HUẤN THỊ
CẢI TỔ MỤC VỤ CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ
ĐỂ PHỤC VỤ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA HỘI THÁNH
1. Suy tư Giáo hội học của
Công đồng Vaticanô II, cùng với những chuyển biến xã hội và văn hóa trong những
thập niên vừa qua, dẫn đến quyết định cho các Hội Thánh địa phương phải tổ chức
lại việc ủy thác chăm sóc mục vụ tại cộng đoàn giáo xứ. Điều này có thể phát
sinh những kinh nghiệm mới, nhờ việc đề cao chiều kích hiệp thông và, dưới sự
hướng dẫn của các mục tử, thực hiện sự kết hợp hài hòa các đặc sủng và ơn gọi
nhằm phục vụ công cuộc Loan báo Tin Mừng, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của
việc Phúc-âm-hóa ngày nay.
Đức Giáo hoàng Phanxicô, khởi đầu sứ vụ Phêrô, đã nhắc
đến tầm quan trọng của “tinh thần sáng tạo”, nghĩa là “tìm kiếm những cách thức
mới”, tức là “tìm cách thức tốt nhất để Loan báo Tin Mừng”; về điều này, Đức
Thánh Cha kết luận rằng: “Hội Thánh, và cả Bộ Giáo Luật, đều cung cấp cho chúng
ta rất nhiều khả năng, nhiều tự do để tìm thực hiện những điều ấy”[1].
2. Những hoàn cảnh được phác thảo trong Huấn thị này
trình bày một cơ hội quý giá để hoán cải mục vụ theo hướng truyền giáo. Các
cộng đoàn giáo xứ sẽ tìm thấy trong tài liệu này lời mời gọi ra khỏi chính
mình, khi đưa ra những phương thế cải tổ, cả về mặt cơ cấu, trong tinh thần
hiệp thông và cộng tác, gặp gỡ và liên kết, thương xót và quan tâm đến công
cuộc loan báo Tin Mừng.
3. Hoán cải mục vụ là một trong những chủ đề chính trong
“giai đoạn mới của công cuộc Loan báo Tin Mừng”[2] mà Hội Thánh được mời
gọi phải thúc đẩy ngày nay, nhờ đó các cộng đoàn Kitô hữu ngày càng trở nên
những trung tâm giúp mọi người gặp gỡ Đức Kitô.
Về phương diện này, Đức Thánh Cha khuyên nhủ rằng: “Nếu
có điều gì khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là việc có
rất nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm
an ủi từ tình bằng hữu với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng
đỡ họ, không còn ý nghĩa và mục đích cho đời sống. Thay vì sợ đi lạc, tôi mong
rằng chúng ta nên sợ mình bị giam hãm trong những cơ chế khiến chúng ta có một
cảm giác an toàn giả tạo, trong những luật lệ khiến chúng ta thành những quan
tòa khắt khe, trong những thói quen khiến cho chúng ta cảm thấy an toàn, trong
khi ở cửa nhà chúng ta người ta đang đói khát và Đức Giêsu không ngừng nói với
chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6,37)”[3].
4. Được thúc đẩy bởi mối quan tâm này, Hội Thánh “trung
thành với truyền thống của mình và đồng thời cũng ý thức sứ mệnh phổ quát của
mình, có thể liên kết với nhiều hình thức văn hóa khác nhau, qua đó, chính Hội
Thánh cũng như các nền văn hóa được thêm phong phú”[4]. Sự gặp gỡ phong nhiêu và
đầy sáng tạo giữa Tin Mừng và văn hóa sẽ dẫn đến sự tiến bộ thực sự: một mặt,
Lời Thiên Chúa nhập thể trong lịch sử nhân loại và đổi mới lịch sử ấy; mặt
khác, “Hội Thánh […] có thể được thêm phong phú và thực sự là như thế nhờ sự
phát triển của đời sống xã hội nhân loại”[5], nhờ đó sứ mạng mà Chúa
Kitô trao phó cho Hội Thánh được đào sâu và diễn tả tốt hơn trong thời đại
chúng ta ngày nay.
5. Hội Thánh loan báo Ngôi Lời “đã trở nên người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời Thiên Chúa đó, Đấng hằng
yêu thích ở giữa loài người với sự giàu có vô tận của Người[6], được các dân tộc khác
nhau trên khắp thế giới đón nhận, khơi dậy nơi họ những khát vọng cao quý nhất,
như lòng khát khao Thiên Chúa, phẩm giá của từng con người, sự bình đẳng giữa
mọi người và sự tôn trọng sự khác biệt trong gia đình nhân loại duy nhất, sự
đối thoại như phương thế để tham dự, nỗi khát khao hòa bình, sự tiếp đón như
một biểu lộ tình huynh đệ và liên đới, cùng nhau chăm lo thế giới tạo thành với
tinh thần trách nhiệm[7].
Cho nên, thật không thể tưởng tượng được rằng một sự mới
mẻ như thế mà chưa được loan truyền đến tận cùng trái đất, lại còn giảm sút đi,
hay còn tệ hơn nữa là biến mất[8]. Để cho hành trình của
Ngôi Lời được tiếp tục, cộng đoàn Kitô hữu phải có một quyết định truyền giáo
dứt khoát “có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, cách hành động, giờ
giấc và chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông
thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là để tự bảo
tồn”[9].
II. Giáo xứ trong hoàn cảnh hiện nay
6. Việc hoán cải theo hướng truyền giáo đề cập trên đây,
đương nhiên đưa tới việc phải cải tổ các cơ cấu, liên quan đến giáo xứ cách
riêng, tức là cộng đoàn quy tụ quanh Bàn Tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Giáo xứ có một lịch sử lâu dài, và ngay từ khởi đầu, đã
đóng một vai trò nền tảng trong đời sống Kitô hữu, trong sự phát triển và hoạt
động mục vụ của Hội Thánh. Chúng ta có thể thấy điều này trong các Thư của
Thánh Phaolô. Nhiều bản văn của ngài cho chúng ta thấy việc thành lập các cộng
đoàn nhỏ như những hội thánh tại gia, mà Thánh Tông đồ gọi đơn giản là “nhà”
(x. Rm 16,3-5; 1Cr 16,19-20; Pl 4,22).
Với những “nhà” này, chúng ta hình dung sự ra đời của những “giáo xứ” đầu tiên.
7. Từ lúc khai sinh, giáo xứ được hình dung như đáp ứng
cho một nhu cầu mục vụ rõ rệt, cụ thể là đem Tin Mừng đến với dân chúng bằng
việc thông truyền đức tin và cử hành các Bí tích. Nguyên nghĩa của từ “giáo xứ”
cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà[10] và là lời giải đáp cụ
thể mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống và hoạt động giữa
cộng đoàn. Vì thế, nét đặc trưng cụ thể của giáo xứ là một nơi thờ phượng, một
dấu chỉ của việc Chúa Phục Sinh luôn hiện diện giữa Dân Người.
8. Tuy nhiên, cấu trúc hình thành theo địa giới của giáo
xứ phải đối diện với một đặc điểm rất riêng của thế giới chúng ta ngày nay,
trong đó, tính di động gia tăng và nền văn hóa kỹ thuật số mở rộng các ranh
giới của đời sống. Một mặt, ngày nay người ta ít gắn bó hơn trong một khung
cảnh địa lý rõ ràng và cố định, mà lại sống trong “một ngôi làng toàn cầu và đa
nguyên”; đàng khác, không thể tránh khỏi nền văn hóa kỹ thuật số làm thay đổi
khái niệm về không gian, cùng với ngôn ngữ và hành vi của con người, nhất là
nơi thế hệ trẻ.
Hơn nữa, có thể dễ dàng giả định rằng công nghệ phát
triển liên tục rốt cuộc sẽ làm cho tư duy của chúng ta thay đổi, cùng với nhận
thức về bản thân và về đời sống xã hội. Sự thay đổi nhanh chóng, các mô hình
văn hóa nối tiếp nhau, việc đi lại dễ dàng và tốc độ truyền thông đang làm thay
đổi nhận thức về không gian và thời gian.
9. Là một cộng đoàn tín hữu sống động, giáo xứ tự thấy
mình ở trong một bối cảnh mà sự ràng buộc về lãnh thổ rõ ràng càng ít đi, trong
khi những điểm nối kết càng ngày càng gia tăng và những mối tương quan liên vị
có nguy cơ tan biến vào một thế giới ảo không còn có một dấn thân hay trách
nhiệm nào với người thân cận của mình nữa.
10. Điều đáng lưu ý là những thay đổi văn hóa đó và những
mối quan hệ biến chuyển theo lãnh thổ, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đang thúc đẩy
Hội Thánh phân định lại cách mới mẻ về cộng đoàn, “đó là nhìn thực tại bằng con
mắt của Thiên Chúa, trong nhãn quan hiệp nhất và hiệp thông”[11]. Toàn thể Dân Thiên Chúa
cần mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần để khởi đầu tiến trình
“canh tân” bộ mặt Hội Thánh.
III. Giá trị của giáo xứ ngày nay
11. Nhờ sự phân định này, giáo xứ được mời gọi nhận ra
các dấu chỉ của thời đại, khi đáp ứng nhu cầu của các tín hữu và những biến
chuyển lịch sử. Cần phải có một sức sống mới giúp tái khám phá ơn gọi của những
người đã được rửa tội là trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô và là nhà thừa sai
rao giảng Tin Mừng, dưới ánh sáng của Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau
Công đồng.
12. Các Nghị phụ Công đồng đã tiên liệu trước khi viết:
“việc chăm sóc các linh hồn cần phải luôn thấm nhuần tinh thần truyền giáo”[12]. Tiếp nối giáo huấn này,
Thánh Gioan Phaolô II chỉ rõ rằng: “Mặc dù giáo xứ phải được xây dựng hoàn hảo
hơn và được hội nhập vào rất nhiều hình thức khác nhau, giáo xứ vẫn là một tổ
chức thiết yếu quan trọng hàng đầu trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh”, nhờ đó
“việc Loan báo Tin Mừng trở thành là trục trung tâm của mọi hoạt động mục vụ,
đòi hỏi của việc Loan báo Tin Mừng là cơ bản, quan trọng nhất, và ưu tiên”[13]. Rồi đến Đức Bênêđictô
XVI, ngài đã dạy rằng: “giáo xứ là ngọn hải đăng tỏa chiếu ánh sáng đức tin và
như thế đáp ứng những khát vọng sâu xa và chân thực nhất của tâm hồn con người,
đem lại ý nghĩa và hy vọng cho đời sống cá nhân và gia đình”[14]. Sau cùng, Đức Thánh Cha
Phanxicô nhắc nhở “giáo xứ phải khích lệ và đào tạo để các thành viên trở nên
người loan báo Tin Mừng”[15].
13. Để làm gia tăng hơn nữa tầm quan trọng trung tâm của
sự hiện diện thừa sai của cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới[16], điều quan trọng không
phải chỉ là suy tư về một kinh nghiệm mới của giáo xứ, nhưng còn là suy tư về
thừa tác vụ và sứ vụ của linh mục, là người cùng với giáo dân, có nhiệm vụ trở
thành “muối và ánh sáng trần gian” (x. Mt 5,13-14), một “ngọn
đèn đặt trên đế” (Mc 4,21), soi tỏ khuôn mặt của một cộng đoàn Loan
báo Tin Mừng, có khả năng đọc được các dấu chỉ của thời đại và làm chứng bằng
lối sống thuyết phục theo Tin Mừng.
