Đi để trở về

Sau ngày lễ an táng của anh, tôi vẫn khó để chấp nhận sự ra đi của anh. Mặc dù biết anh đã về bên Chúa nhưng hình ảnh thân thuộc của anh vẫn hiện lên rõ nét, tiếng cười nói của anh vẫn đang vang vọng đâu đây làm tâm hồn tôi vừa có cảm giác thân thuộc với anh một cách linh thiêng nhưng cũng có một cái gì đó làm tim tôi nhói đau lắm.

       Buổi tối trước lúc anh ra đi, tôi vội vã đi vào nhà nguyện để tập đàn cho ngày lễ sáng hôm sau. Tập gần xong, tôi thấy anh bước vào, cầm lấy cuốn sách kinh phụng vụ, anh nhẹ nhàng đi vào phía cuối căn nhà nguyện, chọn nơi kín đáo nhất để một mình tâm sự với Chúa qua lời kinh sách và qua giờ gẫm riêng. Khi anh nhìn thấy tôi, chúng tôi chào nhau với một nụ cười. Và rồi tôi tắt đàn, cả hai ngồi với nhau trong thinh lặng, một thứ thinh lặng quý giá hơn ngàn lời nói mà chúng tôi nói với nhau hằng ngày. Cảm giác thinh lặng ấy với anh tôi lại có được khi tôi ngồi bên quan tài, thật linh thiêng nhưng trong tôi cũng thật đau đớn. Giờ phút ấy tôi thấy gần anh và hiểu anh hơn bao giờ hết. Nhiều khi sự giới hạn của ngôn từ không biểu lộ, truyền đạt hết ý người nói, lúc đó ta chỉ có thể thinh lặng để lòng mình lên tiếng. Khi để cho con tim lên tiếng, ta mới thấy được giá trị, sự quý giá của sự thinh lặng và còn hiểu nhiều điều hơn ta muốn biết. Lúc di quan, tôi nói thầm với anh rằng, tối nay anh một mình thinh lặng trước mặt Chúa, đối diện với Đấng mà trọn đời anh đã tôn thờ, đã yêu mến. Mặc dù khi sống anh chưa một lần giáp mặt về mặt thể lý nhưng chắc chắn anh khi qua đời, anh sẽ nhận ra mùi Mục Tử Nhân Lành đang dang rộng vòng tay mời đón anh trở về Nhà Cha. Khi ở bên Chúa, anh nhớ chuyển cầu cho chúng em sống trung thành với Chúa cho đến chết. Là thân phận con người, hằng ngày đối diện với biết bao nỗi sợ, nỗi sợ lớn nhất là sự bất tín, phản bội Chúa, nhiều lúc em thấy mình không thể vượt qua. Xin anh cũng chuyển cầu cho em can đảm bước đi trên những chông gai của cuộc đời để sau này em cũng được sum họp với anh trên Nước Trời.
        Từ nhỏ tới lớn, mỗi lần có ai qua đời tôi đều cảm thấy sợ hãi và ớn lạnh, đặc biệt là những người thân quen. Mặc dù là người Công giáo từ nhỏ, được học hỏi Kinh Thánh về niềm phục sinh, về cái chết của con người là bước vào đời sống hạnh phúc, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy có một bóng đen nỗi sợ xâm chiếm khiến niềm hy vọng trong tôi phai nhạt, lu mờ. Mường tượng về cái chết của mình, điều tôi sợ là phải bước đi một mình khi không có ai bên cạnh, nói chung là tôi sợ cô đơn. Cũng phải lắm, từ nhỏ tôi được sinh ra trong một cộng đồng, hằng ngày tôi gặp gỡ biết bao người, nghe tiếng cười cười, nói nói quá quen thuộc của những người thân yêu. Nay nghĩ đến cái chết, tôi hẳn sợ điều phải bước đi một mình khi không có ai bên cạnh. Thế nhưng, qua cái chết của anh Giuse Đức, tôi không còn sợ hãi như trước và tôi còn nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay tôi quá quen thuộc trong những trang Kinh Thánh, đó là niềm hy vọng, niềm vui, niềm hạnh phúc khi được trở về bên Chúa. Phải chăng, hành trình của đời người chỉ có một mục tiêu, một đích đến, đó là hướng về quê hương đích thực sau cái chết!
