Articles by "Catholic News"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Catholic News. Hiển thị tất cả bài đăng

 

WHĐ (22.10.2023) – “Tham gia, trách nhiệm, và quyền bính: Đâu là những tiến trình, cấu trúc và cơ chế nào trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?” là chủ đề của bài suy tư thần học do linh mục Dario Vitali, Điều phối viên của các chuyên gia thần học và cũng là Giáo sư Khoa Thần học tại Đại học Giáo hoàng Gregorian trình bày trong phiên họp khoáng đại thứ XII giới thiệu phần B3 của Tài liệu Làm việc vào hôm thứ Tư ngày 18.10 vừa qua.

SUY TƯ THẦN HỌC CỦA CHA DARIO VITALI

TẠI PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ XII

THAM GIA, TRÁCH NHIỆM, VÀ QUYỀN BÍNH: ĐÂU LÀ NHỮNG TIẾN TRÌNH, CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ NÀO TRONG MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH MANG TÍNH SỨ MẠNG?

1. “Trong Đức Kitô, Giáo Hội như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất giữa loài người” (LG 1).

Tôi lấy trích dẫn này làm khuôn khổ để kết cấu suy tư thần học về điểm B.3, vốn tập trung vào “Tham gia, trách nhiệm, và quyền bính”. Sự tham gia trước hết được Công đồng Vatican II nhấn mạnh thực ra không phải là sự tham gia của các cá nhân, mà là của toàn thể Giáo hội, được hiểu Dân Chúa trên hành trình hướng tới việc hiện thực hóa Nước Chúa. Chưa bao giờ như hiện nay - tôi muốn ám chỉ những ngày bi thảm này khi hòa bình dường như bị treo lơ lửng - nhân loại lại cần đến chứng từ mạnh mẽ và thuyết phục của một Giáo hội vốn là dấu chỉ và khí cụ hòa bình giữa các quốc gia. Như lời của Đức Thánh Cha Phanxicô, “một Giáo hội hiệp hành giống như một biểu ngữ được giương cao giữa các dân nước (x. Is 11,12)...  Là một Giáo hội ‘sánh bước’ cùng con người, tham gia vào những khó khăn của lịch sử, ấp ủ giấc mơ rằng việc tái khám phá phẩm giá bất khả xâm phạm của con người và chức năng phục vụ của quyền bính cũng có thể giúp xã hội dân sự tự xây dựng trong công lý và tình huynh đệ, tạo ra một thế giới tươi đẹp hơn và xứng đáng hơn cho các thế hệ mai sau”.

Một Giáo hội hướng ra bên ngoài, một “bí tích cứu độ phổ quát” cho thế giới (LG 48), luôn được mời gọi trở thành và nghĩ về chính mình trong nội tâm như “bí tích của sự hiệp nhất cứu độ phổ quát này” (LG 9). Nhưng liệu phạm trù này, vốn giải thích chắc chắn chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội, có thể được áp dụng cho các chủ đề như “sự tham gia, trách nhiệm, quyền bính” chăng? Chương I của Hiến chế Lumen Gentium đã mở ra những chân trời quan trọng theo hướng này. Số 7 có nói rằng “trong việc xây dựng nhiệm thể Đức Kitô có sự đa dạng về các thành viên và chức năng”.

2. Nhưng chính trong Chương II của Hiến chế, các chủ đề về tham gia có một diện mạo cụ thể, khởi đi từ việc mô tả Giáo hội như là Dân Chúa, “giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh, những người xưa chưa phải là một dân, nay đã là dân của Thiên Chúa” (LG 9).

Tất cả chúng ta đều biết rằng chương về Dân Chúa tiêu biểu cho “cuộc cách mạng Copernic” trong giáo hội học công đồng. Việc xen kẽ chương về Dân Chúa trước chương về Phẩm trật đã phá vỡ kim tự tháp giáo hội được xây dựng qua nhiều thế kỷ: đi trước các chức năng là phẩm giá của người đã lãnh phép Rửa; đi trước những khác biệt vốn thiết lập các phẩm trật, là sự bình đẳng của con cái Thiên Chúa. Danh hiệu lớn nhất của Giáo hội không phải là giáo hoàng, giám mục, linh mục, hay người được thánh hiến, mà là con cái Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là những người con trong Chúa Con, được hiệp nhất bởi mối dây huyết thống đến từ Chúa Thánh Thần. Khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi người không có nghĩa là phủ nhận những khác biệt: Giáo hội là nhiệm thể của Đức Kitô, sống động và xinh đẹp vì có nhiều hồng ân, đặc sủng, thừa tác vụ và ơn gọi khác nhau.

Nguyên tắc quy định sự phong phú của các ân sủng, đặc sủng, và thừa tác vụ trong thân mình giáo hội được Công đồng thể hiện trong mối tương quan giữa “chức tư tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác hoặc phẩm trật” là những hình thức tham gia riêng biệt vào chức tư tế của Đức Kitô (LG 10). Điểm mới lạ của đoạn văn này mang tính đột phá vì sự lựa chọn đảo ngược hai chủ thể đang diễn ra: đặt chức tư tế cộng đồng trước chức tư tế thừa tác có nghĩa là phá vỡ mối tương quan bất đối xứng về quyền bính-vâng phục đã cấu trúc nên Giáo hội kim tự tháp. Sau đó, việc khẳng định hai hình thức tham gia vào chức tư tế của Đức Kitô được quy hướng về nhau có nghĩa là nhìn nhận sự đa dạng bổ sung cho nhau của chức tư tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác, chứ cả hai không thể giản lược vào nhau.

Trong mối tương quan này, một không gian rất rộng mở ra, mà các thừa tác viên chức thánh không thể và không nên chiếm giữ. Nhưng các thừa tác viên chức thánh thì phục vụ dân thánh của Thiên Chúa, những người sau cùng thì cũng trở thành chủ thể tích cực của đời sống giáo hội.

3. Nhưng nói Giáo hội là Dân Chúa không giải quyết được toàn bộ vấn đề, cũng không bảo đảm một cuộc cải cách Giáo hội mà không đau đớn. Điều này được chứng minh bằng cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra trong giai đoạn ngay sau Công đồng về giáo hội học của Vatican II, vốn đối đầu đặc sủng và thể chế, “Giáo hội từ bên dưới và Giáo hội từ bên trên”, Dân Chúa và hàng giáo phẩm.

Giáo hội xét như Dân Chúa một đàng giải thích sự nhấn mạnh nền giáo hội học hiệp thông, chủ yếu tập trung vào khía cạnh hiệp thông mang tính phẩm trật, điều mà theo thời gian đã tạo ra một “sự tập quyền” thực sự của Giáo hội; đàng khác, Giáo hội xét như Dân Chúa dấy lên lo sợ rằng tính hiệp hành, được hiểu là “cuộc hành trình cùng nhau” của Dân Chúa, sẽ tạo thành một sự thay thế cho nguyên tắc hiệp thông. Thực ra, tính hiệp hành không gì khác hơn là sự hiệp thông của Giáo hội với tư cách là Dân Thánh của Thiên Chúa. Tính hiệp hành và hiệp thông có thể được xác định, với điều kiện là chúng ta hiểu Giáo hội là Dân Chúa đang trên hành trình.