14. Bắt đầu bằng việc xem xét những dấu chỉ của thời đại,
cần phải sản sinh ra những dấu chỉ mới trong khi lắng nghe Chúa Thánh Thần. Vì
giáo xứ không còn là nơi tụ họp chính yếu và là trung tâm xã hội như thời xưa
nữa, nên giáo xứ cần phải tìm ra những hình thức mới để đồng hành và gần gũi
qua các sinh hoạt thường ngày. Không nên xem nhiệm vụ này như một gánh nặng,
nhưng là một thách đố để nhiệt tâm theo đuổi.
15. Noi gương Thầy mình, các môn đệ của Chúa, trong
trường học của các Thánh và của các mục tử, đã học biết, không phải không có
khổ đau, chờ đợi thời giờ và đường lối của Thiên Chúa, nhờ đó xác tín rằng:
Người vẫn luôn hiện diện cho đến tận thế, và Chúa Thánh Thần – trái tim đang
đập trong đời sống Hội Thánh – sẽ quy tụ con cái Chúa đang tản mác khắp nơi
trên thế giới. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu đừng sợ bắt đầu và tiến hành những
chương trình tại những nơi có các nền văn hóa đa dạng, với hi vọng chắc chắn
rằng: đối với các môn đệ của Đức Kitô, “không có gì thực sự của con người mà
không âm vang trong trái tim họ”[17].
IV. Truyền giáo: Kim chỉ nam để canh tân
16. Trước thực tế đang thay đổi nói trên đây, mặc dù rất
dấn thân quảng đại, mô hình giáo xứ hiện thời không còn đáp ứng được những kỳ
vọng của các tín hữu nữa, nhất là khi người ta xét thấy sự đa dạng của các loại
cộng đoàn hiện hữu hôm nay[18]. Quả thực, một đặc điểm
của giáo xứ là việc bám rễ tại trung tâm nơi dân chúng sống ngày này qua ngày
khác. Tuy nhiên, lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là
bối cảnh nơi đời sống con người được thể hiện qua các mối quan hệ, qua việc
phục vụ lẫn nhau và qua truyền thống lâu đời. Chính trong “lãnh thổ hiện sinh”
này, mà Hội Thánh đang phải đối diện với những thách đố đang diễn ra ngay trong
lòng cộng đoàn. Vì thế, bất cứ hoạt động mục vụ nào mà chỉ giới hạn trong lãnh
thổ của giáo xứ đều trở nên lỗi thời, đó là điều mà chính người giáo dân nhận
thấy khi giáo xứ của họ có vẻ bảo thủ chỉ biết hoài cổ thay vì bạo dạn hướng về
tương lai[19]. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng, về phương diện giáo luật, nguyên tắc tòng thổ vẫn có hiệu lực, khi được
quy định bởi pháp luật[20].
17. Hơn nữa, những hoạt động theo thói quen đều đặn không
có tác động gì đến đời sống con người cụ thể sẽ chỉ là một cố gắng sống còn cằn
cỗi, thường chỉ được mọi người thờ ơ đón nhận. Nếu giáo xứ không sống tinh thần
năng động loan báo Tin Mừng, thì có nguy cơ giáo xứ tự quy chiếu vào chính mình
và xơ cứng, cho những kinh nghiệm thiếu hương vị Tin Mừng và thiếu lòng nhiệt
thành truyền giáo, chỉ biết đến những nhóm nhỏ mà thôi.
18. Canh tân công cuộc Loan báo Tin Mừng đòi hỏi một cách
tiếp cận mới với những sáng kiến mục vụ đa dạng, làm sao cho Lời Chúa và đời
sống bí tích có thể chạm tới từng người tùy theo bậc sống của họ. Ngày càng
thấy rõ hơn rằng tư cách thành viên của Hội Thánh ngày nay không hệ tại ở nơi
ta sinh ra và lớn lên, cho bằng là việc ta tham dự vào một cộng đoàn do được
thừa nhận[21], nơi đó người tín hữu có
một kinh nghiệm rộng mở hơn về Dân Thiên Chúa, cảm nhận thực sự mình thuộc về
một thân thể gồm nhiều bộ phận kết hợp với nhau, mỗi người làm việc vì thiện
ích chung (1Cr 12,12-27).
19. Ngoài nơi chốn và lí do làm ta trở nên thành phần của
Hội Thánh, cộng đoàn giáo xứ còn là bối cảnh nhân loại, trong đó ta thực hiện
công cuộc Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, nơi cử hành các Bí Tích và sống tình
bác ái, với một lòng nhiệt thành truyền giáo; và đây là điều không những là một
phần nội tại của hành động mục vụ mà còn là tiêu chuẩn đánh giá tính xác thực
của Hội Thánh Chúa Kitô. Thời nay đặc biệt, có khi có nhiều người bị loại ra
bên lề xã hội và cô đơn, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên dấu chỉ sống
động của sự gần gũi của Chúa Kitô qua các mối dây liên kết huynh đệ, hằng quan
tâm đến những hình thức nghèo khổ mới.
20. Từ những gì đã được nói đến trên đây, chúng ta cần
phải xác định những viễn tượng giúp canh tân cơ cấu giáo xứ “truyền thống” theo
định hướng truyền giáo. Đây là trọng tâm của việc hoán cải mục vụ hằng mong
đợi, vốn cần phải đạt tới những việc như loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và
việc làm chứng bác ái, nói khác đi, là những lãnh vực thiết yếu mà giáo xứ phát
triển và thích nghi để phù hợp với Mầu nhiệm mà mình tin.
21. Đọc kỹ sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nhận thấy vai
trò chính yếu của tác nhân Lời Thiên Chúa, là quyền năng biến đổi bên trong làm
hoán cải các tâm hồn. Lời Chúa là lương thực dưỡng nuôi các môn đệ của Người và
làm cho họ trở nên chứng nhân Tin Mừng trong những hoàn cảnh khác nhau của đời
sống. Thánh Kinh hàm chứa một sức mạnh mang tính tiên tri khiến cho Lời Chúa
luôn đầy sức sống. Cho nên giáo xứ cần phải hướng dẫn các tín hữu biết đọc và suy
gẫm Lời Chúa qua nhiều phương thức khác nhau để rao truyền[22], truyền đạt rõ ràng và dễ
hiểu để loan báo Chúa Giêsu bằng lời chứng luôn luôn mới mẻ của lời
loan báo tiên khởi (kerygma)[23].
22. Cử hành mầu nhiệm Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp
đỉnh của toàn thể đời sống Kitô giáo”[24] và vì vậy, là nhân tố
cơ bản làm nên cộng đoàn giáo xứ. Chính nơi đó, Hội Thánh ý thức ý nghĩa danh
xưng của mình (Ecclesia), nghĩa là Dân Thiên Chúa được kêu gọi cùng quy
tụ lại để ca tụng, khẩn cầu, xin ơn và tạ ơn. Khi cử hành Thánh Thể, cộng đoàn
Kitô hữu đón mừng sự hiện diện sống động của Đức Chúa Đấng Chịu Đóng Đinh và
Phục Sinh, đón nhận lời loan báo toàn thể mầu nhiệm Cứu độ.
23.Qua đó, Hội Thánh thấy cần phải tái khám phá nghi thức
khai tâm Kitô giáo, khai sinh ta trong đời sống mới, nghĩa là được tham dự vào
mầu nhiệm sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là một hành trình tiếp diễn thường
xuyên, không chỉ gắn kết với các cử hành hay biến cố, bởi vì hành trình này
được xác định trước hết, không phải như là nghĩa vụ phải chu toàn một “nghi
thức vượt qua”, nhưng đúng hơn, đây là việc không ngừng bước theo Chúa Kitô.
Trong bối cảnh ấy, thật là hữu ích khi thiết lập một hành trình nhiệm huấn tác
động thực sự đến đời sống[25]. Cả việc dạy Giáo lý cũng
cần phải được trình bày như một sự công bố liên tục Mầu nhiệm Đức Kitô, nhằm
nuôi dưỡng tâm hồn người tín hữu, làm cho tầm vóc Đức Kitô lớn lên mãi
(x. Ep 4,13) qua việc gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa của sự sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ cần phải “lưu ý đến
hai dạng thánh thiện giả hiệu có thể khiến chúng ta đi lạc đường: Ngộ đạo
thuyết và thuyết Pêlagiô. Đây là hai lạc thuyết xuất hiện từ những thế kỷ đầu
Kitô giáo, nhưng vẫn tiếp tục hoành hành nơi chúng ta ngày nay”[26]. Trong trường hợp thuyết
Ngộ đạo, chúng ta gặp phải một thứ đức tin trừu tượng chỉ thuộc về trí khôn và
những tri thức xa rời thực tại đời sống; trong khi đó, phái Pêlagiô dẫn người
ta đến chỗ chỉ cậy dựa vào sức riêng của chính mình mà thôi, và bỏ qua hoạt
động của Chúa Thánh Thần.
24. Trong sự tương tác mầu nhiệm giữa hành động của Thiên
Chúa và con người, việc Loan báo Tin Mừng của các tín hữu hệ tại ở những gì họ
tuyên xưng bằng chứng tá đời sống, qua các mối tương quan liên vị sinh ra niềm
tin tưởng và hy vọng. Thời đại ngày nay vốn được ghi dấu bởi sự thờ ơ, cá nhân
chủ nghĩa và không chấp nhận người khác, nên việc tái khám phá tình huynh đệ là
rất quan trọng và cần thiết vì sứ vụ Loan báo Tin Mừng, gắn bó mật thiết với
các mối quan hệ nhân linh[27]. Như thế, cộng đoàn Kitô hữu
sống Lời Chúa Giêsu, Người thúc đẩy chúng ta “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới”
(Lc 5,4), vâng lời Thầy và xác tín thả lưới chúng ta sẽ bắt được
một “mẻ cá lớn”[28].
25. Nền “văn hóa gặp gỡ” lấy con người làm trung tâm nên
thúc đẩy việc đối thoại, liên đới và cởi mở đón nhận người khác. Bởi thế, giáo
xứ cần phải là “nơi chốn” đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi
dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp người ta cảm nhận mình
thuộc về và được yêu thương.
26. Cộng đoàn giáo xứ được thực sự mời gọi phát huy “nghệ
thuật cảm thông”. Nếu bám rễ sâu, giáo xứ sẽ trở nên thực sự là một nơi giúp
vượt qua sự cô đơn, vốn ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người, cũng như là
“một thánh điện để những ai khát dọc đường đến mà uống, và là một trung tâm
thừa sai thường xuyên phải đi Loan báo Tin Mừng”[29].
V. “Một cộng đoàn của các cộng đoàn”: một giáo xứ bảo
bọc, phúc-âm-hóa và quan tâm đến người nghèo
27. Chủ thể của việc truyền giáo và hoạt động Loan báo
Tin Mừng của Hội Thánh luôn là toàn thể Dân Thiên Chúa. Giáo Luật nhấn mạnh
rằng: giáo xứ không phải là một tòa nhà hay tập hợp các công trình kiến trúc,
mà là một cộng đoàn tín hữu nhất định, nơi đó Cha sở là chủ chăn thực sự[30]. Đức Thánh Cha Phanxicô
lưu ý rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một lãnh thổ nhất định,
là nơi để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao
giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”, và ngài khẳng định rằng giáo xứ
là “một cộng đoàn của các cộng đoàn”[31].
