõ ràng và phân minh về một cái chi đó thì cái đó phải hiện hữu. Trong
khi, theo khuynh hướng duy nghiệm lại cho rằng người ta chỉ gặp được chân lý qua kinh nghiệm:
không có gì hiện hữu mà không qua các giác quan.
Thời Cận
đại cũng là thời kỳ “cách mạng” trong hầu như mọi lãnh vực, từ suy tư triết học,
văn hoá, chính trị, xã hội, tôn giáo đến địa lý, kinh tế, thiên văn và các ngành
công nghệ. Vì thế, thời Cận đại đã được mệnh danh là Thế kỷ Triết học hay thời kỳ Khai
Sáng: Khoa học như ngọn hải đăng soi dẫn chúng ta đạt được chân lý chắc chắn!
5. Triết sử Tây phương Đương đại
Phụ trách: Cha Giuse Bùi Quang Minh, S.J.
Bắt đầu
cuối thế kỷ XIX, các trường phái Triết học mang tính hệ thống và phổ quát như Duy
lý, Duy nghiệm, Duy tâm và Lãng mạn đã bị phê phán vì những ảnh hưởng tiêu cực
của chúng. Triết học Tây Phương bắt đầu chuyển hướng, nhấn mạnh vào khía cạnh
cụ thể và tiến trình phát triển của thực tại, quay trở về với kinh nghiệm hằng
ngày của cuộc sống, tìm hiểu cách con người khám phá chân lý, và hoài nghi về
khuynh hướng lạc quan trong Triết Cận đại. Phần Triết Hiện đại sẽ bao gồm năm
chủ đề: phê bình tôn giáo (Nietzsche & Kierkegaard), thuyết Thực dụng
(James & Pierce), Siêu hình học mới (Bergson & Whitehead), Triết Phân tích
& Ngôn ngữ (tiền & hậu Wittgenstein), và Triết hiện tượng & Hiện sinh
(Husserl, Heidegger, Sartre). Phần Triết Hậu Hiện đại sẽ khai triển những đóng
góp của Derrida (thuyết Giải trừ cấu trúc) và tác phẩm Tình huống hậu hiện đại
của Lyotard. Môn học này sẽ giúp cho sinh viên có cái nhìn phê phán và thực tế
hơn về những thử thách mà Thần học phải đương đầu hiện nay.
6. Triết học Tôn giáo
Phụ trách: Cha Phanxicô Xaviê Trần Văn Quảng, C.Ss.R.
Môn Triết học Tôn giáo, trong khi tôn trọng bản
chất và sự độc lập của hiện tượng tôn giáo, cố gắng mô tả nó trong bản chất đa
dạng của các tôn giáo khác nhau. Triết học Tôn giáo, vì thế, không khởi đi từ một
xuất phát điểm trừu tượng, cho bằng từ những phản tư trên các kinh nghiệm sống
niềm tin. Các bài giảng trong bộ môn này được sắp xếp theo thứ tự lịch sử, từ
kim đến cổ, tiếp cận những đề tài căn bản trong Triết học Tôn giáo: Thiên Chúa
và điều thần thiêng, đức tin trong hiện hữu con người, kinh nghiệm tôn giáo, lý
tính và ngôn ngữ tôn giáo… Các tác giả được chọn trong các bài giảng này chủ yếu
đến từ truyền thống Kitô giáo, nhưng đồng thời có một định hướng về quan điểm
rõ rệt: Triết học Tôn giáo phải vượt qua một quan niệm duy lý nơi bản chất
nghiên cứu của chính mình.
7. Triết học về Tự nhiên
Phụ trách: Cha Giuse Vũ Đức Nghĩa,
S.D.B.
Bằng
phương pháp riêng của mình, khoa học đã đi sâu vào cấu tạo của vật chất và muốn
định nghĩa lại ý nghĩa của vật chất. Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Duy vật cũng muốn
khẳng định con người chỉ là một sản phẩm ngẫu nhiên của quá trình tiến hoá. Để
trả lại ý nghĩa đúng đắn cho sự hiện hữu của hữu thể vật chất, và để xác định thế nào là một
bản thể tự nhiên,… bộ môn Triết học Tự nhiên sẽ cống hiến cho các sinh viên cơ
hội tìm hiểu tận căn về thế giới vật chất, tức bản chất nội tại, cơ cấu nền
tảng… của hữu thể vật chất trong vũ trụ và tái xác định phẩm vị của hữu thể nhân
linh dưới ánh sáng của Triết học Tân Kinh viện.