Chính trong Giáo hội hiệp hành mà tất cả các chiều kích hiệp thông đều tìm thấy tư cách công dân: hiệp thông Ba Ngôi, hiệp thông các tín hữu, hiệp thông các Giáo hội, hiệp thông các thánh. Các Mục tử phục vụ Giáo hội này trong một sự hiệp thông có tính phẩm trật được điều hành bởi sự phục vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma, người mà - theo lời của Đức Thánh Cha Phanxicô - "tự thân, không đứng trên Giáo hội, mà ở bên trong Giáo hội như một người đã lãnh phép Rửa giữa những người đã lãnh phép Rửa và ở bên trong giám mục đoàn như một giám mục giữa các giám mục, đồng thời với tư cách đấng kế vị thánh Phêrô, ngài được gọi để hướng dẫn Giáo hội tại Roma vốn chủ trì tất cả các Giáo hội trong tình yêu thương" (Diễn từ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục).

4. Với các chủ đề của mình, Module B.3 chỉ ra cách thức để khởi động việc đổi mới các tiến trình, cơ cấu, và thể chế trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng, với sự tiếp nhận ngày càng sâu rộng khuôn khổ giáo hội học do Công đồng Vatican II thiết kế. Chính trên mối tương quan chặt chẽ tồn tại giữa Dân Chúa, Giám mục đoàn, và Giám mục Rôma mà mỗi người, với chức năng của mình, thiết lập Giáo hội hiệp hành như là “Giáo hội lắng nghe”: “Các tín hữu, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma: người này lắng nghe người kia; và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14, 17), để biết Ngài ‘nói gì với các Giáo Hội’ (Kh 2, 7)”.

Ước muốn bảo đảm các chức năng tương ứng của các chủ thể này đã dẫn đến việc biến Thượng Hội đồng từ một sự kiện thành một tiến trình. Sự lựa chọn này không từ chối, nhưng hội nhập vào một cơ quan hiệp nhất cao hơn do Đức Phaolô VI thiết lập, mà trong đó Đức Thánh Cha có ý trao cho các giám mục “khả năng tham gia một cách rõ ràng hơn và hiệu quả hơn vào chức vụ chăn dắt của Ta đối với Giáo hội hoàn vũ” (Tự sắc AS). Phù hợp với tất cả nền giáo hội học của Công đồng, thì bước tiếp theo cần thực hiện như đã được Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố đó là: Làm thế nào “Thượng Hội đồng Giám mục, đại diện của hàng giám mục Công giáo, trở nên sự diễn tả tính hiệp đoàn giám mục bên trong một Giáo hội hiệp hành hoàn toàn?” (Diễn từ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục). Điều này chỉ có thể khả thi khi nhìn nhận tất cả các chủ thể trong đó thân mình giáo hội được kết nối. Trong tiến trình hiệp hành, Dân Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma thực thi các chức năng mang tính giáo hội cụ thể của mình, tạo nên tính hiệp hành, tính hiệp đoàn, và tính tối thượng trong sự hiệp nhất năng động.

5. Tiến trình Thượng Hội đồng này diễn ra thông qua một động lực kép, bổ sung cho nhau trong chuyển động: kêu gọi và triệu tập.

Kêu gọi: Tiến trình Thượng Hội đồng có thể diễn ra trong Giáo hội bởi vì Giám mục của Rôma gọi tiến trình này tương đương với hoạt động hiệp hành. Hoạt động ban đầu này phù hợp với đặc quyền của Giám mục Rôma, “nguyên tắc hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất” của tất cả những người đã lãnh phép Rửa, của tất cả các giám mục, và của tất cả các giáo hội. Chính vị Giám mục Rôma “bảo toàn quyền tối thượng của ngai tòa Phêrô đứng đầu toàn thể cộng đoàn đức ái, bảo toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy không làm phương hại, trái lại còn phục vụ cho sự hiệp nhất” (LG 13). Để phục vụ sự hiệp nhất của Giáo hội, ngài triệu tập, chủ trì và xác nhận Thượng hội đồng, tương tự như cách ngài triệu tập, chủ trì và xác nhận công đồng đại kết (x. LG 22). Giám mục Rôma là người thiết lập chủ đề của Thượng hội đồng, khởi xướng tiến trình của Thượng hội đồng, đồng hành với tiến trình thông qua Ban Thư ký Thượng hội đồng, và kết thúc tiến trình Thượng hội đồng.

Theo lời kêu gọi này, tiến trình triệu tập bắt đầu, với sự tham gia của toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội, khởi đi từ các giáo hội địa phương. Điều này dựa trên nguyên tắc giáo hội học được Công đồng Vatican II tuyên bố, trong đó khẳng định rằng Giáo hội là “thân thể của các giáo hội”, chính nhờ và trong các giáo hội ấy mà có một Giáo Hội công giáo, duy nhất (LG 23).

Theo nguyên tắc này, mỗi Giám mục, với tư cách là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trên phần Dân Chúa (portio Populi Dei) được trao phó cho mình (x. LG 23), chịu trách nhiệm khai mở tiến trình hiệp hành trong Giáo hội của mình. Chính vì được Giám mục triệu tập, nên việc thỉnh ý trong các giáo hội địa phương là một cuộc thỉnh ý thực sự đối với Dân Chúa, chủ thể của cảm thức đức tin. Đây là lý do tại sao trong giai đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng, việc lắng nghe từng phần Dân Chúa xảy ra đồng thời với việc lắng nghe toàn thể Dân Chúa đang sống và bước đi trong các giáo hội.

Sẽ không có sự thỉnh ý Dân Chúa trong các giáo hội địa phương nếu vị Mục tử không khởi xướng việc đó, vì thế, các giám mục thực sự tham gia ngay từ đầu và đóng một vai trò cần thiết và không thể thay thế trong tiến trình hiệp hành. Do đó, điều hiển nhiên là không có mâu thuẫn giữa chiều kích hiệp hành và chiều kích phẩm trật của Giáo hội: cái này bảo đảm cho cái kia và ngược lại, với Giáo hội là một “‘bí tích hiệp nhất’, một dân tộc được quy tụ và cai quản dưới sự hướng dẫn của các giám mục” (SC 26).

6. Do đó, tiến trình Thượng Hội đồng là một dịp đặc biệt để thực hành cả tính hiệp hành lẫn tính hiệp đoàn, vì nó đảm bảo việc thực hành hiệu quả cảm thức đức tin của Dân Chúa cũng như khả năng phân định của các Mục tử. Do hoạt động hiệp hành mà Giám mục Rôma đã triệu tập toàn thể Giáo hội, các giám mục trên toàn thế giới cùng nhau thực hiện chức năng phân định của mình ở các giai đoạn trung gian của tính hiệp hành và hiệp đoàn. Sự phân định của các Hội đồng Giám mục và các hội đồng công nghị, khi được áp dụng vào việc thể hiện cảm thức đức tin của Dân Chúa, không phải là một hoạt động mục vụ thuần tuý mà còn là “một biểu hiện của tính hiệp đoàn giám mục trong một Giáo hội hiệp hành” (Diễn từ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục), trong phạm vi các giám mục thực sự thể hiện qua những hành động này “sự hiệp thông với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô” trong việc thi hành chức năng phân định (LG 25).

