Articles by "Những Cây Đại Thụ DCCT"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Những Cây Đại Thụ DCCT. Hiển thị tất cả bài đăng

Cha Giuse Vũ Ngọc Bích dâng Thánh Lễ Đồng tế

Vào chuyện

DÒNG CHÚA CỨU THẾ (DCCT) có mặt tại Việt Nam từ 1925. Chỉ hai năm sau, các cha đã nghĩ tới việc đào tạo nhân sự cho Dòng, các chú đệ tử đầu tiên đã được thu nhận để được gửi học ở Tiểu Chủng Viện An Ninh (4 chú) hoặc tạm thời cho học ở Huế, cư ngụ trong căn nhà lợp tranh ở vườn nhà ông Đốc Sắc (8 chú). Năm 1928, Đệ Tử Viện Huế được chính thức thành lập với vị giám đốc tiên khởi là cha Eugène larouche, một trong ba vị thừa sai đầu tiên sang Việt Nam (hai vị kia là cha Cousineau và thầy Barnabé). Con số các đệ tử chính thức đầu tiên này là 28, trong đó có chú Trần Hữu Thanh, 13 tuổi.

20/7/1954, hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh Đông Dương lần thứ I và chia đôi Việt Nam làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 có con sông Bến Hải làm ranh giới. Cha Giu-se Vũ ngọc Bích được Bề Trên chỉ định ở lại Hà Nội, cùng với hai linh mục Canada và hai tu sĩ người Việt, giữa lúc tất cả các linh mục của các dòng tu đều đã rời Hà Nội. Lần lượt hai cha Canada được yêu cầu rời khỏi miền Bắc và hai tu sĩ người Việt qua đời trong trại cải tạo, một mình cha Bích đã kiên cường nhẫn nại giữ đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Thái Hà, nay thuộc quận Đống Đa thành phố Hà Nội.

Lúc này đây, hai cha Vũ Ngọc Bích và Trần Hữu Thanh đã ở tuổi gần 90 (chú thích của DIA: tính vào năm 2003 khi tác giả ghi lại) đang sinh sống tại cộng đoàn DCCT Hà Nội. Thân xác các ngài đau nhức và mệt mỏi vì bệnh tật và tuổi tác, nhưng trí óc vẫn minh mẫn, bộ nhớ ghi rõ nét từng ngày tháng, từng sự kiện, của Dòng Thánh, của Giáo Hội, của Quê Hương. Câu chuyện của hai cha sẽ là những thước phim quý giá ghi lại những năm tháng đã qua. Tất cả đã là dĩ vãng, đơn thuần chỉ còn là những bài học cho hậu thế. Người kể cũng như người nghe chỉ còn biết tạ ơn và cậy trông vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Với hồng ân của Ngài, Ngài đang dẫn dắt Tỉnh DCCT Việt nam, trong yêu thương ân cần.

Xin mời hai cha vào chuyện…

Hà Nội, những ngày sau Tết Quý Mùi 2003.

Cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn (1922–1975) 

Linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn sinh năm 1922, tại làng La Phù, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thủ đô Hà Nội), thuộc giáo phận Hà Nội, vào Dòng Chúa Cứu Thế tại Hà Nội và thụ phong linh mục năm 29 tuổi, tức vào năm 1951. Vì vào thời điểm này, Dòng đang có chương trình “Việt Nam hóa” đội ngũ giảng dạy tại Học Viện của Dòng, nên ngay sau khi được thụ phong linh mục, năm 1952, cha Nguyễn Thế Thuấn được cử đi du học tại Roma, kế đó, sang học tại trường Thánh Kinh Giêrusalem trong vòng 4 năm (1952–1956). Về nước, cha được cử dạy môn Thánh Kinh tại Học viện của Dòng ở Đà Lạt. Cuộc đời của cha từ nay như bị chôn chặt trong tòa nhà được xây bằng đá trên một trong những quả đồi cao nhất của Đà Lạt, trên đường từ thành phố đi Suối Vàng, bị gắn liền với công việc giảng dạy Thánh Kinh bề trên giao phó và với việc dịch Thánh Kinh cha đã đề ra cho mình.