8. Triết học về Con người/Nhân luận Triết học
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R.
Vấn
đề: “Con người là ai?” đã là và vẫn còn là một lời hỏi
và một ẩn ngữ chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Mặc dù được tìm hiểu và phân tích
ở nhiều cấp độ cũng như trong nhiều chuyên ngành khác nhau, nhưng huyền nhiệm
con người thực sự sâu thẳm và vượt xa mọi lý giải của những phân tích, kiểm
chứng và những lý luận.
Nội dung khoá học: Truy tìm bản chất và ý nghĩa sâu xa nhất của hiện hữu người để
trả lời câu hỏi “con người là ai?” Đây là
một trong những mục đích chính yếu của bộ môn mà ngày nay đã trở thành một khoa
học với ưu tiên quan trọng nhất: con người và những vấn đề của nó. Không
thể trả lời câu hỏi về huyền nhiệm con người trong một khái niệm ngắn gọn,
chúng ta phải tiếp cận con người dưới những mức độ khác nhau: 1) lược sử tư
tưởng về con người, 2) khai triển một hiện tượng luận về hiện hữu người,
3) tìm hiểu con người ở tầm mức siêu hình, và 4) tiếp cận huyền nhiệm
con người.
Tài
liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Con người – một huyền
nhiệm (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
9. Siêu hình học
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải,
C.Ss.R.
Vấn
đề: Hiểu biết là một trong những nhu cầu căn bản của con
người. Và một trong những cấp độ hiểu biết cao nhất, đó là hiểu biết về căn
nguyên hay cái lý hiện hữu của tồn hữu. Bộ môn Siêu hình học (SHH) nghiên cứu những
vấn đề này; và đối tượng căn bản của SHH là nghiên cứu “hữu thể xét như nó là.”
SHH là nền tảng, vì nó là rường
cột mà trên đó người ta xây dựng các triết thuyết và tùy theo việc người ta
quan niệm nó thế nào mà có những lập trường Triết học khác nhau.
Nội
dung khoá học: Chúng ta giới hạn tìm
hiểu về hữu thể (ens) và hiện hữu (existentia) qua một số khía
cạnh chủ yếu sau: 1) khởi đi những lời hỏi như hữu thể
là gì?, thực tại là gì?, cái gì là những đặc điểm của hữu thể?,
2) chúng ta cố gắng xác định cấu trúc căn
bản của hữu thể (tính thống nhất của hữu thể); 3) tuy nhiên, tính thống nhất của hữu thể lại luôn được đặt trong
một thực tại đa dạng, biến thiên và hữu
hạn, làm thế nào dung hoà hai cực của cùng một vấn đề này?; 4) một nguồn quy
chiếu quan trọng, đó là kinh nghiệm căn
bản của con người về việc hiện hữu và về hữu thể; 5) phân tích một số nét siêu nghiệm
của hữu thể; và 6) bàn luận về bản chất của một số căn nguyên của “hiện
hữu.”
Tài liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Những nẻo đường
của hữu thể (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
10. Tri thức luận/Nhận thức luận
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R.
Vấn
đề: Làm sao chúng
ta nhận biết được thực tại chung quanh mình? Đích
thật “cái gì đó” chúng ta biết là gì vậy? Và cái chúng ta
biết về “cái gì đó” thực sự chính là “cái gì đó” như nó là cái chúng ta
biết?... Những câu hỏi đưa chúng ta đi xa hơn cái-biết, đụng đến cái-làm-thế-nào để biết và làm sao chúng ta chắc thực được cái chúng ta biết là thực
như nó là.
Nội
dung khoá học: Mục đích chính của khoá học nhằm tìm
hiểu cái-làm-thế-nào của nhận thức con người nhìn từ quan điểm Triết học;
tuy nhiên, để bàn luận rõ hơn, chúng ta cũng xét tới một số yếu tố liên quan.