7. Do đó, chúng ta có thể kết luận bằng việc tái khẳng định rằng Thượng Hội đồng là “địa điểm” và “không gian” đặc quyền để thực thi tính hiệp hành, vốn không nhấn mạnh vai trò đơn phương của Dân Chúa hoặc của các Mục tử, mà đến vai trò của mọi chủ thể - Dân Chúa, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma - thể hiện tính hiệp hành, tính hiệp đoàn, và tính tối thượng trong sự hiệp nhất năng động. Với những đặc điểm độc đáo này, tiến trình Thượng Hội đồng có thể được hiểu như là cách thực thi tính hiệp hành cách tinh tế nhất trong Giáo hội Công giáo.

Đây là điểm khởi đầu cho việc xem xét lại các thể chế giáo hội. Một công việc như đã được giải thích trong Tông hiến Praedicate Evangelium, là cân nhắc lại việc phục vụ Giáo hội của Giáo triều Rôma dựa trên giải pháp hiệp hành. Sự cân nhắc này đặt nền trên mô tả của Công đồng về Giáo hội như là “thân thể của các giáo hội”, “chính nhờ và trong các giáo hội ấy mà có một Giáo hội công giáo, duy nhất” (EP 6); đây cũng là nguyên tắc chi phối toàn bộ tiến trình hiệp hành, đó là thay vì đưa ra những cải cách riêng lẻ cần nêu ra các tiêu chí cải cách.

Trước hết, trên phương diện thần học: cần suy nghĩ lại về Giáo hội theo giải pháp hiệp hành, để toàn bộ Giáo hội và mọi thứ trong Giáo hội – đời sống, các tiến trình, các thể chế - được cân nhắc lại theo chiều kích hiệp hành.

Thứ đến, trên phương diện thể chế: cần bảo đảm cho Giáo hội “không gian” để thực hành tính hiệp hành. Theo ý kiến của diễn giả, điều này tương đương với việc bảo vệ Thượng hội đồng như một cơ quan phục vụ một Giáo hội hiệp hành theo thể chế. Nếu không có Thượng Hội đồng thì việc thực thi tính hiệp hành cuối cùng sẽ tan rã thành hàng ngàn dòng suối và tạo ra một vũng lầy thực sự, làm chậm lại, nếu không muốn nói là ngăn cản việc Dân Chúa “cùng nhau bước đi”. Người ta có thể suy tư về hình thức thể chế của Thượng Hội đồng, nhưng đừng nghi ngờ gì rằng thể chế này đảm bảo cho Giáo hội thực thi tính hiệp hành một cách chân thực, như tiến trình Thượng Hội đồng hiện tại đã chứng minh rõ ràng.

Việc thực thi tính hiệp hành một cách chân thực sẽ cho phép chúng ta có được những cân nhắc thấu đáo - với sự kiên nhẫn và thận trọng - về những cải cách thể chế cần thiết, về các tiến trình đưa ra quyết định có sự tham gia của mọi người, và về việc thực thi quyền bính thực sự phù hợp với “sự lớn mạnh” của một Dân Chúa trưởng thành và có sự tham gia.

Trong viễn ảnh này, tôi lặp lại lời của vị Giám mục đã phong chức cho tôi nhiều năm trước, và từ kinh nghiệm của ngài mà tôi học biết về tính hiệp hành. Trong sứ điệp gửi Giáo hội của mình vào năm 1990, nhân dịp khai mạc công nghị giáo phận, ngài đã viết những lời có tính ngôn sứ:

“Dân Chúa, một dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện vô hình của Nước Trời, lắng nghe, đối thoại, phục vụ Chúa của mình, trung tâm của vũ trụ và lịch sử. Một Dân chấp nhận lời mời bước đi bên cạnh Thiên Chúa, nhân loại, thụ tạo. [... ] Công nghị là một lời tuyên bố về tình yêu đối với mảnh đất, mảnh đất được chúc lành mà chúng ta đang bước đi, đối với khoảng thời gian được chúc phúc vừa hấp dẫn vừa kịch tính này. Công nghị thậm chí còn là một tuyên ngôn mạnh mẽ hơn về tình yêu thương đối với con người, đối với tất cả mọi người. Tình yêu ưu tiên đối với những người nghèo nhất về mọi phương diện và mức độ. […] Chỉ có tình yêu mới có thể thuyết phục. Chỉ có tình yêu mới làm cho lớn lên, mới tạo ra sự mới lạ. Chúng ta hãy tin chắc rằng: Công nghị là thời gian của tình yêu. Từ Thiên Chúa đến với chúng ta, từ chúng ta đến với Ngài, và từ mọi người giữa chúng ta".

(+ Dante Bernini).

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vaticannews.va (18.10.2023)

Nguồn: hdgmvietnam.com

Đức Thánh Cha Phanxicô vẫy tay chào đám đông 1,5 triệu người tham dự Thánh lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới 2023 tại Lisbon, Bồ Đào Nha vào ngày 6 tháng 8 năm 2023 (Ảnh: Truyền thông Vatican)

“Đừng sợ”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các bạn trẻ Công giáo hôm Chúa nhật trong Thánh lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới 2023 ở Lisbon, Bồ Đào Nha, lặp lại lời kêu gọi nổi tiếng của vị tiền nhiệm và là người sáng lập cuộc tụ họp giới trẻ quốc tế, Thánh Gioan Phaolô II.

“Các bạn trẻ thân mến, tôi muốn nhìn vào mắt từng người trong các bạn và nói với các bạn: ‘Đừng sợ, đừng sợ’,” Đức Thánh Cha nói vào ngày 6 tháng 8 vào một buổi sáng đầy nắng tại nơi mà ban tổ chức gọi là “Cánh đồng ân sủng”.

“Tôi nói với các bạn một điều rất đẹp: Không còn là tôi nữa, mà chính Chúa Giêsu đang nhìn các bạn vào lúc này, Ngài đang nhìn các bạn,” Đức Thánh Cha tiếp tục. “Ngài biết các bạn, Ngài biết tấm lòng của từng người trong các bạn, Ngài biết cuộc đời của mỗi người trong các bạn, Ngài biết những niềm vui, nỗi buồn, những thành công và thất bại của các bạn.”

Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với những người trẻ tuổi, “biết tấm lòng của các bạn. Ngài nhìn thấy con tim của chúng ta. Và ngài nói với các bạn hôm nay tại Lisbon, vào Ngày Giới trẻ Thế giới này: ‘Đừng sợ, đừng sợ, hãy can đảm lên, đừng sợ’.”

 Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Thánh lễ nhân dịp lễ Chúa Hiển Dung cho khoảng 1,5 triệu người ở Parque Tejo, nơi những người trẻ tuổi và các nhà lãnh đạo của họ đã cắm trại qua đêm sau một buổi canh thức cầu nguyện. Khoảng 10.000 Linh mục và 700 Giám mục cùng đồng tế.

Thánh lễ đánh dấu sự kết thúc chính thức của cuộc tụ họp giới trẻ quốc tế, thu hút hàng trăm ngàn bạn trẻ, thanh thiếu niên, và các nhà lãnh đạo của họ từ hầu hết các quốc gia trên thế giới đến thủ đô Bồ Đào Nha từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 8.

Tuần lễ bao gồm các buổi cầu nguyện, Thánh lễ, các buổi hòa nhạc, các cuộc trò chuyện tôn giáo và các sự kiện văn hóa, cùng các hoạt động khác.

Cặp vợ chồng người Bồ Đào Nha, Leanor và Luis Graca, cả hai đều 23 tuổi, đã tham dự Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Lisbon ngay sau tuần trăng mật của họ ở Ý (Ảnh: Hannah Brockhaus/CNA)

Luis Graca, 23 tuổi, đến từ Bồ Đào Nha, phát biểu với CNA vào sáng hôm Chúa nhật rằng điểm nổi bật trong tuần lễ đối với em là đến thăm “Thành phố của Niềm vui”, nơi có một hội chợ nghề nghiệp và công viên có các Linh mục ngồi giải tội.

“Chúng tôi có thể thấy rất nhiều người khác nhau đang nỗ lực tìm kiếm Chúa Giêsu và điều đó thực sự tuyệt vời khi được chứng kiến,” Graca nói. “Thật đáng ngạc nhiên khi thấy số lượng người đến công viên hòa giải và số lượng Linh mục ở đó. Điều đó thật tuyệt vời.”

Graca cho biết buổi canh thức cầu nguyện đêm hôm trước cũng là một trải nghiệm tuyệt vời: “Thật là bình an, mọi người có thể cầu nguyện… mọi thứ thật đẹp.”

Graca và vợ, Leanor, cũng 23 tuổi, mới kết hôn cách đây 18 ngày. Graca đã mô tả Đại hội Giới trẻ Thế giới là “một sự kiện gây sự chấn động lớn khác của Chúa Thánh Thần sau cuộc hôn nhân của chúng tôi. Một sự kiện lớn với cuộc hôn nhân của chúng tôi và giờ đây là một sự kiện khác, vì vậy từ bây giờ chúng ta hãy sống theo Chúa Thánh Thần.”

“‘Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt quá!’ (Mt 17:4),” Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài giảng của mình, trích dẫn từ bài Tin Mừng trong ngày. “Chúng ta cũng muốn biến những lời này mà Thánh Phêrô Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu trên Núi Chúa Biến thành lời của chính chúng ta sau những ngày đầy nồng nhiệt này.”

“Thật tốt đẹp biết bao những gì chúng ta đang trải qua với Chúa Giêsu, những gì chúng ta đã trải qua cùng nhau, và thật đẹp khi chúng ta đã cầu nguyện với niềm vui ngập tràn trong tâm hồn. Và sau đó chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta mang theo những gì khi trở lại cuộc sống thường ngày?” Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

Marina Aleykseyeva, 31 tuổi, đến từ Kiev, Ukraine, cũng có mặt trong buổi canh thức cầu nguyện và Thánh lễ với Đức Thánh Cha Phanxicô.

“Chúng tôi ở đây để cầu nguyện cho đất nước, cầu nguyện cho hòa bình,” Aleykseyeva nói. “Đại hội Giới trẻ Thế giới này hết sức đặc biệt bởi vì tất cả chúng tôi những người Ukraine đã đến đây để cầu nguyện cho hòa bình, cầu nguyện cho những người lính và cho gia đình của chúng tôi.”

Aleykseyeva, một người Công giáo nghi lễ Latinh, cho biết em và các thành viên khác trong nhóm của mình đang kiểm tra điện thoại của họ trong buổi cầu nguyện để theo dõi tin tức về một cuộc không kích khác vào Ukraine trong đêm. Những người Ukraine đã hiệp ý cầu nguyện cùng với một số phụ nữ trẻ đến từ Ý đang ở gần họ trên cánh đồng.

Aleykseyeva nói rằng em đã rất cảm động khi có nhiều người đến gặp gỡ họ trong suốt tuần để nói rằng họ đang cầu nguyện cho Ukraine.

Marina Aleykseyeva, 31 tuổi, đến từ Kiev, Ukraine, (thứ hai từ trái sang với chiếc mũ bóng chày màu hồng), cùng với những người hành hương đến từ Ukraine, tham dự Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Lisbon, Bồ Đào Nha. Aleykseyeva nói rằng họ đã đi đến buổi họp mặt quốc tế để cầu nguyện cho hòa bình ở đất nước của họ (Ảnh: Hannah Brockhaus/CNA)

“Giờ đây chúng tôi có thể trở về đất nước của mình và nói với mọi người rằng rất nhiều người tin vào Thiên Chúa đang cầu nguyện cho chúng tôi từ khắp nơi trên thế giới,” Aleykseyeva nói.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã đưa ra lời kêu gọi cho hòa bình trên thế giới cũng như tại Ukraine trong bài phát biểu ngắn trước Kinh Truyền Tin vào cuối Thánh lễ.

“Chúng ta hãy đồng hành với những suy nghĩ và lời cầu nguyện của mình cho những người không thể tham gia cùng với chúng ta vì xung đột vũ trang và chiến tranh,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói. “Thật vậy, có rất nhiều người trong số họ trong thế giới của chúng ta. Khi nghĩ về lục địa này, tôi cảm thấy vô cùng đau buồn cho Ukraine thân yêu, đất nước đang tiếp tục chịu nhiều đau khổ.”

“Cho phép tôi, với tư cách là một người lớn tuổi, được chia sẻ với các bạn trẻ một ước mơ mà tôi mang trong mình: Đó là ước mơ hòa bình, ước mơ của những người trẻ cầu nguyện cho hòa bình, sống trong hòa bình và xây dựng một tương lai hòa bình,” Đức Thánh Cha tiếp tục.

“Khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta hãy đặt tương lai của nhân loại vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Khi các bạn trở về nhà, xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình.”

Đức Thánh Cha Phanxicô nói với những người trẻ tuổi: “Các bạn chính là dấu chỉ hòa bình cho thế giới, cho thấy việc các quốc tịch, ngôn ngữ và lịch sử khác nhau có thể hợp nhất thay vì chia rẽ. Các bạn chính là niềm hy vọng của một thế giới khác. Cảm ơn các bạn vì điều này. Hãy tiếp tục tiến bước!”