28. Các thành phần khác nhau làm nên giáo xứ được mời gọi
hiệp thông và hiệp nhất. Khi mỗi thành phần đều nhìn nhận vai trò bổ túc của
mình trong việc phục vụ cộng đoàn, một mặt, người ta sẽ thấy được thừa tác vụ
được thực hiện trọn vẹn qua sự cộng tác giữa cha sở và các linh mục phụ tá của
ngài, đàng khác, người ta cũng nhận ra những đặc sủng khác nhau của các thầy
phó tế, những người thánh hiến và giáo dân cùng cộng tác để xây dựng thân thể
duy nhất của Chúa Kitô (x. 1Cr 12,12).
29. Giáo xứ là một cộng đoàn được Chúa Thánh Thần quy tụ
để loan báo Lời Chúa và tái sinh những con cái mới của Chúa nơi giếng rửa tội.
Được vị mục tử tập họp, giáo xứ cử hành lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và
sự phục sinh của Chúa, làm chứng cho đức tin trong đức ái, sống tình trạng thừa
sai thường xuyên, để không một ai bị loại trừ khỏi sứ điệp cứu độ ban sự sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả như sau: “Giáo xứ không
phải là một cơ chế lỗi thời; chính vì giáo xứ có tính linh hoạt cao, có thể đảm
nhận những hình thức rất khác biệt đòi hỏi một sự uyển chuyển và tinh thần sáng
tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc hẳn giáo xứ không phải
là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nếu cho thấy mình có khả năng tự canh tân
và không ngừng thích nghi, giáo xứ sẽ tiếp tục là chính “Hội Thánh đang sống
giữa những căn nhà của con cái mình”. Điều này giả định là giáo xứ thực sự tiếp
xúc với các gia đình và với đời sống của người dân, và không trở thành một tổ
chức vô dụng xa cách quần chúng, hay là một nhóm người ưu tuyển khép kín […].
Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng: lời kêu gọi các giáo xứ của chúng ta xét mình
và canh tân vẫn chưa đủ sức để các giáo xứ đến gần người dân hơn, để giáo xứ
trở thành môi trường sống hiệp thông và tham gia, và làm cho giáo xứ hoàn toàn
hướng về việc truyền giáo”[32].
30. “Tính thiêng liêng và tính Giáo hội của các Đền
Thánh” – vốn là những “tiền đồn truyền giáo” đích thực – không phải là không
liên quan đến giáo xứ, vốn cũng có đặc điểm như các Đền Thánh bởi tinh thần
hiếu khách, đời sống cầu nguyện và thinh lặng giúp canh tân tâm linh, việc cử
hành Bí tích Hòa giải và chăm lo cho người nghèo khổ. Các cuộc hành hương của
giáo xứ tới những Đền Thánh là những phương thế quý giá có thể giúp củng cố
tình hiệp thông huynh đệ, và khi trở về giáo xứ, mọi người cởi mở và hiếu khách
hơn[33].
31. Theo hướng đó, một Đền Thánh giống giáo xứ ở chỗ bao
gồm mọi đặc điểm và công việc cần phải có trong cộng đoàn giáo xứ, đáp ứng khát
khao tìm kiếm nội tâm của các tín hữu và là nơi họ có thể gặp được dung nhan
lòng thương xót của Chúa Kitô trong một Hội Thánh lúc nào cũng niềm nở hiếu
khách.
Năng viếng các Đền Thánh có thể giúp người tín hữu tái
khám phá chính mình là người “đã được Chúa Thánh Thần xức dầu” (1Ga 2,20),
nghĩa là họ được thánh hiến nhờ Bí tích Rửa tội. Ở những nơi như thế, người ta
học biết cách cử hành sốt sắng sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa Dân
Người qua phụng vụ, qua vẻ đẹp của sứ mệnh Loan báo Tin Mừng của những người đã
được thanh tẩy, và qua lời mời gọi thực thi đức ái trong đời sống hằng ngày[34].
32. Là một ‘thánh điện’ rộng mở cho mọi người, giáo xứ
được mời gọi vươn ra đến với mọi người, không trừ ai, cần phải nhớ rằng người
nghèo và người bị loại trừ phải luôn luôn chiếm vị trí ưu tiên trong lòng Hội
Thánh. Như Đức Bênêđictô XVI khẳng định: “Tin Mừng phải được rao giảng đặc biệt
cho người nghèo”[35]. Ngoài ra, như Đức Thánh
Cha Phanxicô đã nhận định: “Công cuộc tân Phúc-âm-hóa là một lời mời gọi nhìn
nhận quyền năng cứu độ đang hoạt động trong đời sống của người nghèo và đặt họ
vào tâm điểm cuộc lữ hành của Hội Thánh. Chúng ta được mời gọi nhận ra Đức Kitô
nơi họ, lên tiếng bênh vực quyền lợi của họ, nhưng cũng để trở thành bạn hữu
của họ, lắng nghe họ, nói thay cho họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà
Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta qua họ”[36].
33. Cộng đoàn giáo xứ thường là nơi gặp gỡ nhân bản
và cá vị, đầu tiên của người nghèo, với khuôn mặt của Hội Thánh. Đặc biệt, các
linh mục, phó tế và tu sĩ phải là những người trước hết biết chạnh lòng thương
đến “thân xác đầy thương tích”[37] của anh chị em mình,
thăm viếng những người đau yếu, nâng đỡ người thất nghiệp và gia đình họ, từ đó
mở rộng cửa cho những ai khốn khó. Bằng việc quan tâm đến những người cùng khổ,
cộng đoàn giáo xứ Phúc-âm-hóa và được Phúc-âm hóa bởi người nghèo, tái khám phá
lời mời gọi rao giảng Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh[38], đồng thời nhắc ta nhớ
“luật tối thượng” của đức ái mà theo đó chúng ta sẽ bị xét xử[39].
VI. Từ hoán cải con người đến cải tổ cơ cấu
34. Trong tiến trình canh tân và tái cơ cấu, giáo xứ phải
tránh nguy cơ rơi vào bệnh quan liêu quá hình thức trong tổ chức các sự kiện, cùng
với các hoạt động không thể hiện tính năng động của việc Loan báo Tin Mừng, mà
chỉ dựa trên tiêu chuẩn tự bảo tồn[40].
Trích dẫn lời Thánh Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn
quen thẳng thắn nói: “Giáo hội phải đi sâu vào để nhận thức chính mình,
suy gẫm về mầu nhiệm của mình [...]. Trong Giáo hội, có những cơ chế cản trở nỗ
lực Loan báo Tin Mừng, cũng thế, những cơ chế tốt chỉ có ích khi có một sức
sống liên lỉ khởi động, nâng đỡ và lượng định chúng. Nếu không có một sức sống
mới và một tinh thần Phúc-âm thực sự, nếu Giáo hội không “trung thành với ơn
gọi của chính mình”, thì mọi cơ chế mới nào chẳng bao lâu cũng sẽ bị biến chất”[41].
35. Việc cải tổ cơ cấu mà Hội Thánh thực hiện đòi hỏi
phải thực sự thay đổi não trạng và đổi mới tâm hồn, nhất là những người được
trao phó trọng trách lãnh đạo mục vụ. Để trung thành với mệnh lệnh của Chúa
Kitô, các mục tử và đặc biệt các cha xứ là những “cộng sự viên đặc biệt
của Giám mục”[42], phải biết rõ nhu cầu cấp
bách cải cách các hoạt động mục vụ theo hướng truyền giáo.
36. Vì cộng đoàn Kitô hữu có liên hệ thâm sâu với lịch sử
của mình với những tình cảm thân thương, nên các mục tử không được quên rằng
đức tin của Dân Chúa được dệt nên từ những kí ức của gia đình và cộng đoàn.
Thông thường, một nơi chốn thiêng liêng nào đó hay gợi lên những khoảnh khắc
đầy ý nghĩa trong cuộc sống của các thế hệ đã qua, những người và những sự kiện
đã ghi khắc ấn tượng đậm đà trên hành trình cá nhân và gia đình chúng ta. Để
tránh gây chấn động và tổn thương, điều quan trọng là cần phải thực hiện tiến
trình tái cơ cấu các cộng đoàn của giáo xứ, hoặc có khi là của giáo phận, một
cách linh hoạt và tiệm tiến.
Đề cập đến việc cải cách Giáo triều Rôma, Đức Giáo hoàng
Phanxicô nhấn mạnh rằng sự tiệm tiến ấy “là thành quả của một sự phân định cần
thiết, bao hàm tiến trình lịch sử, sự tiếp nối nhau của thời gian và các giai
đoạn, đánh giá, chỉnh sửa , thử nghiệm và phê chuẩn “kinh nghiệm”. Trong những
trường hợp này, vấn đề không phải là thiếu quyết đoán mà là cần phải linh hoạt
để có thể đạt tới việc cải cách thực sự”[43]. Do đó, đừng “đốt giai
đoạn” khi muốn thực hiện việc cải cách quá vội vàng dựa trên những tiêu chuẩn
chung chung với kiểu lý luận “bàn giấy” mà quên đi những con người cụ thể đang
sống trong lãnh thổ. Một cách cụ thể, mỗi dự án phải được suy nghĩ trong bối
cảnh thực tế của đời sống cộng đoàn và phải gắn chặt với cộng đoàn mà không gây
tổn thương; trước hết là giai đoạn tham khảo cần thiết, sau là đến giai đoạn
thực hiện từng bước một, và cuối cùng là giai đoạn kiểm chứng.
37. Hẳn nhiên, việc tái cơ cấu này không chỉ thuộc trách
nhiệm của cha sở, cũng không thể được áp đặt từ bên trên, mà không quan tâm đến
Dân Chúa. Trong việc cải tổ mục vụ các cơ cấu ta phải ý thức rằng: “Dân
thánh trung tín của Thiên Chúa được xức dầu với ơn sủng của Chúa Thánh Thần; do
đó, khi xem xét, suy nghĩ, đánh giá, phân định, chúng ta phải hết sức chú ý đến
sự xức dầu này. Mỗi khi, trong tư cách là Hội Thánh, là mục tử, là người tận
hiến, mà chúng ta quên mất điều xác tín này thì chúng ta đã lầm đường lạc lối.
Mỗi khi chúng ta muốn thay thế, bịt miệng, xóa hủy, làm lơ, hoặc thu hẹp toàn
thể Dân Chúa vốn đa dạng vào một nhóm ưu tuyển, thì chúng ta đang xây dựng cộng
đoàn, lên kế hoạch mục vụ, thiết lập những chương trình thần học, linh đạo và
cơ cấu không có gốc rễ, không có lịch sử, không có nhân dạng, không ký ức, không
hình hài, tắt một lời là vô hồn. Khi không đâm rễ vào đời sống của Dân Chúa,
thì chúng ta mau chóng tiêu điều và làm biến chất bản tính của Hội Thánh”[44].
Theo nghĩa ấy, hàng giáo sĩ không chỉ biến đổi mình theo
sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nhưng còn dấn thân vào việc hoán cải liên quan
đến toàn thể Dân Chúa[45]. Do đó, cần phải “ý
thức và sáng suốt tìm kiếm những không gian sống hiệp thông và tham dự để sự
xức dầu của toàn Dân Thiên Chúa có được phương thế cụ thể để thể hiện”[46].