Cụ thể, chúng ta tìm hiểu: 1) bản chất của tri thức; 2) một số quan điểm
về tiến trình nhận thức của con người; 3) một số phương pháp căn
bản của việc truy tìm tri thức trong lịch sử tư tưởng; 4) một số yếu tố biện
minh cho điều chúng ta chấp nhận hoặc nghi ngờ và những tiêu chuẩn nào
chúng ta có thể sử dụng để thu nhận sự thật về thế giới và về hiện hữu của con người.
Tài
liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Nhận thức luận. Triết học về tri
thức của con người (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
11. Giải thích học/Thông diễn học
Phụ trách: Cha Giuse Vũ Liên Minh,
O.F.M.
Giải thích học/Thông diễn học (Hermeneutics)
có lịch sử lâu đời, từ thời triết học Hy Lạp cổ đại. Thời Trung cổ và Phục
hưng, môn học này gắn liền với việc chú giải Kinh Thánh. Nhưng với trào lưu Triết
học mới thời Cận đại và Hiện đại, vấn đề “hiểu” được suy xét dưới nhiều khía
cạnh khác nhau và môn Giải thích học trở thành môn học quan trọng để tiếp cận chân
lý. Môn học này giúp sinh viên tiếp cận các vấn đề “hiểu” trong bối cảnh văn
học, lịch sử và nhân học. Môn học cũng giúp học viên biết đường hướng tiếp cận
chân lý và có được những kỹ năng thực tiễn liên quan đến vấn đề thông diễn. Nói
cách khác, môn học giúp sinh viên có khả năng biện phân trong linh hướng, tư
vấn mục vụ, suy tư triết học và thần học.
12. Triết học về Chính
trị
Phụ trách: Cha G. Bosco Nguyễn Hữu Thy, O.Cist
Xét về mặt ngữ
pháp, người ta có thể nói rằng: khoa Triết học Chính trị là bộ môn được đúc kết bởi hai khoa học khác nhau
– khoa Triết học và khoa Chính trị học – để cấu tạo nên một bộ môn duy nhất, với
mục đích là nhờ ánh sáng của Triết học, người ta có thể nhìn
thấy và nhận chân được bản sắc và ý nghĩa đích thực của Chính trị. Thật vậy, nếu Chính trị được nhìn dưới nhãn quan Triết học, nếu Chính trị được
phân tích một cách Triết học, nghĩa là nếu Chính trị được hiểu đúng theo cái
bản chất cốt lõi của nó, người ta sẽ khám phá ra rằng: tự bản chất đích thực của nó, Chính trị là mối tương quan có tính cách xã hội
đầy ý thức và trách nhiệm hỗ tương giữa các thành phần xã hội với nhau.
Trên thực tế,
Chính trị là một chính sách, là một đường lối cai trị và là một phương thức
điều phối cần thiết trong sứ mệnh an dân trị nước của các nhà chức trách trong
một Nhà nước Dân chủ, được đặt trên nền tảng công minh chính trực, trên sự tôn
trọng đầy đủ và đúng đắn nhân vị, nhân phẩm và các quyền con người mà Đấng Tạo
Hoá đã ban cho mỗi người ngay từ giây phút đầu tiên
sự hiện hữu của họ trên hành tinh này.
Điều đó muốn nói
rằng: một nền chính trị chân chính trước hết là nỗ lực
lo cho xã tắc luôn được thái bình thịnh trị, lo kiến tạo công lý và hoà bình trong xã hội, đề cao các quyền cơ bản của con người. Nếu vậy, nền
chính trị chân chính được khởi động khi con người bị oằn mình gánh chịu đủ thứ
kỳ thị và bất công xã hội, khi những người vô gia cư, những người nhập cư, những
người khuyết tật và những người vì sự xác tín tôn giáo hay ý thức hệ... mà bị
đối xử như những công dân hạng hai và luôn phải hứng chịu mọi thiệt thòi mất
mát trong cuộc sống.
13. Đạo đức học
Phụ
trách: Cha Gioan Nguyễn
Ngọc Hải, C.Ss.R.