Minh Tuệ (theo CNA)

Nguồn:dcctvn.org




Trong Sứ điệp Mùa Chay 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh mối quan hệ giữa hành trình Mùa Chay và hành trình hiệp hành, cả hai đều bắt nguồn từ truyền thống và mở ra cho những điều mới mẻ. Ngài mời gọi các tín hữu hãy lên đường theo Chúa Giêsu để đào sâu và đón nhận mầu nhiệm cứu độ của Người.


SỨ ĐIỆP MÙA CHAY NĂM 2023

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Khổ chế Mùa Chay và Lộ trình Hiệp Hành

 

Anh chị em thân mến!

 

Các Sách Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca đều thuật lại biến cố Chúa Giêsu Hiển dung. Qua đó, chúng ta thấy Chúa đáp lại thái độ của các môn đệ khi chưa thật sự hiểu Người. Thật vậy, trước đó không lâu, đã có một cuộc xung đột thực sự giữa Thầy Giêsu và môn đệ Simon Phêrô, người mà sau khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, đã phản đối lời tiên báo về cuộc khổ nạn và thập giá của Người. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ quở trách ông: “Xatan, lui ra đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt 16, 23). Và rồi, “sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê, tới một ngọn núi cao” (Mt 17, 1).

 

Đoạn Tin mừng về Chúa Giêsu Hiển dung được đọc hàng năm vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Thật vậy, trong mùa Phụng vụ này, Chúa đem chúng ta đi với Người và dẫn đến một nơi riêng biệt. Trong khi những bổn phận thường ngày đòi buộc chúng ta phải ở lại những nơi quen thuộc và những thói quen lặp đi lặp lại đến độ nhàm chán, thì trong Mùa Chay, chúng ta được mời gọi đi lên “một ngọn núi cao” cùng với Chúa Giêsu và sống một kinh nghiệm thiêng liêng đặc biệt - sự khổ chế - như dân thánh của Thiên Chúa.

 

Khổ chế Mùa Chay là một quyết tâm được trợ giúp nhờ ân sủng, để vượt thắng khiếm khuyết đức tin và thái độ phản kháng của chúng ta khi đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Đây chính là điều mà Phêrô và các môn đệ cần phải thực hiện. Để đào sâu kiến thức về Thầy, để hiểu trọn vẹn và đón nhận mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện trong sự hiến thân trọn vẹn vì tình yêu, chúng ta phải để Chúa Giêsu dẫn mình đi lối riêng, đưa lên cao và tách ra khỏi sự tầm thường và phù phiếm. Giống như một cuộc leo núi, chúng ta cần phải khởi hành một lộ trình khó khăn đòi hỏi nỗ lực, hy sinh và tập trung. Những điều kiện tiên quyết này cũng rất quan trọng đối với lộ trình Hiệp Hành mà, là một Hội Thánh, chúng ta đã dấn thân thực hiện. Sẽ thật hữu ích khi chúng ta suy tư về mối tương quan giữa khổ chế Mùa Chay và trải nghiệm Hiệp Hành.

 

Trong cuộc “tĩnh tâm” trên núi Tabor, Chúa Giêsu đem theo ba môn đệ, những người được chọn để chứng kiến ​​một biến cố độc nhất vô nhị. Chúa Giêsu muốn chia sẻ kinh nghiệm ân sủng này, chứ không giữ lại cho riêng mình, cũng như toàn bộ đời sống đức tin của chúng ta là một trải nghiệm được sẻ chia. Vì chính trong sự liên đới với nhau mà chúng ta đi theo Chúa Giêsu. Và chúng ta, là một Hội Thánh lữ hành giữa dòng thời gian, cùng trải nghiệm Năm phụng vụ và trong đó có Mùa Chay, chúng ta cùng tiến bước với anh chị em mà Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta như những bạn đồng hành. Cũng giống như biến cố Chúa Giêsu và các môn đệ đi lên Núi Tabor, chúng ta có thể khẳng định rằng, hành trình Mùa Chay của chúng ta là “Hiệp Hành”, bởi vì chúng ta cùng nhau đi trên một con đường, với tư cách là những môn đệ của một vị Thầy duy nhất. Hơn nữa, chúng ta biết rằng chính Chúa Giêsu là Con Đường, và do đó, trong hành trình Phụng vụ cũng như trong tiến trình Thượng Hội đồng, Giáo Hội không làm gì khác hơn là bước vào mầu nhiệm Đức Kitô – Đấng Cứu Độ một cách sâu xa và trọn vẹn hơn.

 

Và như thế chúng ta cùng bước lên cao điểm. Tin mừng thuật lại rằng Chúa Giêsu “biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Đây là “chóp đỉnh”, mục tiêu của cuộc hành trình. Vào cuối cuộc leo núi, khi đang ở trên đỉnh núi với Chúa Giêsu, ba môn đệ được ơn nhìn thấy Người trong vinh quang, chói ngời ánh sáng siêu nhiên. Một ánh sáng không đến từ bên ngoài, nhưng tỏa ra từ chính Chúa. Vẻ đẹp thiêng liêng của thị kiến này trỗi vượt hơn những nỗ lực mà các môn đệ đã cố gắng khi lên Núi Tabor. Như trong bất kỳ chuyến leo núi gian nan nào, đang khi leo, chúng ta phải chăm chú nhìn vào con đường; nhưng bức tranh toàn cảnh mở ra ở cuối lộ trình gây bất ngờ và đền đáp cho chúng ta bởi sự kỳ diệu của nó. Cũng vậy, tiến trình Hiệp Hành thường có vẻ như là một con đường khó khăn, và đôi khi có thể gây nản lòng. Tuy nhiên, điều chờ đợi chúng ta ở cuối hành trình chắc chắn sẽ là một điều gì đó kỳ diệu và ngỡ ngàng, điều đó sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý muốn của Thiên Chúa và sứ mạng dành cho chúng ta trong khi phục vụ vương quốc của Ngài.

 

Trải nghiệm của các môn đệ trên núi Tabor càng phong phú hơn nữa khi, bên cạnh Chúa Giêsu biến hình, xuất hiện ông Môsê và Êlia, vốn là hiện thân của Lề luật và các Ngôn sứ (x. Mt 17, 3). Điều mới mẻ của Đức Kitô vừa là sự hoàn tất Giao ước cũ và các lời hứa, vừa không tách rời khỏi lịch sử của Thiên Chúa với dân của Ngài và đồng thời mặc khải ý nghĩa sâu xa hơn cho lịch sử đó. Tương tự như vậy, lộ trình Hiệp Hành bắt nguồn từ truyền thống của Giáo Hội, nhưng đồng thời cũng mở ra cho những điều mới mẻ. Truyền thống là nguồn cảm hứng để tìm kiếm những con đường mới, và để tránh những cám dỗ đối nghịch của sự trì trệ và ngẫu hứng.

 

Hành trình khổ chế Mùa Chay cũng như tiến trình Thượng Hội đồng đều có mục tiêu là một cuộc biến hình, cả về phương diện cá nhân lẫn Giáo Hội. Một sự biến đổi, mà trong cả hai trường hợp, đều có khuôn mẫu nơi Chúa Giêsu Hiển dung và được thực hiện nhờ ân sủng của mầu nhiệm Vượt qua của Người. Để cuộc biến hình này có thể trở thành hiện thực nơi chúng ta trong năm nay, tôi muốn đề nghị hai “Lộ trình” cần đi theo để cùng lên núi với Chúa Giêsu, và cùng với Người đạt tới mục tiêu.