38. Do đó, cần phải vượt qua, không những quan niệm giáo
xứ tự quy chiếu về mình mà còn quan niệm “giáo sĩ hóa việc mục vụ”. Phải nghiêm
túc nhìn nhận rằng Dân Chúa “theo danh phận mình có phẩm giá và tự do
của con cái Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong đền thờ”[47]. Điều này thúc đẩy phát
triển những thực hành cũng như các mẫu gương mà qua đó mỗi người đã được rửa
tội, nhờ ơn Chúa Thánh Thần và các đặc sủng đã lãnh nhận, thể hiện như một tác
nhân tích cực của việc Phúc-Âm-hóa, theo phong cách và phương thức của một cộng
đoàn có tổ chức, cùng với những cộng đoàn giáo xứ khác cũng như với việc mục vụ
của toàn giáo phận. Thật vậy, chính toàn thể cộng đoàn là chủ thể chịu trách
nhiệm về việc truyền giáo, vì Hội Thánh không chỉ là hàng giáo phẩm, mà là toàn
thể Dân Thiên Chúa.
39. Các mục tử có nhiệm vụ duy trì sự năng động này, để
mỗi người đã rửa tội ý thức rằng mình là tác nhân của việc Phúc-âm-hóa. Hàng
linh mục được huấn luyện thường xuyên[48] phải khôn ngoan thực
hành nghệ thuật phân định để giúp cho đời sống giáo xứ được phát triển và
trưởng thành, khi tôn trọng các ơn gọi và thừa tác vụ khác nhau. Do đó, với tư
cách là thành viên và là người phục vụ Dân Chúa đã được giao phó, linh mục
không thể loại bỏ sự hợp tác của người giáo dân. Cộng đoàn giáo xứ có quyền đề
nghị các hình thức thừa tác vụ, để loan báo đức tin và làm chứng cho đức ái.
40. Chúa Thánh Thần – là Quà tặng nhưng không của Chúa
Cha và Chúa Con cho Hội Thánh – ở trung tâm của cộng đoàn khơi dậy nơi tín hữu
lòng quảng đại dâng hiến “nhưng không” này, theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Anh
em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
Chúa đã dạy các môn đệ sống tinh thần phục vụ quảng đại, mỗi người phải là món
quà cho người khác (x. Ga 13, 14-15), đặc biệt quan tâm ưu
tiên đến người nghèo. Từ đó, nhất thiết không được “thương mại hóa” đời sống bí
tích, và cho người ta cảm tưởng rằng việc cử hành các bí tích, nhất là Bí tích
Thánh Thể, và các việc phục vụ khác là những dịch vụ được định giá cả.
Người mục tử, khi quảng đại phục vụ đàn chiên, cũng phải
dạy dỗ các tín hữu sao cho mỗi thành viên trong cộng đoàn cảm thấy mình có
trách nhiệm và trực tiếp tham gia để đáp ứng các nhu cầu của Hội Thánh, bằng
nhiều hình thức trợ giúp khác nhau trong tình liên đới, mà giáo xứ cần để chu
toàn bổn phận mục vụ một cách tự do và hiệu quả.
41. Sứ mạng của giáo xứ, với tư cách như là trung tâm
phát động chính của công cuộc Loan báo Tin Mừng, liên quan đến mọi thành phần
khác nhau của Dân Thiên Chúa: linh mục, phó tế, những người thánh hiến và Kitô
hữu giáo dân, mỗi người tùy theo đặc sủng và trách nhiệm của đấng bậc mình.
VII. Giáo xứ và các cơ sở khác trong giáo phận
42. Hoán cải mục vụ của cộng đoàn giáo xứ theo hướng
truyền giáo được hình thành và thể hiện trong một tiến trình cải tổ dần các cơ
cấu; do đó, dẫn đến đổi mới cả những cách thức ủy thác khác nhau việc chăm sóc
mục vụ, cũng như các hình thức tham gia khác nhau của mọi thành phần Dân Chúa.
43. Trong ngôn ngữ hiện hành, từ các văn kiện Huấn quyền
liên quan đến việc phân chia lãnh thổ trong giáo phận[49], những diễn ngữ mới được
thêm vào ngoài các từ giáo xứ và giáo hạt đã được Bộ Giáo Luật hiện hành nói
đến[50], thì từ mấy thập niên qua
đã có thêm những cụm từ khác như “đơn vị mục vụ” và “vùng mục vụ”. Những tên
gọi này thật sự định nghĩa những hình thức tổ chức mục vụ mới trong giáo phận,
diễn tả mối tương quan mới giữa các tín hữu và lãnh thổ.
44. Với việc sử dụng từ ngữ “đơn vị mục vụ” hay “vùng mục
vụ”, hẳn nhiên không ai nghĩ rằng đưa ra giải pháp cho nhiều vấn đề thời nay,
chỉ bằng việc đơn giản gán một tên gọi mới cho những thực tại đang hiện hữu.
Trọng tâm của tiến trình đổi mới, không phải là thụ động chịu đựng sự thay đổi,
mà là ra sức thúc đẩy và định hướng nó, và tìm ra những cơ cấu giúp mọi thành
phần trong cộng đoàn Kitô hữu thực hiện ơn gọi chung Loan báo Tin Mừng, nhắm
đến việc chăm sóc mục vụ hữu hiệu hơn cho Dân Chúa, mà “chìa khóa” cho việc đó
là sự gần gũi.
45. Theo quan điểm đó, Giáo luật nhấn mạnh đến sự cần
thiết xác định các vùng lãnh thổ rõ rệt[51] của mỗi giáo phận,
những vùng này sau đó có thể được hợp lại thành những thực tại trung gian nằm
giữa giáo phận và mỗi giáo xứ. Bởi thế, xét quy mô giáo phận lớn hay nhỏ và
thực tế mục vụ cụ thể của nó mà ta có thể ấn định nhiều loại nhóm giáo xứ khác
nhau[52].
Sự hiệp thông Hội Thánh được sống và hoạt động chính
trong lòng những nhóm này, với việc lưu ý đặc biệt đến vùng lãnh thổ cụ thể. Vì
vậy, khi thiết lập các nhóm như thế, cần phải đặc biệt xét đến tính thuần nhất
của dân chúng trong vùng và các tập quán của họ, cũng như những nét đặc trưng
chung trong khu vực, hầu tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ gần gũi giữa
các cha xứ và các tác viên mục vụ khác[53].
VII.a.
Tiến hành thiết lập một cụm giáo xứ như thế nào?
46. Trước khi thành lập các cụm giáo xứ, đầu tiên Giám
mục phải tham khảo ý kiến của Hội đồng linh mục[54], theo các quy định Giáo
luật và nhân danh tinh thần đồng trách nhiệm thích đáng trong Giáo hội, chung
cho Giám mục và các thành viên của Hội đồng này.
47. Trước hết, việc thành lập cụm các giáo xứ có thể được
thực hiện dưới một hình thức liên kết đơn giản, nhờ đó, các giáo xứ liên kết
vẫn giữ được bản sắc riêng của mình.
Theo quy tắc Giáo luật, việc thiết lập bất kì một nhóm
nào giữa các giáo xứ gần nhau, dĩ nhiên phải tuân theo các yếu tố thiết yếu của
luật phổ quát liên quan đến tư cách pháp nhân của giáo xứ, và Giám mục không
được miễn chuẩn luật này[55]. Đối với giáo xứ nào mà
Giám mục dự định giải thể, ngài phải ban hành một sắc lệnh cụ thể nêu rõ các lý
do thích hợp[56].
48. Từ những gì được nêu ra trên đây, việc thành lập cụm giáo
xứ, bao gồm việc thiết lập hoặc giải thể các giáo xứ, phải được Giám mục giáo
phận thực hiện theo quy tắc đã được Bộ Giáo Luật tiên liệu, điều đó có nghĩa là
thông qua việc sáp nhập, một giáo xứ được hoàn toàn nhập vào một giáo xứ khác,
thì sẽ mất danh tính và tư cách pháp nhân vốn có của mình; hoặc thông qua việc
hợp nhất thật sự, để trở nên một giáo xứ duy nhất hoàn toàn mới, với hậu quả là
các giáo xứ đã có trước đó bị giải thể cùng với tư cách pháp nhân của chúng;
hoặc, sau cùng, thông qua một việc phân chia từ một cộng đoàn giáo xứ thành
những giáo xứ tự trị và hoàn toàn mới[57].
Ngoài ra, việc giải thể một giáo xứ khi sáp nhập là hợp
pháp vì những lý do liên quan trực tiếp đến một giáo xứ nhất định. Có những lý
do giải thể không đủ hiệu lực, chẳng hạn, tình trạng thiếu linh mục giáo phận,
tình hình tài chính chung của giáo phận, hoặc các hoàn cảnh khác của cộng đoàn
mà dự trù có thể thay đổi trong tương lai gần (ví dụ: số giáo dân quá lớn, tài
chính thiếu hụt, quy hoạch đô thị trong khu vực). Một điều kiện để các điều
khoản này được hợp pháp là các lý do có liên quan trực tiếp và hữu cơ đến cộng
đoàn giáo xứ, chứ không phải là những xem xét chung chung, lý thuyết hoặc
“nguyên tắc”.
49. Về việc thiết lập hay giải thể giáo xứ, cần nhớ rằng
mọi quyết định phải được chuẩn nhận với một sắc lệnh chính thức bằng văn bản[58]. Do đó, phải được xem là
trái với quy tắc Giáo luật khi chỉ ban hành một điều khoản chung chung nhằm tái
tổ chức toàn giáo phận hoặc một phần giáo phận, hoặc một nhóm giáo xứ, qua chỉ
một đạo luật hành chánh, sắc lệnh chung hay luật đặc thù.
50. Cách riêng, trong trường hợp giải thể một giáo xứ,
sắc lệnh phải ghi rõ tình hình cụ thể và đâu là lý do khiến Giám mục quyết định
như thế. Cho nên, các lý do chính đáng này phải được trình bày một cách cụ thể,
nếu chỉ nói đơn giản là vì “lợi ích các linh hồn” thôi là không đủ.
Trong văn bản giải thể một giáo xứ, Giám mục cũng phải
hướng dẫn việc chuyển nhượng tài sản theo quy định của Giáo luật[59]; trừ khi có những lý do
nghiêm trọng thì phải nghe ý kiến của Hội đồng Linh mục[60], cần thiết phải liệu sao
cho nhà thờ của giáo xứ vẫn mở cửa cho tín hữu.
51. Liên quan đến việc thành lập cụm và giải thể các giáo
xứ, đôi khi cần phải chuyển đổi nhà thờ thành một nơi phàm tục tương hợp[61]. Giám mục giáo phận là
người có thẩm quyền quyết định việc này, sau khi buộc phải tham khảo ý kiến của
Hội đồng Linh mục[62].
Thông thường, ngay cả trong trường hợp ấy, những lý do
của sắc lệnh giải thể như tình trạng thiếu giáo sĩ, dân số sụt giảm hay khủng
hoảng tài chánh của giáo phận là không hợp pháp. Trái lại, nếu một nhà thờ
trong tình trạng
không thể sử dụng vào việc thờ phượng Thiên Chúa bằng bất
cứ cách nào, và cũng không thể tu bổ được nữa, thì Giám mục mới có thể cho sử dụng
nhà thờ đó vào một việc phàm tục tương hợp, chiếu theo quy tắc của luật.