Hạnh
phúc con người không chỉ hệ tại trong sự thoả mãn các nhu cầu bản năng nhưng
còn nơi các giá trị đạo đức nền tảng để có một cuộc sống nhân bản. Nhưng các
giá trị đạo đức đến từ đâu? Chúng tương quan với niềm tin tôn giáo như thế nào?
Các tiêu chuẩn đạo đức thì tương đối hay tuyệt đối, chủ quan hay khách quan?
Cuối cùng, tại sao chúng ta “nên” sống đạo đức? Môn học này sẽ giúp sinh viên
nhận thức được những điều kiện phải có trong phán đoán đạo đức, trước khi chúng
ta bước vào các chủ đề của Thần học Luân lý. Ngoài phần lý thuyết, chúng ta sẽ học
cách áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức căn bản như vị lợi, vị kỷ, luật tự nhiên,
bổn phận và nhân đức, để phân tích và phán đoán các trường hợp cụ thể.
14. Triết học Trung Hoa
Phụ trách: GS. TS. Trịnh Doãn
Chính, KHXH-NV
Khi nhắc đến Triết học Trung Hoa, có lẽ chúng ta
cần ghi nhận rằng đây là hệ thống Triết học tuy không sâu sắc bằng hệ thống
triết học Ấn Độ xét về phương diện siêu hình, nhưng nó lại
phong phú hơn, nhiều sắc thái hơn, thậm chí có lẽ hơn cả hệ thống Triết học Hy Lạp. Triết học Trung Hoa không quá chú trọng vào sự giải thoát con người như hệ thống triết học Ấn Độ;
cũng không căn cứ vào sự mạch lạc lý luận hay chú trọng vào sự hiểu biết như
triết học Hy Lạp, nhưng nó căn cứ vào sự hoà hợp của con người với thiên nhiên,
chú trọng vào đối nhân xử thế. Vì vậy, học hỏi, đào sâu môn Triết học Trung Hoa,
sinh viên học hiểu về nhân sinh quan nhiều hơn là những vấn đề khác của Triết học.
Học hỏi Triết học Trung Hoa, sinh viên học biết một nếp sống của con người phương
Đông, một nếp sống giản dị, có trật tự, tuy an mệnh thủ thường mà vẫn có tinh
thần phấn đấu; một nếp sống nhân bản, chú trọng tới toàn diện con người: tình
cảm – Nhân; trí tuệ
– Trí; ý chí – Dũng;
một nếp sống hoà hợp với xã hội và thiên nhiên.
15. Triết học Ấn Độ
Phụ trách: GS. TS. Trịnh Doãn Chính, KHXH-NV
Nếu Triết học Tây phương thiên về tìm tòi chân lý
bằng những lý luận thuần lý hay loại suy thì triết học Ấn Độ
hướng chúng ta đến sự trầm tĩnh suy tư hơn là khảo cứu, lý luận; tri gắn liền
với hành. Nói cách khác, với triết học Ấn Độ, biết không phải để biết, nhưng
biết để đạt tới Trí - Huệ (Prajnâ: Bát - Nhã).
Với môn học này, sinh viên sẽ khám phá một nền Triết
học vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Thống nhất ở
chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể
của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải thoát; một số nguyên
lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở
chỗ, Triết học Ấn Độ chia thành nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; mỗi trường
phái là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
16. Phật giáo
Phụ trách: Cha Đa Minh Lê Đức Thiện, O.P.
Môn học nhằm mục đích giúp sinh viên có thể nắm
bắt một cách cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ qua
các giai đoạn, từ Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo Đại thừa, đồng thời, tìm hiểu một số nội dung quan trọng của triết lý Phật giáo nguyên thuỷ qua
việc tiếp cận các bản Kinh văn. Bên cạnh đó, môn học cũng giúp sinh viên có một
cái nhìn khái quát về các trường phái chính của Phật giáo Đại thừa, cũng như sự
truyền bá và phát triển của Phật giáo bên ngoài Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo
tại Việt Nam.