 

Lộ trình thứ nhất liên quan đến mệnh lệnh mà Chúa Cha ngỏ với các môn đệ trên núi Tabor, khi họ chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Hiển dung. Tiếng từ đám mây phán ra: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Do đó, đề xuất đầu tiên rất rõ ràng: Chúng ta cần lắng nghe Chúa Giêsu. Mùa Chay là thời gian ân sủng để chúng ta lắng nghe Lời khi Người ngỏ lời với chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta như thế nào? Trước hết, từ Lời Chúa mà Giáo hội công bố cho chúng ta trong Phụng vụ. Mong sao chúng ta đừng để Lời ấy bị bỏ ngoài tai; trong trường hợp không thể tham dự Thánh Lễ thường xuyên, chúng ta hãy đọc các Bài đọc Kinh Thánh hàng ngày, dù là với sự trợ giúp của internet. Ngoài Kinh Thánh, Chúa còn nói với chúng ta qua anh chị em của chúng ta, nhất là qua những khuôn mặt và câu chuyện của những người cần được giúp đỡ. Nhưng tôi cũng muốn thêm vào một khía cạnh khác, rất quan trọng trong tiến trình Hiệp Hành: thái độ lắng nghe Chúa Giêsu cũng bao gồm việc lắng nghe anh chị em khác trong Giáo Hội. Cách lắng nghe lẫn nhau là mục tiêu chính trong một số giai đoạn của tiến trình, nhưng nó luôn luôn không thể thiếu trong phương pháp và phong cách của một Giáo Hội hiệp hành.

 

Khi nghe tiếng Chúa Cha, các môn đệ “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Chúa Giêsu lại gần, chạm đến các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Chúa Giêsu mà thôi” (Mt 17, 6-8). Đây là đề nghị thứ hai cho Mùa Chay này: đừng dựa vào một thứ tôn giáo được tạo ra từ những sự kiện phi thường và những kinh nghiệm kịch tính, hãy vượt qua nỗi sợ vì phải đối diện với thực tế và những đấu tranh, khó khăn và mâu thuẫn của nó trong cuộc sống hàng ngày. Ánh sáng mà Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ là sự báo trước về vinh quang Phục sinh, và đó phải là mục tiêu trong cuộc hành trình của chúng ta, khi chúng ta đi theo “một mình Người”. Mùa Chay hướng về Lễ Phục Sinh: “tĩnh tâm” tự nó không phải là mục đích, nhưng là phương thế chuẩn bị cho chúng ta trải nghiệm cuộc khổ nạn và thập giá của Chúa Giêsu với đức tin, đức cậy và đức mến, hầu đạt tới sự phục sinh. Cũng vậy, trên lộ trình Hiệp Hành, ngay cả khi Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng của một số trải nghiệm hiệp thông mạnh mẽ, thì chúng ta đừng ảo tưởng là mình đã đến đích. Vì, cũng tại đây, Chúa lặp lại với chúng ta rằng: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”. Vậy thì chúng ta hãy đi xuống đồng bằng, và xin cho ân sủng mà chúng ta đã trải nghiệm giúp chúng ta trở thành “những nghệ nhân của tính hiệp hành” trong cuộc sống thường ngày tại các cộng đoàn của chúng ta.

 

Anh chị em thân mến, xin Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay này khi chúng ta lên núi với Chúa Giêsu, để cảm nghiệm được vẻ huy hoàng thần linh của Người. Và nhờ đó, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tiếp tục kiên trì trong cuộc lữ hành cùng với Chúa Giêsu, Đấng là vinh quang của dân Người và ánh sáng của muôn dân.

 

Rôma, Đền thờ Thánh Gioan Lateranô, ngày 25/01/2023, Lễ Thánh Phaolô Trở lại.

 

Nguồn: https://www.vaticannews.va/ Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

 

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần vào ngày 11 tháng Giêng tại Đại thính đường Phaolô VI của Vatican (Ảnh: Truyền thông Vatican)

Chúng ta không cần phải hoàn hảo để sống theo cách làm chứng cho Chúa Kitô và cuốn hút người khác đến với Người, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ hôm thứ Tư.

Trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần vào ngày 11 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy tư về việc Chúa Giêsu kêu gọi Thánh Mát-thêu, khi đó là một người thu thuế, đi theo Người với tư cách là một trong 12 Tông đồ của Người.

“Đây là thông điệp dành cho chúng ta: chúng ta không cần phải đợi cho đến khi chúng ta hoàn hảo và đã đi một chặng đường dài theo Chúa Giêsu để làm chứng cho Người; không, lời công bố của chúng ta bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, ngay tại nơi chúng ta đang sống”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

Phát biểu tại Đại thính đường Phaolô VI của Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng truyền giáo và việc chiêu dụ thuyết phục một cá nhân khác từ một hệ thống tôn giáo hoặc tín ngưỡng khác cải đạo hoàn toàn không giống nhau.

“Và nó không bắt đầu bằng cách nỗ lực thuyết phục người khác, mà bằng việc làm chứng mỗi ngày cho vẻ đẹp của Tình yêu vốn đã nhìn đến chúng ta và nâng chúng ta lên”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại một dòng trong bài giảng của Đức Bênêđíctô XVI tại cuộc gặp gỡ các Giám mục Mỹ Latinh và Caribbean ở Aparecida, Brazil, vào năm 2007: “Giáo hội không tham gia vào việc chiêu dụ người khác cải đạo. Thay vào đó, Giáo hội phát triển nhờ ‘sự cuốn hút’ của mình”.

“Đừng quên điều này”, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết thêm, đồng thời gọi những Kitô hữu chiêu dụ người khác cải đạo là “những người ngoại giáo trong diện mạo như người Kitô hữu”.

Thông điệp trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư của Đức Thánh Cha là phần đầu tiên trong loạt bài chia sẻ Giáo lý mới về lòng nhiệt thành tông đồ.

“Đó là một chiều kích quan trọng đối với Giáo hội”, Đức Thánh Cha giải thích. “Tuy nhiên, điều có thể xảy ra là lòng nhiệt thành tông đồ, ước muốn đem Tin Mừng đến cho người khác, giảm sút”.

“Khi đời sống Kitô hữu đánh mất tầm nhìn về chân trời của việc loan báo, thì nó trở nên ốm yếu, nó trở nên khép kín, tự lấy mình làm điểm tham chiếu, nó trở nên hao mòn héo úa. Nếu không có lòng nhiệt thành tông đồ, đức tin sẽ trở nên khô héo. Mặt khác, truyền giáo là dưỡng khí của đời sống Kitô hữu: nó tiếp thêm sinh lực và thanh lọc đời sống ấy”.