Cha giáo Thánh Kinh

Những năm ngay sau khi đi du học về, xem ra cha chưa thích nghi được với “xã hội” xung quanh, suốt ngày chôn mình trong phòng với sách vở, thường gắt gỏng, khó chịu với những ai tới xin trao đổi với cha về bài vở như sợ người ta đánh cắp mất thời giờ quý báu của mình. Xem ra Chúa cũng đã không dành cho cha nhiều ưu đãi lắm về mặt “ngoại hình”: một chiều cao dưới mức trung bình của một người Việt Nam bình thường, một cái giọng the thé nhiều khi làm chói tai người nghe. Nhưng không ít người có dịp nghe cha giảng lễ hay giảng bài đã phải thừa nhận rằng cha có một sức hấp dẫn đặc biệt: đằng sau hay xuyên qua cái “chói tai” của giọng nói và của ngôn ngữ sử dụng ấy lại là sự lay tỉnh “lật ngược lòng trí” của Lời Chúa, sức thôi thúc của “Bài giảng trên núi”, quyền năng không gì cưỡng lại nổi của Thiên Chúa từ lòng dạ “son sẻ”, sức sống mới từ cái chết trên thập giá… một số trong những chủ đề ưa thích của cha và gây ấn tượng trên người nghe thời ấy.

Thời ấy vốn là thời của Công Đồng chung Vatican II đang được tiến hành. Bầu khí Học viện, và của Giáo hội Việt Nam nói chung được hâm nóng với những phong trào “canh tân phụng vụ”, “trở về nguồn” và nhất là phong trào “Thánh Kinh”. Thế là cha giáo Thánh Kinh gặp thời: mỗi ngày mỗi có thêm nhà dòng, tu viện, giáo xứ đến mời cha tới giảng dạy Thánh Kinh. Tại Học viện của dòng, môn Thánh Kinh, từ niên khóa 1961–1962, được giảng dạy ngay từ Triết I, và do chính cha phụ trách. Cha buộc phải ra khỏi phòng, khỏi nhà dòng nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày hơn, và do đó cũng có dịp tiếp xúc với nhiều người, trực tiếp đụng chạm tới nhiều vấn đề cụ thể của Giáo hội và cuộc xã hội. Cái tính khí “khó khăn” biến mất lúc nào không hay. Cha trở thành con người dễ tiếp cận. Có thể là qua thực tế, cha đã nghiệm ra được rằng thời giờ Chúa ban không phải dành cho riêng cho mình mà còn để chia sẻ cho người khác nữa.

Tác giả của bản dịch Thánh Kinh

Cha cũng đã từng giữ chức Giám học Học viện và bề trên nhà dòng Chúa Cứu Thế tại Đà Lạt. Nhưng ai cũng thấy, những chức tước này chẳng thay đổi gì nhiều trong cung cách sống, trong cách xử sự, hay trong trật tự ưu tiên của công việc: vẫn là một cha giáo Thánh Kinh say sưa với sách vở, với lớp học và nhất là với việc dịch Thánh Kinh. Cha đã bắt đầu với Thánh Kinh Tân Ước. Bản dịch Tân Ước của cha đã được xuất bản, sau đó, được sửa chữa và được tái bản, vào những năm 1960. Song song với việc chỉnh sửa bản Tân Ước, cha cũng đã bắt đầu dịch bộ Thánh Kinh Cựu Ước, nhưng tiếc thay, đã không có đủ thời gian để hoàn tất. Chỉ còn cách đích mấy bước thì cha đã vội ra đi. Cha tử nạn ngày 28-3-1975 tại Di Linh, tỉnh Lâm Đồng hiện nay, vào dịp được mời về giảng tĩnh tâm mùa Chay và chuẩn bị Phục sinh cho giáo xứ Di Linh.