17. Luận lý học
Phụ trách: TS. Nguyễn Anh Thường, KHXH-NV
Môn học giúp sinh viên có được những kiến
thức cơ bản về mệnh đề, các phép logic, hàm mệnh đề, khái niệm và quan hệ giữa các khái niệm, các công thức,
quy tắc suy luận; các phép suy luận, suy diễn; phương pháp chứng minh, bác bỏ
và giả thích… Nhờ thủ đắc
kiến thức căn bản về logic như thế, sinh viên có thể vận dụng vào đời sống của
mình. Nói cách khác, nhờ nắm bắt những kiến thức căn bản về logic, sinh viên
phát huy khả năng nghiên cứu khoa học về Triết học, Thần học, đồng thời tự học hỏi, trau
dồi năng lực phán đoán, phản biện của mình trong cuộc sống hằng ngày.
- Các môn Triết - Thần
1. Latin
Phụ trách: Cha Mátthêu Vũ Văn Lượng, O.P.
Khoá học này nhằm dạy cho sinh viên tiếng Latin,
ngôn ngữ chính thức của Hội Thánh Công giáo Rôma. Trong khoá học này, sinh viên
được học hỏi về nguồn gốc xuất hiện của tiếng Latin, cách phát âm tiếng Latin của
Hội Thánh, các điểm văn phạm căn bản và nâng cao, các từ vựng, các thuật ngữ
căn bản và quan trọng.
Hơn nữa, qua khoá học này, sinh viên có được trình
độ căn bản về tiếng Latin của Hội Thánh, nhằm giúp tiếp cận được những bản văn
đơn giản và hiểu được các thuật ngữ chuyên ngành của Triết học và Thần học.
Sau cùng, ngoài kiến thức về tiếng Latin mà
sinh viên đạt được qua khoá học này, sinh viên còn gia tăng được khả năng tập
trung và làm việc có hệ thống, phát triển được khả năng lý luận, phán đoán, suy
tư mạch lạc và sâu sắc nữa.
2. Văn hoá Tín ngưỡng Việt Nam
Phụ trách: Cha Anphongsô Trần Ngọc Hướng, C.Ss.R.
Mỗi nền văn hoá đều có những đặc tính riêng biệt. Với tư cách là những người có đức tin, chúng ta đều ý thức rằng: nơi mỗi nền văn hoá đều có sự hoạt động của Thánh Thần để chuẩn bị tâm hồn
con người đón nhận Tin mừng. Với môn Văn hoá Tín ngưỡng Việt Nam, các sinh viên
học hỏi bản sắc văn hoá, tín ngưỡng Việt Nam với những đặc tính riêng biệt của
nó. Sinh viên cũng được học các tầng văn hoá trong nền văn hoá Việt Nam. Việc
học hỏi này giúp sinh viên hướng đến viễn tượng thi hành sứ vụ tương lai: làm
cho các giá trị Tin mừng được thấm đượm vào nền văn hoá Việt Nam.
3. Nhập môn Phụng vụ
Phụ trách: Cha Giuse Đỗ Đình Tư, C.Ss.R.
Môn
học cung cấp cho học viên những kiến thức căn bản về phụng vụ ở ba lãnh vực:
lịch sử, nền tảng thần học và một số cử hành phụng vụ. Với tên gọi “Phụng vụ
nhập môn,” hai lãnh vực đầu được chú trọng và đào sâu hơn lãnh vực thứ ba. Cùng
với những kiến thức trình bày trên lớp, đòi buộc các học viên dành thời gian
đọc kỹ các sách được giới thiệu trong suốt khoá học. Chỉ với đức tin chân chính
và niềm đam mê nghiên cứu, các học viên mới hiểu và sống phụng vụ cách sinh
động, tạo ý thức: “Phụng vụ là môn học chính trong các phân khoa thần học; phải
được luận giải từ những góc nhìn liên quan đến thần học, lịch sử, tu đức và
giáo luật” (x. PV, # 16).
4. Giờ kinh phụng vụ & Năm Phụng vụ
Phụ trách: Cha Giuse Đỗ Đình Tư, C.Ss.R.