Đức Thánh Cha chia sẻ rằng cách thức Chúa Giêsu kêu gọi Mát-thêu bỏ lại cuộc sống trước đây của mình là một tấm gương cho các Kitô hữu ngày nay.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng Mát-thêu, với tư cách là người thu thuế cho đế quốc La Mã, đã bị người khác coi là “công chức” và là kẻ phản bội dân chúng.

“Nhưng trong mắt của Chúa Giêsu, Mát-thêu là một con người, với cả những đau khổ và sự vĩ đại của mình”, Đức Thánh Cha nói.

Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh, không xem ai đó như những “tính từ” được dùng để mô tả họ, nhưng như một con người.

“Chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta nhìn người khác như thế nào? Chúng ta có thường xuyên nhìn thấy lỗi lầm của họ chứ không phải nhu cầu của họ không; chúng ta có thường xuyên gán mác cho mọi người theo những gì họ làm khôn”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

“Ngay cả với tư cách là người Kitô hữu, chúng ta cũng tự nhủ: anh ta có phải là một trong số chúng ta hay không? Đây không phải là cái nhìn của Chúa Giêsu: Người luôn nhìn mỗi người với lòng thương xót, thực sự, với sự ưu ái”.

“Và các Kitô hữu”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “được mời gọi để noi gương Chúa Kitô đã làm, trở nên giống như Người, đặc biệt là ở những người được gọi là ‘những người ở xa’. Thật vậy, lời tường thuật của Thánh Mát-thêu về lời kêu gọi kết thúc với việc Chúa Giêsu nói: ‘Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi kẻ tội lỗi’”.

Minh Tuệ (theo CNA)

 



Trong bài giảng Thánh Lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Biển Đức XVI, Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu bằng những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá: "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha". Và suy tư của ngài tập trung vào hình ảnh Chúa Kitô, cũng như toàn bộ cuộc đời của Ratzinger đã tập trung vào Chúa Kitô, cho đến hơi thở cuối cùng.

Bài giảng Đức Thánh Cha
Lễ An táng Đức cố Giáo hoàng Biển Đức XVI
Ngày 5 tháng 1 năm 2023


“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Đó là những lời cuối cùng Chúa đã nói trên Thánh giá. Có thể nói, lời thì thào cuối cùng của Người đã tóm tắt toàn bộ cuộc đời của Người: một sự trao phó liên lỉ trong tay Cha. Bàn tay tha thứ và cảm thương, chữa lành và thương xót, bàn tay xức dầu và chúc lành, đã thúc đẩy Người cũng trao nộp chính mình vào tay anh em mình. Chúa, mở lòng đón nhận những câu chuyện Người gặp trên đường, đã để mình uốn nắn theo thánh ý Thiên Chúa khi gánh lấy mọi hệ quả và khó khăn của Tin Mừng đến độ cho thấy đôi tay của mình bị thương tích vì yêu: “Hãy nhìn xem tay Thầy”, Người đã nói như thế với Tôma (Ga 20,24), và Người cũng nói điều đó với mỗi người chúng ta. Đôi bàn tay thương tích giang rộng và không ngừng trao ban, để chúng ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và tin vào tình yêu đó (x. 1 Ga 4,16).

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Đây là lời mời gọi và chương trình sống mà Người âm thầm khơi dậy nơi chúng ta. Giống như người thợ gốm (x. Is 29,16), Người muốn uốn nắn trái tim của mục tử, cho đến khi họ có được những tâm tình như chính Chúa Giê-su Ki-tô (x. Pl 2,5). Sự hiến dâng với lòng biết ơn trong việc phục vụ Chúa và Dân Ngài phát sinh từ việc đón nhận một món quà hoàn toàn nhưng không: “Con thuộc về Ta… con thuộc về họ”, Chúa thì thầm; “con đang ở dưới sự bảo vệ của bàn tay Ta, dưới sự bảo vệ của trái tim Ta. Hãy ở lại trong bàn tay của Ta và trao cho Ta bàn tay của con”. Đây là sự hạ mình và gần gũi của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng đặt mình vào bàn tay mỏng dòn của các môn đệ để nuôi dưỡng Dân Người và nói với họ: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống, này là Mình Thầy hiến dâng vì anh em (x. Lc 22,19).

Sự dâng hiến trong tâm tình kinh nguyện, được hình thành và tinh luyện cách âm thầm giữa trăm chiều thử thách mà người mục tử phải đối diện (x. 1 Pr 1,6-7) và lời mời gọi tín thác để chăm sóc đoàn chiên (x. Ga 21,17). Giống như Thầy, người mục tử mang trên vai mình sức nặng của việc chuyển cầu và sự hao mòn của việc xức dầu cho dân của Người, nhất là ở những nơi mà lòng tốt phải đấu tranh để vượt thắng và những nơi phẩm giá của anh chị em chúng ta bị đe dọa (x. Dt 5: 7-9). Trong việc chuyển cầu này, Chúa âm thầm ban cho tinh thần nhu mì giúp hiểu biết, chào đón, hy vọng và mạo hiểm vượt lên trên những hiểu lầm có thể xảy ra. Đây là nguồn gốc của những hoa trái vô hình và không thể hiểu, phát sinh từ việc biết mình đã đặt niềm tin vào ai (x. 2Tim 1:12). Một sự tin tưởng cầu nguyện và tôn thờ, có khả năng giải thích các hành động của người mục tử và làm cho trái tim và các quyết định của ngài tương hợp với những thời khắc của Thiên Chúa (x. Ga 21,18): “Chăn dắt đoàn chiên có nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ. Yêu thương có nghĩa là: trao ban cho đoàn chiên sự tốt lành đích thực, là lương thực về chân lý của Thiên Chúa, lương thực về Lời Chúa, lương thực về sự hiện diện của Người.”

Sự dâng hiến được nâng đỡ bởi sự an ủi của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn đi trước ngài trong sứ vụ: bằng sự cố gắng hết mình để thông truyền vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng (x. Tông huấn Gaudete et exsultate, 57), bằng chứng tá phong nhiêu của những người, như Mẹ Maria, ở lại dưới chân Thánh giá bằng nhiều cách khác nhau, ở lại trong sự bình an đau đớn nhưng mạnh mẽ đó, mà không phẫn nộ cũng không quỵ luỵ; và trong niềm hy vọng gan lì nhưng kiên nhẫn rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người, như Người đã hứa với tổ phụ chúng ta và với con cháu Người đến muôn đời (x. Lc 1,54-55).

Chúng ta cũng vậy, được gắn chặt với những lời cuối cùng của Chúa và với chứng tá đánh dấu cuộc đời của Người, chúng ta muốn, với tư cách là một cộng đoàn Giáo hội, theo chân Người và phó thác người anh em của chúng ta trong vòng tay Chúa Cha. Ước gì bàn tay thương xót của ngài cầm lấy ngọn đèn cháy sáng bằng dầu Tin Mừng mà ngài đã gieo rắc và làm chứng trong suốt cuộc đời mình (x. Mt 25,6-7).