Nhưng Thiên Chúa đã không để cha phải “chết lần thứ hai”: một số anh em trong Dòng đã bỏ trọn gần hai năm trời để làm nốt những gì cha còn để lại: tiến hành việc xin phép xuất bản Thánh Kinh trọn bộ Cựu và Tân Ước, chuyển bản thảo từ Đà Lạt về thành phố Hồ Chí Minh, dịch các cuốn cha chưa kịp dịch (sách Gióp, Châm ngôn, tiên tri Baruc), soạn các tiểu dẫn từ các tư liệu cha đã chuẩn bị để phục vụ cho việc giảng dạy Kinh Thánh, thêm một số ghi chú, đánh máy bản thảo để nộp Cục xuất bản, và in, với số lượng 10.000 bản.

Và thế là mùa Giáng sinh năm 1976, người công giáo Việt Nam đã có thể có thêm một bản dịch Thánh Kinh trọn bộ mới, dày khoảng 3.000 trang (hai phần dẫn nhập Cựu Ước và Tân Ước 88 trang, phần Cựu Ước: 2318 trang, phần Tân Ước 616 trang) khổ 20 x 14cm, được in trên giấy bible, tức loại giấy vàng, mỏng và dai, thường được dùng để in sách Thánh Kinh. Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chuẩn ấn ngày 12.11.1975, giấy phép của Bộ Thông Tin Văn Hóa – Cục Báo Chí Xuất Bản số 92/GPNT/XB – ngày 13/11/1975, nộp lưu chiểu tháng 12.1976.

Cũng xin giới thiệu một đôi hàng về bản thảo bản dịch trọn bộ Thánh Kinh cha Nguyễn Thế Thuấn đã để lại. Bước vào phòng ở và làm việc của cha để thu dọn bản thảo, người học trò của cha có cảm giác như được bước vào nơi thân quen nhất của cha giáo Thánh Kinh. Bầu khí làm việc trong âm thầm, lặng lẽ, kiên trì như vẫn còn bao trùm cả căn phòng giản dị nhưng chứa đầy vết tích của suy tư, tìm kiếm khoa học. Các bản thảo được xếp ngay ngắn, thứ tự trong một cái bàn rộng, có nhiều ngăn. Bản thảo của từng cuốn sách thuộc Cựu Ước được đóng riêng, theo cùng khổ giấy, 20x40cm. Mỗi trang giấy, được viết một mặt, đều được chia thành ba cột. Cột giữa dành cho từng câu của bản dịch đã hoàn chỉnh. Cột bên trái ghi các từ quan trọng trong câu và các nghĩa của các từ này. Cột bên phải ghi các chú thích về từ ngữ. Cha dùng giấy bao xi măng để làm bìa cho các bản thảo. Tất cả đều được viết bằng tay. Bên cạnh đó là một tủ đựng các phiếu được xếp trong những ngăn nhỏ. Mỗi phiếu là một câu, một cụm từ, một từ với những giải thích hay chú giải của nhiều tác giả khác nhau…

Mối thiện cảm và lòng tin tưởng trong 35 năm qua độc giả dành cho bản dịch Thánh Kinh của cha Nguyễn Thế Thuấn hẳn là phần thưởng quý báu của nỗ lực cần cù, kiên nhẫn, kính cẩn đối với Lời Chúa và của lòng yêu kính đối với Giáo hội Việt Nam của cha.

Nguồn: https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/chan-dung-lmvn-giuse-nguyen-the-thuandong-chua-cuu-the-43189 (trong loạt bài viết "Chân dung linh mục Việt Nam" nhân Năm Linh Mục 2010)

Cách đây đúng 40 năm, Giáo Hội chọn năm 1983 là: NĂM  THÁNH  CỨU  ĐỘ (dịp kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu chịu chết trên Thánh Giá cứu chuộc nhân loại).

Với giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế, dưới sự dẫn dắt của Cha Cố Phêrô Nguyễn Hoàng Diệp và Cha Cố Micaen Nguyễn Đình Lành, con cái giáo xứ Mẹ được muôn vàn Ân Sủng của Chúa... Nhiều gia đình lơ là, bỏ Đạo được ơn trở lại. Nhiều người chưa biết Chúa được lãnh nhận đức tin... Nhiều hội đoàn trong giáo xứ học hỏi, tìm hiểu về Năm Thánh để hiểu biết và chuẩn bị cho tâm hồn đón nhận cách sốt sắng hơn...