52. Trước hết cần nhắc lại rằng, “để cổ võ việc chăm sóc
mục vụ bằng một hoạt động chung, nhiều giáo xứ gần nhau có thể hợp thành những
nhóm riêng, chẳng hạn như các giáo hạt”[63]; cũng có nhiều cách gọi
khác nhau, chẳng hạn “giáo hạt”, “vùng mục vụ” hay “quận hạt”[64].
53. Cha quản hạt không nhất thiết phải là cha sở của một
giáo xứ nhất định[65]. Hơn nữa, để đáp ứng mục
đích mà cha quản hạt được bổ nhiệm, trách nhiệm chính của ngài là “cổ võ và
phối hợp hoạt động mục vụ chung trong giáo hạt”[66], sao cho giáo hạt của mình
không chỉ là một tổ chức thuần túy hình thức. Ngoài ra, cha quản hạt “buộc
phải thăm viếng các giáo xứ trong hạt của mình theo sự chỉ đạo của Giám mục
giáo phận”[67].Để có thể chu toàn phận vụ
mình và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động chung giữa các giáo xứ,
tùy hoàn cảnh cụ thể, Giám mục giáo phận có thể ban cho cha quản hạt những năng
quyền khác mà ngài thấy là cần thiết.
54. Tương tự như thế, khi hoàn cảnh đòi hỏi, do việc mở
rộng lãnh thổ giáo hạt hay do số tín hữu gia tăng, và cần để cho các giáo xứ
gần nhau hợp tác dễ dàng hơn, sau khi đã tham khảo ý kiến Hội đồng Linh mục[68], Giám mục cũng có thể ban
hành sắc lệnh kết hợp thành một cụm các giáo xứ khác nhau trong cùng giáo hạt[69], lưu ý đến một số tiêu
chuẩn cụ thể.
55. Trước hết, điều đáng lưu ý là việc thành lập cụm giáo
xứ (gọi là “đơn vị mục vụ”)[70] này nên dựa trên tính
thuần nhất nhiều nhất có thể, xét cả về mặt xã hội học, sao cho hoạt động mục
vụ được thực hiện một cách thống nhất hay nhất quán[71],hướng đến việc truyền
giáo.
56. Ngoài ra, mỗi giáo xứ trong cụm phải được ủy nhiệm
cho một cha sở hoặc một nhóm linh mục liên đới (in solidum) với
nhau cùng chăm sóc tất cả các cộng đoàn giáo xứ[72]. Mặt khác, nếu thấy thích
hợp, Giám mục cũng có thể thành lập cụm gồm nhiều giáo xứ do cùng một cha sở
cai quản[73].
57. Dù sao đi nữa, cần quan tâm đến các linh mục đã thi
hành thừa tác vụ của mình một cách tốt đẹp và được cộng đoàn quý mến; và cũng
phải xét đến lợi ích của các tín hữu vốn luôn gắn bó với các mục tử của họ bằng
lòng yêu mến và tri ân. Vì thế, khi thành lập một cụm giáo xứ đặc biệt nào đó,
Giám mục giáo phận không được ra quyết định trong cùng một sắc lệnh, rằng vì
nhiều giáo xứ đang được trao phó cho một cha sở duy nhất[74], nên các cha sở khác được
giả thiết đang hiện diện và đương nhiệm tại giáo xứ[75] phải về làm việc tại
văn phòng giáo xứ của cha sở duy nhất ấy, hoặc bị tước mất chức vụ của mình.
58. Trong những trường hợp này, trừ khi liên quan đến
việc bổ nhiệm theo cách liên đới (in solidum), Giám mục giáo phận,
trong từng trường hợp cụ thể, có trách nhiệm phải xác định phận vụ và quyền hạn
của vị linh mục điều hành cụm giáo xứ được sáp nhập, cũng như xác định việc hợp
tác của ngài với cha quản hạt[76] mà đơn vị mục vụ được
thiết lập trong giáo hạt ấy.
59. Một khi cụm giáo xứ này đã được thành lập theo Giáo
luật – như là một giáo hạt hay một “đơn vị mục vụ” – thì tùy theo hoàn cảnh cụ
thể, Giám mục sẽ quyết định mỗi giáo xứ phải có Hội đồng Mục vụ Giáo xứ riêng[77], hay chỉ có một Hội đồng
Mục vụ duy nhất cho tất cả các giáo xứ trong cụm. Dù trong bất cứ trường hợp
nào, mỗi giáo xứ trong cụm vẫn còn tư cách và quyền lực pháp nhân, nên phải duy
trì Hội đồng Kinh tế của mình[78].
60. Nhằm ưu tiên cho việc Loan báo Tin Mừng và việc chăm
sóc mục vụ được hiệu quả hơn, nên tổ chức cho các giáo xứ thuộc cụm những hoạt
động mục vụ chung trong một số lãnh vực nhất định (chẳng hạn việc dạy giáo lý,
việc bác ái, mục vụ giới trẻ hoặc mục vụ gia đình) với sự tham gia của mọi
thành phần Dân Chúa: giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân.
61. Nếu nhiều “đơn vị mục vụ” có thể tạo thành một giáo
hạt, thì tương tự như thế, nhất là trong các giáo phận mà lãnh thổ rất rộng
lớn, Giám mục, sau khi đã tham khảo Hội đồng Linh mục[79], có thể gom nhiều giáo hạt
thành “quận hạt” hoặc “khu vực mục vụ”[80]. Vị Đại diện Giám mục[81], nhân danh Giám mục, dưới
thẩm quyền và hiệp thông với ngài, có quyền hành pháp thông thường, cùng những
năng quyền đặc biệt khác mà Giám mục muốn ủy thác, sẽ điều hành các hoạt động
mục vụ trong khu vực.
VIII. Các hình thức thông thường và ngoại thường khi ủy thác việc chăm
sóc mục vụ cộng đoàn giáo xứ
62. Trước hết, cha sở và các linh mục khác, trong sự hiệp
thông với Giám mục, là điểm quy chiếu căn bản cho cộng đoàn giáo xứ, vì sứ vụ
mục tử của họ[82]. Cha sở và các linh mục
khác, đang khi nuôi dưỡng đời sống chung và tình huynh đệ linh mục, cử hành đời
sống bí tích cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn, và được mời gọi tổ chức làm
sao để giáo xứ trở nên dấu chỉ thực sự của sự hiệp thông[83].
63. Liên hệ tới sự hiện diện và sứ vụ của linh mục tại
cộng đoàn giáo xứ, nên có một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống chung[84]; Giáo luật (Điều 280) đã
đề cập đến khuyến nghị này, ngay cả khi việc sống chung không phải là một đòi
buộc đối với các linh mục triều. Về mặt này, cần nhắc lại giá trị nền tảng của
tinh thần hiệp thông, việc cầu nguyện và hoạt động mục vụ chung của các giáo sĩ[85], nhằm sống một chứng tá
hữu hiệu của tình huynh đệ bí tích[86] và một hành động Loan
báo Tin Mừng hiệu quả hơn.
64. Khi trải nghiệm đời sống cộng đoàn, căn tính linh mục
được củng cố, người linh mục bớt lo lắng đến đời sống vật chất hơn, và cám dỗ
của chủ nghĩa cá nhân nhường chỗ cho các tương quan cá vị sâu sắc. Việc cầu
nguyện chung, cùng nhau suy tư và học hỏi, vốn không bao giờ được thiếu vắng
trong đời sống linh mục, có thể giúp rất nhiều cho việc huấn luyện một linh đạo
linh mục nhập thể trong đời sống hằng ngày.
Dù sao đi nữa, theo sự cân nhắc kỹ lưỡng và trong giới
hạn cho phép, Giám mục nên lưu tâm tạo sự hòa hợp nhân bản và thiêng liêng giữa
các linh mục mà ngài dự tính trao phó cho họ coi sóc một hay nhiều giáo xứ, qua
việc mời gọi họ sẵn sàng quảng đại cho sứ vụ mới bằng việc chia sẻ đời sống
huynh đệ chung với anh em đồng sự[87].
65. Trong một số trường hợp, nhất là ở đâu không có
truyền thống hay thông lệ lập nhà xứ, hoặc vì lý do nào khác, lại thiếu nơi ở
cho linh mục, thì ngài có thể về sống tại gia đình mình, nơi đầu tiên hình
thành nhân cách và khám phá ơn gọi[88].
Việc sắp xếp như thế, một mặt có thể có tác dụng tích cực
đến đời sống thường nhật của vị linh mục, vì bảo đảm được một bầu khí thanh
bình và ổn định, nhất là khi cha mẹ ngài còn sống. Mặt khác, linh mục cần phải
tránh, không để mình bị lệ thuộc vào các quan hệ trong gia đình, để toàn tâm
toàn ý lo cho sứ vụ, không phương hại đến mối tương quan, thay vì bổ túc, giữa
gia đình linh mục và cộng đoàn tín hữu.
66. Giáo vụ cha sở bao hàm toàn bộ việc coi sóc các linh
hồn[89]. Vì thế, để được bổ nhiệm
thành sự làm cha sở, người tín hữu phải có thánh chức linh mục[90]; do đó không được trao ban
giáo vụ ấy cho người không có chức thánh ấy hay không có những năng quyền liên
hệ, ngay cả trong trường hợp thiếu linh mục.
Chính vì mối tương quan giữa cha sở và cộng đoàn giáo xứ
phải có sự hiểu biết và gần gũi, nên giáo vụ cha sở không thể được giao cho một
pháp nhân[91]. Cách riêng, ngoài những
gì được dự liệu trong Giáo luật điều 517, thì giáo vụ cha sở không được ủy thác
cho một nhóm người gồm giáo sĩ và giáo dân. Vì thế, phải tránh những tên gọi
như: “nhóm lãnh đạo”, “ban lãnh đạo” hoặc những
cách gọi tương tự, gợi lên một quyền hành tập đoàn trong giáo xứ.
67. Vì cha sở là “chủ chăn riêng của giáo xứ được trao
phó cho ngài”[92], nên do chính luật (ipso
iure) ngài là đại diện giáo xứ trong mọi công việc có tính cách pháp lý[93]. Cha sở là người chịu
trách nhiệm quản trị tài sản của giáo xứ, cũng là “tài sản của Hội thánh”, nên
phải tuân theo các chỉ dẫn của Giáo luật[94].
68. Công đồng Chung Vaticanô II đã khẳng định rằng: “Trong
giáo xứ của mình, vì lợi ích các linh hồn đòi hỏi, cha sở được hưởng quyền ổn
định tại chức”[95]. Do đó, theo nguyên tắc
chung, cha sở phải được “bổ nhiệm vô thời hạn”[96]. Tuy nhiên, Giám mục giáo
phận có thể bổ nhiệm cha sở cho một thời gian hữu hạn, nếu Hội đồng Giám mục đã
quy định trong một sắc lệnh. Vì cha sở cần thiết lập mối tương quan thực sự hữu
hiệu với cộng đoàn được ủy thác cho mình, nên Hội đồng Giám mục không nên quy
định một thời gian quá ngắn dưới 5 năm, cho một lần bổ nhiệm.