Thánh Grêgôriô Cả, ở cuối Quy tắc Mục vụ, đã thúc giục một người bạn giúp ngài việc đồng hành thiêng liêng này: “Giữa những giông tố của cuộc đời, xin cho tôi được an ủi khi tin rằng bạn sẽ giữ tôi trên bàn cầu nguyện của bạn, và nếu gánh nặng lỗi lầm của tôi quật ngã và làm nhục tôi, bạn sẽ giúp tôi bằng công đức của bạn để nâng tôi dậy”. Vị mục tử ý thức rằng ngài không thể gánh vác một mình điều mà thực tế là ngài không bao giờ có thể gánh vác một mình, và do đó, ngài biết phó thác cho lời cầu nguyện và sự chăm sóc những người được ủy thác cho ngài. Chính Dân trung thành của Thiên Chúa, quy tụ cùng nhau, đồng hành và phó dâng sự sống của người đã từng là mục tử của họ. Giống như những phụ nữ bên ngôi mộ trong Tin Mừng, chúng ta ở đây với dầu thơm của lòng biết ơn và dầu hy vọng để một lần nữa bày tỏ với ngài về một tình yêu không hề mất; rằng chúng ta muốn làm điều này với cùng sự xức dầu, sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã trao ban cho chúng ta trong nhiều năm qua. Chúng ta muốn cùng nhau thưa: “Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của ngài trong tay Cha”.

Thưa Đức Biển Đức, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của ngài được trọn vẹn khi nghe tiếng của Chàng Rể, bây giờ và mãi mãi!

 

Nguồn: https://www.vaticannews.va/

 

Như Văn phòng Báo chí của Tòa Thánh đã loan tin, từ 02/01 – 04/01/2023, thi hài của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ được đặt công khai trong Đền thờ Thánh Phêrô để các tín hữu kính viếng. Việc mặc phẩm phục cho Đức Biển Đức XVI giải thích rõ ràng rằng vị Giáo Hoàng đương nhiệm chưa qua đời.

Trước hết, thi hài của ngài được mặc một áo chùng thâm màu trắng (talare bianca), chiếc áo mà ngài đã mặc từ khi được chọn làm Giáo Hoàng ở nhà nguyện Sistina, ngày 19 tháng 4 năm 2005, cho đến khi ngài được Chúa gọi về tại đan viện Mater Ecclesiae, ngày 31 tháng 12 năm 2022.

Bên trên áo chùng thâm, ngài được mặc đầy đủ phẩm phục phụng vụ, bao gồm: khăn vai che cổ (amitto), áo alba (camice), dây stola tư tế (stola presbiterale), áo choàng phó tế (tunicella) và áo lễ màu đỏ (casula rossa). Màu đỏ là màu dành cho phẩm phục tang lễ của Giáo Hoàng. Chỉ có thi hài của các giám mục mới có thể được mặc cả áo choàng phó tế và áo lễ. Điều này chỉ ra sự tròn đầy của chức thánh, vốn được phân biệt trong ba chức khác nhau: phó tế, linh mục và giám mục, mà các ngài đã lãnh nhận qua ba lần thụ phong tương ứng.

Trên đầu của Đức Biển Đức XVI được đội một chiếc mũ mitra màu trắng, đây cũng là màu đặc trưng cho tang lễ của giáo hoàng.

Chân ngài được đeo một đôi giày đen. Trên tay ngài cầm tràng chuỗi Mân Côi mang huy hiệu Giáo Hoàng và một thánh giá nhắc lại thánh giá mục tử được sử dụng bởi hai Thánh Giáo Hoàng, Phaolô VI và Gioan Phaolô II, cũng như của chính Đức Biển Đức XVI và ngày nay là của Đức Phanxicô.

Gậy thánh giá mục tử không được đặt cạnh thi hài của ngài bởi vì ngài không còn là vị giáo hoàng đương nhiệm khi từ trần.

Đức Biển Đức XVI thậm chí còn không được đeo dây Pallium. Dây Pallium là biểu trưng cho quyền bính của các tổng giáo mục, vốn đã được trao 3 lần trong suốt cuộc đời của ngài: lần đầu tiên, vào năm 1977 khi ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Munich và Freising; lần thứ hai, vào năm 2002 khi ngài trở thành Niên trưởng Hồng y đoàn và lần thứ ba, vào năm 2005 khi được bầu chọn làm Giáo Hoàng.

Cuối cùng, ngài được đeo nhẫn giám mục mà ngài đã đeo trong suốt thời gian trở thành Giáo Hoàng Danh Dự. Tất nhiên, với sự từ nhiệm của ngài, ngày 28 tháng 02 năm 2013, thì ngay sau đó chiếc nhẫn ngư phủ của ngài đã bị phá hủy.

Vào ngày cuối cùng của triều đại giáo hoàng của mình, khi tiếp đón tất cả các Hồng y hiện diện ở Roma, Đức Biển Đức XVI đã nói: “Giữa các anh em trong Hồng y đoàn, sẽ có một vị là Giáo Hoàng tương lai, tôi hứa sẽ tôn kính và vâng phục vị đó vô điều kiện”. Một cam kết mà ngài đã duy trì trong gần 10 năm sống chung với người kế vị. Một quãng thời gian dài hơn so với điều đại giáo hoàng của ngài (8 năm). Vào thời điểm từ nhiệm, ngài quyết định tiếp tục được gọi với tên đã chọn khi được bầu làm Giáo Hoàng ở nhà nguyện Sistina, ngài tự gọi mình là Giáo Hoàng Danh Dự.

Theo Eventi Sacri a Licata





 

                                  

                                HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

THÔNG BÁO

Ngày 31 tháng 12 năm 2022.

        Kính thưa quí Đức Hồng Y, quí Đức Cha,
        quí cha và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa,

        Văn phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo: Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã về Nhà Cha, lúc 9 giờ 34 theo giờ Roma, tức 15g34 giờ Việt Nam, ngày 31 tháng 12 tại tu viện Mater Ecclesiae trong nội thành Vatican, thọ 95 tuổi.

        Hội Thánh đã mất một người Cha thánh thiện, một Mục tử nhân từ, một bậc Thầy lỗi lạc, một Chứng nhân trung kiên.

        Thánh lễ an táng sẽ được Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lúc 9g30 theo giờ Roma, ngày thứ Năm, 5-1-2023, tại Quảng trường thánh Phêrô.

        Để sống tình hiệp thông trong Hội Thánh, trong ngày an táng, tức thứ Năm, ngày 5 tháng 1 năm 2023, toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam sẽ dâng thánh lễ cầu hồn cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, tại nhà thờ chính tòa do Đức Giám mục chủ sự, cũng như tại các nhà thờ và nhà nguyện.

        Nguyện xin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót ban cho “người thợ khiêm nhường trong vườn nho của Chúa” được hưởng vinh phúc Nước Trời.

(đã ấn ký)

+ Giuse Nguyễn Năng
Tổng giám mục Sài Gòn – Tp. HCM
Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN

Trích nguồn: https://www.hdgmvietnam.com/



Học viện Thánh Anphongsô