Môn
học xây dựng từ hai lãnh vực thuộc phạm vi cử hành: năm phụng vụ và các giờ kinh
phụng vụ. Phần thứ nhất, môn học giới thiệu từ lịch sử đến cử hành năm phụng vụ,
với những điểm nhấn thần học và linh đạo, giúp học viên hiểu “Mẹ thánh Giáo hội
luôn ý thức về bổn phận phải thực hành việc tưởng niệm để cử hành công trình
cứu chuộc của Đấng Phu Quân chí thánh vào những ngày được ấn định trong năm” (x.
PV, # 102). Phần thứ hai, học viên sẽ học hỏi Văn kiện trình bày và
quy định các giờ kinh phụng vụ. Đây là tài liệu Hội Thánh biên soạn cách khoa
học về lịch sử và cách thức cử hành các giờ kinh phụng vụ. Với hai phần tưởng
như không liên hệ, được trình bày xuyên suốt khoá học, sẽ cho học viên thấy mối
liên hệ chặt chẽ và thêm xác tín: Cử hành năm phụng vụ và các giờ kinh phụng vụ
là đang tuyên xưng chính Đức Kitô hiện diện trong Hội Thánh của Người.
5. Phương pháp Nghiên cứu & Biên soạn
Phụ trách: Thầy Giuse Phạm Vũ Phi Hổ & Cha Giuse Quách Minh Đức,
C.Ss.R.
Môn học giúp các sinh viên nắm bắt phương pháp nghiên
cứu có tính hàn lâm. Qua môn học này, các sinh viên có khả năng làm việc trên
lớp học cũng như trong thư viên một cách khoa học và đạt hiệu quả. Cũng qua môn
học này, các sinh viên đạt được sự nhuần nhuyễn tiến trình thực hiện các bài
luận, các bài khảo cứu, tiểu luận, luận văn. Một điều quan trọng khác mà sinh
viên thu lượm được từ khoá học này là khả năng trình bày bài nghiên cứu theo
đúng quy cách học thuật đòi hỏi.
6. Linh đạo Kitô giáo
Phụ trách: Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R.
Môn học được chia làm hai phần chính. Phần I là linh
đạo sử; phần II là linh đạo thực hành. Ở phần I, sinh viên
tìm hiểu
những nét căn bản của linh đạo Kitô giáo bằng cách xem xét các giai đoạn lịch
sử khác nhau của linh đạo Kitô giáo; đồng thời tìm hiểu, phân tích
những chiều kích khác nhau của linh đạo trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thêm vào đó, phần này cung cấp cho sinh viên một cái nhìn bao quát về
các nguồn mạch, những kinh nghiệm thiêng liêng được đúc kết trong dòng lịch sử
của Hội Thánh. Bên cạnh đó, nó cũng giúp cho sinh viên nắm bắt đường hướng trưởng
thành tâm linh, kinh nghiệm về đời sống cầu nguyện để hướng tới chân trời mới
của một đời sống Kitô hữu thấm đẫm những giá trị Tin mừng.
Phần II – Linh đạo thực hành: Dựa trên nền tảng Kinh Thánh, Thần học và truyền thống cũng như kinh nghiệm
thiêng liêng trong Giáo hội Công giáo, sinh viên đào sâu và trau dồi đời sống
nhân bản Kitô giáo và đời sống tâm linh của bản thân. Hơn nữa, phần linh đạo thực hành cũng giúp
sinh viên nắm chắc hành trình tâm linh dưới nhãn giới Kitô giáo cùng với những yếu
tố liên quan mật thiết với đời sống tâm linh, nghĩa là những yêu tố có tính
cách thực hành giúp họ được thăng tiến trong hành trình tâm linh của mình. Cuối
cùng, môn học giúp sinh viên định hình được con đường tâm linh gắn với ơn gọi đặc thù
của người tín hữu Chúa Kitô.
7. Tâm lý Nhân cách
Phụ trách: Cha Gioan B. Phương Đình Toại, M.I.
Môn học giúp sinh viên
biết về mình hầu có thể điều chỉnh hay bổ sung thêm những nét nhân cách của
mình và có thể qua đó cũng giúp biết thêm về người khác trong công việc mục vụ.
Môn
học này gồm 2 phần: (1) Tiến trình và những yếu
tố hình thành nhân cách; 2] Biết và xây dựng một nhân cách lành mạnh.