69. Dù sao đi nữa, ngay cả khi được bổ nhiệm “vô thời
hạn” hay trong “một thời gian hữu hạn”, vị linh mục phải sẵn sàng đi đến một
giáo xứ khác hay lãnh nhận một trách vụ khác, “vì thiện ích của các linh hồn
hay những nhu cầu hoặc lợi ích của Hội Thánh đòi hỏi”[97]. Cần phải nhớ rằng cha sở
phục vụ giáo xứ chứ không phải giáo xứ phục vụ cha sở.
70. Thông thường, nếu có thể, cha sở lo chăm sóc mục vụ
cho một giáo xứ là tốt nhất, “tuy nhiên, vì tình trạng thiếu linh mục hoặc vì
những hoàn cảnh khác, có thể ủy thác việc coi sóc nhiều giáo xứ gần nhau cho
cùng một cha sở”[98]. “Những hoàn cảnh khác” được
giải thích, chẳng hạn, như lãnh thổ nhỏ bé hay số dân cư ít ỏi, cũng như các
giáo xứ lân cận tiếp giáp nhau. Giám mục giáo phận cần cân nhắc cẩn thận liệu
cha sở được ủy thác coi sóc nhiều giáo xứ, có thể chu toàn, như mục tử thực sự,
giáo vụ cha sở của tất cả và từng giáo xứ một cách đầy đủ và cụ thể hay không[99].
71. Sau khi được bổ nhiệm, cha sở phải chu toàn các bổn
phận đã được trao phó, với mọi quyền lợi và trách nhiệm, cho đến khi chấm dứt
một cách hợp pháp nhiệm vụ mục tử của mình[100]. Đối với việc giải nhiệm
hay thuyên chuyển trước thời hạn, phải tuân theo những thủ tục Giáo luật có
liên quan mà Hội Thánh đã sử dụng để nhận biết điều phù hợp trong trường hợp cụ
thể[101].
72. Vì lợi ích của các tín hữu, ngay cả khi không có lí
do nào khác để chấm dứt giáo vụ, cha sở sẵn sàng đón nhận yêu cầu của Giám mục
giáo phận mà rời bỏ giáo xứ khi đã được 75 tuổi trọn[102]. Việc đệ đơn từ nhiệm sau
khi trọn 75 tuổi[103] phải được coi như một
bổn phận đạo đức, nếu không theo Giáo luật, cho dù điều đó không có nghĩa là
cha sở được chấm dứt ngay giáo vụ của mình. Việc từ nhiệm chỉ có hiệu lực khi
Giám mục giáo phận thông báo cho cha sở bằng văn bản chấp thuận việc từ nhiệm
ấy[104]. Mặt khác, Giám mục cần
nhân từ xem xét đơn từ nhiệm của một cha sở, nếu chỉ vì ngài đã 75 tuổi trọn.
73. Dù sao đi nữa, để tránh một quan niệm thực dụng về sứ
vụ, trước khi chấp thuận việc từ nhiệm, Giám mục giáo phận sẽ cân nhắc cẩn thận
tất cả các tình huống liên quan đến cha sở và giáo xứ, chẳng hạn vì lý do sức
khỏe hay vì kỉ luật, tình hình thiếu hụt linh mục, vì thiện ích của cộng đoàn
giáo xứ và những điều khác tương tự, rồi mới chấp thuận việc từ nhiệm dựa trên
một lý do chính đáng và cân xứng[105].
74. Một cách khác, nếu điều kiện nhân thân cho phép và
nếu còn khả năng làm việc mục vụ, thì Giám mục có thể xét giữ ngài tiếp tục giáo
vụ cha sở, nhưng có thể trợ giúp bởi một linh mục chuẩn bị cho sự kế nhiệm về
sau, nếu có. Ngoài ra, “tùy trường hợp, Giám mục có thể giao cho cha sở về hưu
đảm trách một giáo xứ nhỏ hơn, ít trách nhiệm hơn”[106], hoặc giao phó một công
việc mục vụ khác phù hợp với tình trạng cụ thể của ngài, giúp ngài, nếu cần,
hiểu dù sao cũng không nên cảm thấy mình bị “hạ bệ” hay “trừng phạt” vì việc
thuyên chuyển ấy.
75. Khi chưa thể bổ nhiệm ngay cha sở mới, Giám mục cần
phải chỉ định một vị quản nhiệm giáo xứ[107] theo những chỉ dẫn
của Giáo luật[108].
Quả thật, về bản chất, đây là một chức vụ tạm thời và
được thực hiện trong thời gian chờ bổ nhiệm cha sở mới. Vì lý do này, việc Giám
mục giáo phận bổ nhiệm một quản nhiệm giáo xứ trong thời hạn dài, quá một năm,
hoặc lâu dài, nhằm tránh việc bổ nhiệm một cha sở, là bất hợp pháp.
Kinh nghiệm cho thấy, giải pháp này thường được dùng nhằm
tránh các yêu cầu của luật liên quan đến nguyên tắc về tính bền vững tại chức
của cha sở, nên đó là một sự vi phạm, vừa phương hại đến sứ vụ linh mục, vừa
tác hại đến chính đời sống cộng đoàn. Bởi lẽ trong tình trạng không hiện diện
chắc chắn của vị mục tử như thế, giáo xứ không thể lên kế hoạch Loan báo Tin
Mừng xa rộng, mà chỉ giới hạn vào một mục vụ bảo tồn thôi.
VIII.
c. Ủy thác mục vụ cách liên đới
76. Thêm một khả năng khác nữa là “ở đâu hoàn cảnh đòi
hỏi, trách nhiệm mục vụ của một giáo xứ hoặc của nhiều giáo xứ cùng một lúc có
thể được ủy thác cách liên đới (“in solidum”) cho nhiều tư tế”[109]. Như thế, tùy từng hoàn
cảnh cụ thể đòi hỏi, Giám mục có thể áp dụng cách thận trọng giải pháp này, đặc
biệt vì lợi ích của cộng đoàn giáo xứ đương xét nhờ hoạt động mục vụ chung và
hiệu quả hơn, và còn để thúc đẩy sống linh đạo hiệp thông giữa các linh mục[110].
Trong trường hợp ấy, trong tình hiệp thông với các thành
viên khác trong cộng đoàn giáo xứ, nhóm các linh mục cùng quyết định hành động,
dưới sự chỉ đạo của vị điều hành – người đứng đầu trong nhóm tư tế (primus
inter pares), mà tất cả đều là cha sở thực sự.
77. Chúng tôi đặc biệt khuyến nghị rằng mỗi cộng đoàn
linh mục, được trao phó một hay nhiều giáo xứ để chăm sóc mục vụ cách liên đới,
cần soạn thảo một nội quy, để mỗi người có thể chu toàn tốt nhất công việc và
nhiệm vụ của mình[111].
Vị Điều hành có trách nhiệm điều phối công việc chung của
giáo xứ hay các giáo xứ đã được giao phó cho nhóm. Hơn nữa, đảm nhận tư cách
đại diện pháp lý[112], ngài phải điều phối việc
thực thi năng quyền chứng hôn, cũng như quyền miễn chuẩn luật dành cho cha sở[113], và phải giải trình mọi
hoạt động của nhóm cho đức Giám mục[114].
78. Ngoài các giải pháp đã nêu trên, linh mục có thể được
bổ nhiệm làm phó xứ và đảm trách một trong các lãnh vực mục vụ (giới trẻ, giới
cao niên, người bệnh tật, các đoàn thể, hiệp hội bác ái, đào tạo, giáo lý, vv.)
tại các giáo xứ khác nhau, hay để chu toàn thừa tác vụ, cho toàn thể giáo xứ
hoặc cho một phần nhất định của giáo xứ[115].
Trường hợp một linh mục làm phó xứ cho nhiều giáo xứ có
các cha sở khác nhau làm chánh xứ thì trong sắc lệnh bổ nhiệm phải ghi rõ nhiệm
vụ liên quan đến từng giáo xứ, cũng như những việc liên quan đến cha xứ như nơi
ăn chốn ở và việc cử hành Thánh lễ.
79. Phó tế là các thừa tác viên có chức thánh được nhập
tịch vào một giáo phận hay vào các thực thể Hội thánh có năng quyền đó[116]. Nhờ bí tích đã lãnh nhận,
các phó tế là cộng sự viên của Giám mục và hàng linh mục trong sứ mạng Loan báo
Tin Mừng duy nhất, với sứ vụ chuyên biệt là “phục vụ Dân Thiên Chúa trong các
thừa tác vụ phụng vụ, lời Chúa và bác ái”[117].
80. Để bảo vệ căn tính phó tế và đề cao thừa tác vụ của
họ, Đức Giáo hoàng Phanxicô trước hết cảnh báo một vài nguy cơ liên quan đến
việc hiểu bản chất của chức phó tế: “Phải cẩn thận đừng xem phó tế như là người
mà một nửa là linh mục, một nửa là giáo dân. […] Xem hình ảnh phó tế như một
kiểu trung gian giữa người tín hữu và người mục tử cũng không hay. Phó tế không
phải là người đứng giữa nẻo đường linh mục và giáo dân, giữa nẻo đường mục tử
và tín hữu. Có hai cám dỗ: nguy cơ giáo sĩ trị khi đề cao phó tế và cám dỗ thực
dụng khi coi phó tế chỉ là người phụ giúp linh mục việc này việc khác”[118].
Cũng trong bài diễn văn này, Đức Thánh Cha đã xác định rõ
rệt vai trò cụ thể của chức phó tế trong Hội Thánh: “Phó tế là một ơn gọi đặc
thù, một ơn gọi kêu mời phục vụ thân tình […]. Từ ngữ này là chìa khóa để hiểu
đặc sủng của các con. Phục vụ như một trong những đặc sủng của Dân Thiên Chúa.
Có thể nói, phó tế là người giám hộ việc phục vụ trong Hội Thánh. Mỗi từ ngữ
cần được diễn tả cân xứng. Các con là người giám hộ việc phục vụ trong Hội
Thánh: phục vụ Lời Chúa, phục vụ Bàn Thờ, phục vụ Người Nghèo”[119].
81. Giáo huấn về chức phó tế đã tiến triển đáng kể qua
nhiều thế kỷ. Công đồng Vaticanô II cũng tiếp tục làm sáng tỏ giáo huấn này và
mở rộng lãnh vực hoạt động thừa tác vụ chứ không giới hạn chức phó tế trong
lãnh vực phục vụ bác ái hoặc - như Công đồng Trentô xác định - chỉ như là giai
đoạn chuyển tiếp và hầu như chỉ dành riêng cho việc phục vụ trong Phụng vụ.
Công đồng Vaticanô II xác định rằng phó tế là một phẩm trật của chức Thánh, và
do đó “được củng cố nhờ ân sủng bí tích, hiệp thông với Giám mục và linh mục
đoàn của mình, các phó tế phục vụ Dân Thiên Chúa bằng các công tác trong phụng
vụ, rao giảng và bác ái”[120].
Giáo lý hậu Công đồng lấy lại những gì đã được Hiến
chế Lumen gentium xác định và định nghĩa rõ hơn giáo vụ của
phó tế là thông dự vào bí tích Truyền chức Thánh, dù ở một mức độ khác. Trong
buổi tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về chức phó tế, Đức Phaolô VI
đã tái xác định rằng chức phó tế phục vụ cộng đoàn Kitô hữu “cả trong việc rao
giảng Lời Chúa lẫn trong thừa tác vụ bí tích và trong hoạt động bác ái”[121]. Mặt khác, sách Công vụ
Tông đồ (Cv 6,1-6) dường như nói đến bảy người được chọn chỉ nhằm
mục đích phục vụ bàn ăn, nhưng trên thực tế, cũng Sách Thánh ấy kể lại hai phó
tế Stêphanô và Philipphê đã thi hành việc “phục vụ Lời” cách chính danh. Vì
vậy, như là cộng tác viên của nhóm Mười Hai và của Phaolô, họ thực thi thừa tác
vụ của mình trong hai lãnh vực: Loan báo Tin Mừng và bác ái.