Riêng có một sự kiện mà tôi biết:

Chị Bé, nhà ở dưới Nghẹo (ngã ba Bánh Bèo) đi lên một đoạn.

Chị là tân tòng được Ơn Chúa và theo Đạo. Chị rất sốt sắng. Hằng ngày đi đến nhà thờ dự lễ một thời gian dài, cho đến lúc bị bệnh ung thư nặng không còn đi được nữa.

Thế là hằng tuần và các ngày lễ trọng, Cha Cố Micaen đều đặn đến nhà chị thăm và cho chị xưng tội, rước Lễ.

Một hôm, khoảng 2 giờ khuya, có người báo là chị Bé đang hấp hối, Cha già Micaen liền mặc Áo Dòng, chuẩn bị Dầu Thánh và Của Ăn Đàng, trong lúc đó, ngài nhờ tui lấy xe Honda để sẵn...

Cha già chạy xe đến xức dầu cho chị ...

Xong mọi sự, ngài trở về lại Nhà Dòng, nhưng khi chuẩn bị hướng vào nhà bếp, thì Cha già bị 2-3 anh công an phường Vĩnh Lợi (giờ là phường Phú Nhuận) mật phục chặn xe lại, và mời ngài về đồn công an gần đó.

Họ hỏi:

- Linh mục đi đâu, làm gì, gặp ai... giờ này?

Cha Micaen:

- Tôi đi xức dầu bệnh nhân, ở Nghẹo...

Họ không biết xức dầu là gì, nên không tin... Tra hỏi cả tiếng đồng hồ mà vẫn không được, họ liền đưa Cha già về Nhà Dòng nhưng xe, và chìa khoá phải giao cho bên công an giữ. Cha già chỉ mở cửa chỗ hướng nhà bếp, họ lấy chìa khoá mở rồi cùng với Cha đi vào nhà khách.

Họ bảo:

- Trong nhà còn có ai nữa không?

Cha già:

- Có Cha Hoàng Diệp ở trên lầu.

Họ nói:

- Linh mục mời xuống đây được không?

Cha già liền tới nơi để chuông, đánh (keng-keng) hiệu lệnh của Cha Hoàng Diệp.

Khoảng mấy phút sau, Cha Hoàng Diệp có mặt tại nhà khách, và chưa để ai hỏi hay nói gì, Cha Hoàng Diệp tinh ý, biết ngay sự việc, nên lên tiếng hỏi Cha già:

- Cha xức dầu cho chị Bé sao rồi, chị có khỏe không?

Cha già liền quay sang các anh công an và nói:

- Đó, lời chứng của linh mục Diệp, các anh đã tin chưa.

Thế là họ xin lỗi vì đã làm phiền và xin phép về.

[…]

Mới đó mà đã 40 năm rồi, cả người xức dầu và người lãnh nhận đều không còn nữa.

Các ngài ở Trên Nước Trời xin nhớ đến và chuyển cầu cùng Chúa cho mọi người chúng con .

Amen.

(Biên tập lại từ facebook của một giáo dân Gx. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế)

         

        Sáng nay, vào lúc 6g00 ngày 09/12/2022, Cha Giám Tỉnh DCCT Việt Nam Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã chủ tế Thánh lễ an táng Cha Giuse Nguyễn Văn Lộc tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 38 Kỳ Đồng. Cùng đồng tế có khoảng 160 linh mục trong và ngoài Nhà Dòng. Rất đông nam nữ tu sĩ, anh chị em Hướng Đạo Sinh, giáo dân cùng thân nhân, bạn hữu của Cha Giuse.