        Khi nói về anh Đức, tôi thấy anh là một người cầu toàn, luôn muốn hoàn thành mọi việc một cách tốt nhất. Thường những người có tính cách này có xu hướng này hay nhăn nhó và trách cứ về những điều thiếu sót. Thế nhưng, mỗi lần làm việc gì với anh mà không vừa ý, thay vì nhăn nhó, trách móc thì anh luôn nói với tôi kèm thêm nụ cười: “Thôi kệ nó em ạ, được đến đâu hay đến đấy!” Anh nói vậy để cho tôi yên tâm, không lo lắng đến những thiếu sót đó, nhưng kỳ thực tôi để ý thấy anh chỉ trách móc riêng bản thân mình mà không muốn làm người khác phải buồn lòng. Thời gian sống trong Nhà Tập, chúng tôi có thời gian từng 2 anh em ngồi riêng với nhau để chia sẻ thật lòng về tất cả những điều liên quan đến đời sống riêng tư để anh em thực sự hiểu nhau và hiểu rõ hơn về gia cảnh của mỗi người. Khi anh chia sẻ, tôi mới thấy những sự chiến đấu nội tâm của anh về những gian khổ của đời sống tính dục, những gian khổ khi phải hy sinh chính mình để lắng nghe ý kiến của người khác. Tất cả những chiến đấu của anh nghe có vẻ nặng nhọc nhưng điều tôi thấy ở anh là mong muốn để có một sự trung tín với Chúa và một đời sống vì tha nhân. Ngày mặc áo Dòng cho anh trong nhà Đại thể, tôi thấy khuôn mặt anh tràn đầy bình an, mọi lo lắng, ưu tư đều biến mất. Anh nằm đó để cho người ta muốn làm gì thì làm. Nọc độc của tử thần đã cắn vào anh, thế nhưng chúng ta hy vọng rằng chắc chắc anh sẽ được Đức Kitô ẵm và đưa vào cung lòng Chúa Cha để từ nay tử thần không làm gì được anh nữa vì một đời anh đã ngước lên Đấng anh hằng yêu mến, Đấng anh hằng tôn thờ.
        Ngày tiễn đưa anh đi ra nhà hỏa táng, ngồi trên xe trong đầu tôi chỉ luẩn quẩn với câu nói của cha giáo dạy môn Nhân luận: “Con người chỉ thực sự chết đi khi ta quên lãng họ, khi ấy dù họ còn sống nhưng đã chết thực sự khi ta gạt họ ra khỏi trái tim của ta. Người đã chết nhưng sẽ vẫn luôn sống khi ta luôn nhớ tới họ”. Tôi biết rằng, qua dòng thời gian hình ảnh của anh chắc chắn sẽ phai nhạt ít nhiều trong cuộc đời tôi. Liệu rằng, hôm nay tôi đậm đà, chứa chan tình cảm nhưng nay mai tình cảm ấy có chan chứa, đậm đà như hôm nay chăng?! Tôi chỉ cầu xin Chúa cho tôi luôn nhớ tới anh trong những lời cầu nguyện, mặc cho không còn sự mặn nồng như hôm nay nhưng đừng để anh chết trong tâm hồn tôi.
        Khi chào đời, ta khóc, người khác cười
        Ngày cuối đời, mình cười, người khác khóc…
       Sự ra đi của anh Giuse Đức làm tôi phần nào bừng tỉnh để xem lại cách sống đạo của tôi, mối tương quan của tôi với tha nhân thế nào để khi ra đi là đi về Nhà Cha trong niềm vui hân hoan, niềm vui sướng, niềm bình an của Chúa như thánh vịnh gia đã mô tả: “Ai nghẹn nghào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng, họ ra đi, đi mà nức nở, lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5tt).

Micae Trần Văn Hiển C.Ss.R

Thầy Đức Học Viện về với Chúa, Người anh em Học viện Anphongso về với Chúa

Labels:
Học viện Thánh Anphongsô