Do đó, nhiều nhiệm vụ của Hội Thánh được trao phó cho phó
tế, nghĩa là tất cả những việc gì không hàm chứa toàn bộ việc coi sóc các linh
hồn[122]. Tuy nhiên, trong khi Bộ
Giáo luật minh định những bổn phận dành riêng cho linh mục và những bổn phận có
thể trao cho người tín hữu giáo dân, nhưng lại không đề cập gì đến bổn phận cụ
thể của thừa tác vụ phó tế diễn tả tính đặc thù của chức ấy.
82. Dù sao đi nữa, lịch sử nhắc ta nhớ rằng chức phó tế
đã được thiết lập trong phạm vi tầm nhìn thừa tác của Hội Thánh, và do đó, như
là một thừa tác vụ thánh nhằm phục vụ Lời và bác ái; việc phục vụ bác ái cũng
bao gồm cả việc quản trị tài sản. Cả hai nhiệm vụ này của phó tế được diễn tả
trong bối cảnh phụng vụ, trong đó vị phó tế được mời gọi công bố Tin Mừng và
phục vụ bàn Thánh. Các quy chiếu này giúp xác định những nhiệm vụ đặc thù của
phó tế, làm nổi bật các khía cạnh riêng của ơn gọi nhằm thăng tiến thừa tác vụ
phó tế.
VIII.f.
Những người nam, nữ sống đời thánh hiến
83. Trong cộng đoàn giáo xứ thường có sự hiện diện của
những người sống đời thánh hiến. “Đây không phải là một thực tại nằm bên ngoài
hay độc lập với đời sống Hội Thánh địa phương, nhưng hiện diện cách đặc biệt
giữa lòng Hội Thánh, mang dấu ấn sống triệt để theo Tin Mừng, với những đặc
sủng riêng của mình[123]. Ngoài ra, người sống đời
thánh hiến, cùng với các giáo sĩ và giáo dân, hòa nhập vào cộng đoàn “diễn tả
chiều kích đặc sủng của
Hội Thánh. […] Linh đạo của các Tu hội sống đời thánh
hiến có thể trở nên một nguồn suối quan trọng giúp tín hữu giáo dân và linh mục
sống ơn gọi của mình[124].
84. Những người sống đời thánh hiến có thể góp phần vào
sứ mạng truyền giáo của cộng đoàn giáo xứ trước hết chính từ sự “hiện hữu” của
họ, nghĩa là từ chứng từ bước theo sát Đức Kitô qua sự tuyên khấn các lời
khuyên Phúc- âm[125]. Và thứ đến, mới từ “việc
làm” của họ, nghĩa là các công việc được thực hiện theo đặc sủng của mỗi Tu hội
(chẳng hạn dạy giáo lý, việc bác ái, giáo dục đào tạo, mục vụ giới trẻ, chăm
sóc bệnh nhân)[126].
85. Cộng đoàn giáo xứ hình thành đặc biệt từ các tín hữu
giáo dân[127]; nhờ bí tích Rửa tội, các
bí tích Khai tâm Kitô giáo và cả bí tích Hôn phối đối với nhiều người[128] họ tham gia vào các
hoạt động truyền giáo của Hội thánh, vì “ơn gọi và sứ vụ riêng biệt của người
tín hữu giáo dân là nỗ lực biến đổi các thực tại trần thế, để sao cho mọi hoạt
động nhân loại được Phúc-âm-hóa”[129].
Cách đặc biệt, người giáo dân, với tính cách trần thế
riêng biệt và đặc thù, nghĩa là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân
vào các thực tại trần thế và xếp đặt chúng theo ý định Thiên Chúa”[130], “họ cũng có thể cảm thấy
được mời gọi hay thực sự được mời gọi cộng tác với các mục tử của họ để phục vụ
cộng đoàn Hội Thánh, vì sự phát triển và đời sống của cộng đoàn, qua việc thực
hiện những thừa tác vụ khác nhau tùy theo ơn riêng hay đặc sủng Chúa ban cho
họ”[131].
86. Người giáo dân ngày nay được mời gọi quảng đại dấn
thân phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng, trước hết bằng việc làm chứng tá cách
chung trong đời sống thường nhật phù hợp với Tin Mừng, trong mọi môi trường họ
sống và trên mọi cấp độ trách nhiệm khác nhau; và sau đó cách đặc biệt, họ dấn
thân phục vụ cộng đoàn giáo xứ[132].
VIII.h.
Các hình thức khác của ủy nhiệm mục vụ
87. Một hình thức chăm sóc mục vụ cộng đoàn khác mà Giám
mục có thể áp dụng được nêu lên trong Giáo luật điều 517 §2, trong trường hợp
thiếu linh mục, khi chưa thể bổ nhiệm cha sở hay quản nhiệm giáo xứ toàn thời
gian. Trong bối cảnh khó khăn mục vụ ấy, để nâng đỡ đời sống Kitô hữu và tiếp
tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của cộng đoàn, Giám mục giáo phận có thể ủy thác
việc chăm sóc mục vụ giáo xứ cho một phó tế, một tu sĩ hay một giáo dân, hoặc
cho một nhóm người (chẳng hạn, cho một Tu hội dòng hay một Tu đoàn)[133].
88. Những người được ủy thác tham gia vào việc chăm sóc
mục vụ cộng đoàn dưới quyền điều phối và hướng dẫn của một linh mục với quyền
hạn hợp pháp làm người “Điều hành chăm sóc mục vụ”. Ngài có đầy đủ năng quyền
và những chức trách của một cha sở, cho dù ngài không đảm nhận một giáo vụ, với
các quyền và bổn phận kèm theo.
Cần nhớ rằng đây là một hình thức ủy thác ngoại thường
việc chăm sóc mục vụ, vì chưa thể bổ nhiệm cha sở hay cha quản nhiệm, không nên
lẫn lộn với việc hợp tác tích cực thông thường và đảm nhận trách nhiệm của mọi
tín hữu giáo dân.
89. Khi áp dụng phương thức cứu chữa đặc biệt này, cần
chuẩn bị Dân Chúa cách thích đáng cho họ hiểu rằng giải pháp đó cần thiết chỉ
tạm thời chứ không kéo dài vô hạn[134]. Để hiểu và áp dụng đúng
khoản luật này cần phải nhắc lại rằng khi áp dụng khoản dự liệu đó phải “tôn
trọng các điều khoản trong đó thật khít khao, cụ thể là: a) vì lý do thiếu linh
mục chứ không phải để thuận tiện hay “đề cao giáo dân” […]; b) “tham gia vào
việc chăm sóc mục vụ” được hiểu là không chỉ đạo, điều phối, hướng dẫn, điều
khiển giáo xứ mà theo chỉ dẫn Giáo luật chỉ thuộc về một linh mục”[135].
90. Để sự ủy nhiệm việc chăm sóc mục vụ trong Giáo luật
điều 517 §2 được hữu hiệu[136], cần tuân theo một vài
tiêu chuẩn. Trước hết, đây là một giải pháp mục vụ ngoại thường và mang tính
tạm thời[137], lý do duy nhất làm cho sự
ủy nhiệm này hợp pháp là vì tình trạng thiếu hụt linh mục, khiến không thể bổ
nhiệm một cha sở hay cha quản nhiệm để chăm sóc mục vụ cộng đoàn giáo xứ. Ngoài
ra, với phương thức ủy thác này, nên ưu tiên chọn trước hết một hay nhiều phó
tế quản trị việc chăm sóc mục vụ hơn tu sĩ hay người giáo dân[138].
91. Dù sao đi nữa, việc điều phối hoạt động mục vụ thuộc
thẩm quyền của vị linh mục đã được Giám mục giáo phận chỉ định như là người
Điều hành; chỉ ngài có đầy đủ các quyền hạn và năng quyền của một cha sở, còn
các tín hữu khác chỉ “tham gia vào việc chăm sóc mục vụ giáo xứ”[139].
92. Cả phó tế và những người không có chức thánh tham gia
vào việc chăm sóc mục vụ chỉ có thể chu toàn những trách vụ tương hợp với bậc
phó tế hay giáo dân của họ, trong khi tôn trọng “những đặc tính nguyên thủy
khác nhau và bổ sung cho nhau của đặc sủng và chức trách của thừa tác viên có
chức thánh và của người tín hữu giáo dân, điều mà Thiên Chúa đã muốn xếp đặt
như thế trong Hội Thánh”[140].
93. Sau cùng, trong thư bổ nhiệm vị linh mục Điều hành,
Giám mục cần xác định, ít nhất một cách vắn tắt, những lý do khẩn thiết để áp
dụng hình thức ủy nhiệm việc chăm sóc mục vụ ngoại thường này tại một hay nhiều
giáo xứ, cùng với các hình thức thi hành thừa tác vụ cho vị linh mục có chức
trách phải làm.
IX. Các trách vụ và thừa tác vụ trong giáo xứ
94. Ngoài việc cộng tác không thường xuyên mà mọi người
thiện chí – kể cả người chưa được rửa tội – có thể đóng góp trong các hoạt động
hằng ngày của giáo xứ, còn có những trách vụ thường trực, trên cơ sở đó các tín
hữu nhận lãnh trách nhiệm phục vụ trong cộng đoàn giáo xứ trong một thời gian
nhất định. Người ta có thể nghĩ đến, chẳng hạn, việc làm giáo lý viên, phục vụ
bàn thờ, nhà giáo dục làm việc trong các đoàn thể và hiệp hội, làm công tác bác
ái hay tự nguyện phục vụ trong các loại trung tâm tư vấn hoặc lắng nghe, và
người đi thăm viếng các bệnh nhân.
95. Dù sao đi nữa, khi chỉ định trách vụ cho các phó tế,
các tu sĩ và tín hữu giáo dân nhận tham gia thi hành việc chăm sóc mục vụ, cần
phải dùng các chức danh cho xứng hợp với các chức trách mà họ có thể đảm nhận
theo bậc sống của họ. Có như thế, sự khác biệt cốt yếu giữa chức tư tế phổ quát
và chức tư tế thừa tác mới được duy trì rõ ràng, và căn tính của trách vụ mà
mỗi người nhận lãnh cũng trở nên thật rõ ràng.
96. Trong chiều hướng ấy, trách nhiệm trước tiên thuộc về
Giám mục giáo phận, và trong mức độ gắn kết với ngài, là cha sở, lo liệu việc
bổ nhiệm các phó tế, các tu sĩ và giáo dân đảm nhận các trách vụ trong giáo xứ,
sao cho không chỉ định họ bằng những danh xưng như “cha sở”, “cha phó”, “cha
tuyên úy”, “vị điều hành”, “người điều phối”, “phụ trách giáo xứ” hay các từ
ngữ tương tự[141] vốn dành riêng cho
linh mục theo luật định,[142] vì các danh ngữ ấy có
mối tương quan trực tiếp với tính thừa tác của chức linh mục.