        Trước khi bắt đầu Thánh lễ, Cha Phó Giám Tỉnh Đaminh Nguyễn Đức Thông đọc thư phân ưu của Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Ngài chính là người đã giảng lễ tạ ơn cho Cha Giuse Tiến Lộc, tại Gx. Tùng Lâm vào ngày lễ mở tay. Thánh lễ tiếp tục diễn tiến trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì cuộc đời “phi thường” của Cha Tiến Lộc trong việc phục vụ Chúa và Hội Thánh. Trong bài giảng, Cha Giuse Lê Quang Uy, là con thiêng liêng của Cha Tiến Lộc đã chia sẻ Tin Mừng Gioan 19,28-30. Tâm tình của Cha Quang Uy nhấn mạnh đến con đường gian nan, vất vả mà Cha Tiến Lộc phải trải qua, trong tư cách là tu sĩ, linh mục DCCT. Một lần nữa, bài ca “Gặp gỡ Đức Kitô” của Cha Tiến Lộc lại như “vận” vào chính cuộc đời của Ngài. “Đường trắng xóa cát đá, lộ trình xa ôi thật xa. Đường nguy nan phong ba, đơn độc đấu trang kiệt ngã”. Phiên khúc hai của bài hát như là bản phác họa cuộc đời Cha Tiến Lộc. Tuy nhiên, cuối cùng lời bài ca lại gợi lên niềm hạnh phúc lớn lao khi được gặp Đức Kitô. “Kìa bỗng Chúa hiện đến, nhẹ tay nâng con lên. Ủi an như mẹ hiền, chính Ngài Chúa bình an”. Cha Giuse đã được bình an trong tay Chúa, theo đúng kế hoạch mà Thiên Chúa đã dự định cho ngài. Bài hát hiệp lễ Mong Chờ Giêsu của Cha cố Mátthêu Vũ Khởi Phụng, được quý Thầy Học Viện DCCT hát cũng gợi lên một hình ảnh rất đẹp của kẻ tin luôn mong chờ gặp Giêsu. Phiên khúc 4: “Người ở đâu man mác bốn phương trời. Dặm ngàn trời mây muôn hoa lá mong. Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu. Maranatha. Maranatha. Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.” Hằng đêm, Cha Giuse vẫn khêu ngọn đèn của đức tin để chờ đợi Giêsu và hôm nay ngài đã gặp được Giêsu.
        Cuối Thánh lễ, Cha Phó Giám Tỉnh đại diện Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam thay lời cảm ơn cho Nhà Dòng và thân nhân. Cha Đaminh nhắc đến sự hiệp thông chia sẻ của Đức Hồng Y, quý Đức Cha các giáo phận, quý bề trên các hội dòng, quý linh mục tu sĩ và sự hiện diện đặc biệt của anh chị em Hướng Đạo Sinh. Cha Đaminh nêu lên sự quan phòng đặc biệt của Thiên Chúa trên cuộc đời Cha Giuse. Sự quan phòng đó thể hiện ở việc Thiên Chúa luôn luôn mong điều tốt nhất cho con người, vì ngay chính Con Một, Người cũng ban cho chúng ta. Cụ thể nhất là trong những ngày vừa qua, khi Cha Giuse nằm xuống, quý Đức Cha, quý linh mục tu sĩ, anh chị em Hướng Đạo Sinh đến dâng lễ, cầu nguyện hầu như không ngớt. Chính Hội Thánh địa phương đã đón nhận Cha Giuse, để Cha Giuse có điều kiện hoàn thành tốt đẹp nhất cuộc đời của một tu sĩ, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế.
        Sau nghi lễ Tiễn biệt, Cha Giuse đã được tiễn đưa tới nơi hỏa táng Bình Hưng Hòa. Nhìn dòng người tiễn đưa, chúng tôi hiểu được sức ảnh hưởng của ngài tại Việt Nam, nhất là Miền Nam Việt Nam. Xin cho những gì trong đức tin và sứ mạng thừa sai của Nhà Dòng trao phó cho ngài, sẽ là hạt giống tiếp tục trổ sinh hoa trái trong tâm hồn muôn người.
Lm. Anphongsô Trần Ngọc Hướng, DCCT
Học viện Thánh Anphongsô