8. Tâm lý Tư vấn
Phụ trách: Soeur Maria Thécla Trần Thị Giồng, C.N.D.
Môn học này giúp cho sinh viên thêm tự
tin trong việc mục vụ và biết một số kỹ năng hầu có thể giúp đỡ một cách hữu hiệu hơn
cho những người gặp khó khăn... đến tìm sự trợ giúp.
Nội
dung môn học gồm: (1) Một số nguyên tắc
và tiến trình trong việc giúp đỡ; (2) Một số chỉ dẫn cơ bản
trong việc tìm hiểu về con người và vấn đề của
người đến tìm giúp đỡ; 3) Một số kỷ năng cơ
bản trong việc giúp đỡ những ai cần đến khi làm mục vụ.
9. Dẫn nhập Kinh Thánh
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Đình Trí, C.Ss.R.
Môn học này được chia là hai phần: Dẫn nhập Cựu
Ước và Dẫn nhập Tân Ước.
Phần Dẫn nhập Cựu
Ước có mục đích cung cấp cho các sinh viên các kiến thức tổng quát về Kinh
Thánh Cựu Ước và các phương pháp tiếp cận bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Trước hết,
phần này sẽ trình bày các khái niệm quan trọng liên quan đến Kinh Thánh nói chung,
như: Hạn từ “Kinh Thánh,” Ơn Linh hứng, Quy điển, Sự Thống nhất của Kinh
Thánh,… Thứ đến, phần này sẽ cung cấp các kiến thức tổng quát về lịch sử và văn
hoá của dân tộc Isarel qua các thời kỳ khác nhau trong thời Cựu Ước, nhằm giúp
cho các học viên hiểu rõ hơn về bối cảnh và lịch sử hình thành các bản văn Kinh
Thánh Cựu Ước. Tiếp theo, phần Dẫn nhập Cựu Ước sẽ trình bày nội dung tổng quát
của Kinh Thánh Cựu Ước, dựa theo cách phân chia các phần Cựu Ước của Quy điển
Kinh Thánh Công giáo, cụ thể: 1) Ngũ thư; 2) Các Sách Lịch sử; 3) Các Sách Giáo huấn (Nền Văn chương Khôn ngoan); 4/ Các Sách Ngôn sứ. Mục
đích cốt yếu của phần này làm nổi bật những sứ điệp chính của Cựu Ước. Sau
cùng, phân này sẽ trình bày tổng quát về lịch sử và các phương pháp chú giải Kinh
Thánh nói chung, và Cựu Ước nói riêng.
Sang phần Dẫn nhập Tân Ước, sinh
viên có cái nhìn tổng quát về
Kinh Thánh Tân Ước trước khi đi vào tìm hiểu từng tác phẩm cụ thể. Trước hết,
trong phần
này, sinh viên sẽ được trình bày những yếu tố căn bản liên quan đến Tân
Ước, như: bối cảnh chung về lịch sử và văn hoá Do Thái thời Tân Ước; các giai
đoạn hình thành bộ Kinh Thánh Tân Ước; Lịch sử Quy điển Tân Ước; các thể văn
trong Tân Ước; cách sắp xếp các sách trong bộ Tân Ước và ý nghĩa của nó; các
nguỵ thư,… Tiếp đến, phần này cũng trình bày cho sinh viên một số vấn đề khác liên quan đến khoa phê bình Tân
Ước, như: các bản thảo cổ Tân Ước và tình trạng của chúng; một số phương pháp
phê bình hiện đại; vấn đề Đức Giêsu lịch sử;... Sau cùng, phần Dẫn nhập Tân Ước sẽ giúp các sinh viên thấy rõ
hơn sự “ẩn giấu” của Tân Ước nơi Cựu Ước và sự thành toàn của Cựu Ước nơi Tân
Ước. Biến cố Đức Giêsu Kitô (Nhập thể, Đời sống, Lời rao giảng, Cái Chết và Sự Phục sinh của Người) không chỉ là biến cố trung tâm của
Tân Ước mà là trung tâm của cả lịch sử cứu độ.
10. Huấn Giáo và Sư phạm
Giáo lý
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Hồng Phước, C.Ss.R.