Cũng sẽ không hợp pháp và không phù hợp với căn tính ơn
gọi của các tín hữu và phó tế như trên đây, khi dùng các kiểu nói như “giao phó
trách nhiệm chăm sóc mục vụ một giáo xứ”, “chủ trì cộng đoàn giáo xứ” và các
kiểu nói tương tự, vốn gắn liền với thừa tác vụ linh mục rõ rệt của một cha sở.
Chẳng hạn, các danh ngữ như “cộng tác viên phó tế” và,
đối với tu sĩ hay giáo dân, “điều phối viên của (một ngành mục vụ riêng biệt)”,
“cộng tác viên mục vụ” hoặc “phụ tá mục vụ” và “phụ trách” (một ngành mục vụ)
có vẻ thích hợp hơn.
97. Theo quy tắc luật định, người giáo dân có thể lãnh
tác vụ Đọc sách hay Giúp lễ có tính cách cố định trong một nghi thức phù hợp
theo Giáo luật điều 230 §1. Người tín hữu không có chức thánh có thể dùng thuật
ngữ “thừa tác
viên ngoại thường”, chỉ khi nào thực sự họ được đấng bản
quyền mời gọi[143] để thi hành các tác
vụ phụ trợ theo Giáo luật điều 230 §3 và điều 943. Việc ủy nhiệm tạm thời trong
các cử hành phụng vụ được đề cập trong Giáo luật điều 230 §2, dù kéo dài trong
một thời gian nào đó, vẫn không được chỉ một danh tính đặc biệt nào cho người
tín hữu không có chức thánh[144].
Những tín hữu giáo dân này phải hiệp thông trọn vẹn với
Hội Thánh Công giáo[145], được đào tạo xứng hợp với
trách vụ mà họ được mời gọi thi hành, đồng thời có hạnh kiểm cá nhân và mục vụ
gương mẫu, giúp họ được tín nhiệm khi phục vụ cộng đồng.
98. Ngoài những gì liên hệ tới thừa tác vụ Đọc sách và
Giúp lễ[146], Giám mục, theo sự phán
đoán khôn ngoan của ngài, có thể chính thức ủy nhiệm cho các phó tế, tu sĩ và
các tín hữu giáo dân, những trách vụ khác[147], dưới sự hướng dẫn và
trách nhiệm của cha sở, như sau đây:
1o Cử hành Phụng vụ Lời Chúa vào các ngày Chúa nhật
và lễ buộc, khi “không thể tham dự Thánh Lễ vì không có thừa tác viên có chức
thánh hay vì một lý do nghiêm trọng khác”[148]. Điều này được xem như
tình huống ngoại thường, chỉ được phép thực hiện trong những trường hợp thật sự
bất khả kháng và luôn lo liệu trao cho các phó tế cử hành các nghi thức phụng
vụ này nếu có các phó tế hiện diện
2o Việc cử hành Bí tích Thánh Tẩy, được xem xét một
cách thích đáng thì, “thừa tác viên thông thường của Bí tích Thánh Tẩy là giám
mục, linh mục hay phó tế”[149] và theo Giáo luật
điều 861 §2 có một ngoại lệ, sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng theo sự khôn ngoan của
đấng Bản quyền sở tại.
3o Việc cử hành nghi thức an táng đã được trình bày
ở số 19 trong Praenotanda (Lời Giới thiệu) của Nghi thức An
táng Kitô giáo.
99. Người tín hữu giáo dân có thể giảng trong nhà thờ hay
nguyện đường, do đòi hỏi của hoàn cảnh, nhu cầu hay một trường hợp đặc biệt
“theo chỉ thị của Hội đồng Giám mục”[150] và “khi có phép rõ
ràng theo luật định hay theo quy tắc phụng vụ, miễn là tuân thủ các điều kiện
kèm theo”[151]. Tuy nhiên, trong bất cứ
trường hợp nào, những người này không được phép giảng trong khi thánh lễ đang
được cử hành[152].
100. Ngoài ra, “nơi đâu thiếu linh mục và phó tế, Giám
mục giáo phận có thể ủy nhiệm cho người giáo dân chứng hôn sau khi được Hội
đồng Giám mục chấp thuận và được Tòa Thánh cho phép[153].
X. Các tổ chức đồng trách nhiệm trong Hội thánh
X.
a. Hội đồng kinh tế của giáo xứ
101. Việc quản trị tài sản của mỗi giáo xứ ở một chừng
mực nào đó là lãnh vực quan trọng trong sứ vụ Loan báo Tin Mừng và làm chứng
cho Tin Mừng, cả trong Hội Thánh và trong xã hội dân sự, vì “tất cả tài sản mà
chúng ta có là do Chúa ban tặng để chúng ta đem đến cho thế giới, cho con người
và để giúp đỡ tha nhân”[154]. Vì thế, cha sở không thể
và không được chỉ chú tâm duy vào một công việc này thôi[155], do đó ngài cần được những
cộng sự viên giúp đỡ trong việc quản trị tài sản của Hội Thánh trước hết với
nhiệt tâm Loan báo Tin Mừng và tinh thần truyền giáo[156].
102. Vì lý do này, mỗi giáo xứ phải thành lập một Hội
đồng kinh tế với tính cách như là một tổ chức tư vấn, do cha sở điều hành và có
ít nhất ba người tín hữu khác[157]; tối thiểu cần phải có ba
người để Hội đồng này được xem là một “tập hợp” nhân sự. Cần phải nhớ rằng cha
sở không được kể là thành viên của Hội đồng kinh tế, nhưng ngài chủ trì hội
đồng này.
103. Khi không có chỉ thị đặc biệt của Giám mục giáo
phận, thì chính cha sở sẽ quyết định số thành viên của Hội đồng này, tùy thuộc
vào số giáo dân trong giáo xứ và số thành viên này do cha sở chỉ định hay được
Hội đồng giáo xứ bầu cử cách nào đó.
Các thành viên của Hội đồng này, không nhất thiết thuộc
về chính giáo xứ, phải có tiếng tốt rõ ràng và là chuyên viên thuộc lãnh vực
tài chính và luật pháp[158], để có đủ khả năng phục vụ
một cách hữu hiệu và thành thạo; như thế Hội đồng này không phải được thiết lập
chỉ để cho có đủ thủ tục.
104. Trừ khi Giám mục giáo phận quyết định cách khác, tùy
theo sự khôn ngoan cần thiết và tuân theo quy tắc nào đó khả dĩ của luật dân
sự, thì không có gì ngăn cản một người làm thành viên của Hội đồng kinh tế của
nhiều giáo xứ cùng lúc, bất cứ khi nào hoàn cảnh đòi hỏi.
105. Bất cứ luật lệ khả dĩ nào do Giám mục giáo phận ban
ra về các vấn đề này phải xét đến hoàn cảnh cụ thể của giáo xứ, chẳng hạn như
phương tiện của giáo xứ rất eo hẹp, hay giáo xứ là thành phần của một đơn vị
mục vụ[159].
106. Hội đồng kinh tế có thể đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển, trong nội bộ cộng đoàn giáo xứ, nền văn hóa
đồng trách nhiệm, sự minh bạch trong quản trị và phục vụ các nhu cầu của Hội
Thánh. Cách riêng, sự minh bạch ở đây không được hiểu chỉ là việc trình bày
những dữ kiện mang tính hình thức, nhưng đúng hơn, là thông tin vì quyền lợi
của cộng đoàn, và là cơ hội thuận tiện cho cộng đoàn tham gia công việc xây
dựng chính mình. Tính minh bạch có liên hệ đến phương thức làm việc (modus
agendi), là điều rất cần thiết cho uy tín của Hội Thánh, đặc biệt ở những
nơi có những tài sản quan trọng phải quản lý.
107. Thông thường, có thể đạt được mục tiêu minh bạch
bằng cách trình bày báo cáo tài chính hằng năm. Bản báo cáo này cần phải trình
cho đấng Bản quyền sở tại trước[160] với chi tiết các chỉ
số về thu nhập và chi tiêu. Từ bản báo cáo tài chính hằng năm này, toàn thể
cộng đoàn có thể biết được rằng các tài sản này thuộc về giáo xứ chứ không phải
của riêng cha sở; cha sở chỉ là người quản lý các tài sản ấy. Cộng đoàn cũng
biết được các tài sản này được quản lý như thế nào, tình trạng tài chính của
giáo xứ ra sao và những nguồn tài sản nào sẵn có để có thể sử dụng cách hữu
hiệu.
108. Giáo luật hiện hành[161] để cho Giám mục giáo
phận quyết định việc thành lập Hội đồng Mục vụ trong các giáo xứ, nhưng trong
bất kì trường hợp nào, thường rất cần có Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, như Đức Thánh
Cha Phanxicô nhắc nhở: “Các Hội đồng Mục vụ thật là cần thiết! Một Giám mục
không thể điều hành giáo phận mà không có các Hội đồng Mục vụ. Một linh mục
chính xứ cũng không thể nào điều hành được nếu không có Hội đồng Mục vụ”[162].
Sự uyển chuyển của nguyên tắc này cho phép xem xét thích
nghi với các hoàn cảnh cụ thể, chẳng hạn trong trường hợp nhiều giáo xứ được
giao phó cho một cha sở, hay các giáo xứ nằm trong một đơn vị mục vụ. Trong
những trường hợp này, có thể thành lập một Hội đồng Mục vụ cho một số giáo xứ.
109. Ý nghĩa thần học của Hội đồng Mục vụ được ghi khắc
trong thực tại cấu thành Hội Thánh, nghĩa là trong “Thân Mình Đức Kitô”, vốn
sinh ra “linh đạo hiệp thông”. Thật vậy, trong cộng đoàn Kitô hữu, sự đa dạng
của các đặc sủng và thừa tác vụ phát xuất từ việc tháp nhập vào Đức Kitô và từ
ơn huệ của Chúa Thánh Thần sẽ không bao giờ hòa hợp với nhau nếu họ không trở
nên “đồng điệu, cảm thấy phải chung tay thực hiện mọi sự và bình đẳng với nhau,
luôn có cùng suy nghĩ theo cùng một cách thức”[163]. Trái lại, nhờ chức tư tế
do Bí tích Thánh Tẩy[164], mỗi tín hữu được tạo nên
là để xây dựng toàn thể Thân Mình Đức Kitô, và đồng thời xây dựng Dân Thiên
Chúa, trong tinh thần đồng trách nhiệm giữa các thành viên với nhau, tham dự
vào sứ mạng của Hội Thánh, nghĩa là phân định các dấu chỉ về sự hiện diện của
Thiên Chúa trong lịch sử, đồng thời trở nên nhân chứng cho Vương Quốc của Ngài[165].
110. Hội đồng Mục vụ không thể chỉ là một cơ quan hành
chánh, nhưng phải làm Dân Thiên Chúa nổi bật ở vị trí trung tâm và giúp thể
hiện điều đó. Dân Chúa là chủ thể và là những người giữ vai trò tích cực trong
sứ vụ Loan báo Tin Mừng, bởi từng tín hữu thành viên đã đón nhận ơn của Chúa
Thánh Thần trong Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thêm Sức. “Được tái sinh vào đời
sống thần linh nhờ Bí tích Thánh Tẩy là bước đầu tiên; kế tiếp là chúng ta sống
tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là làm sao để nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô là Đấng hoạt động trong Hội Thánh, tích cực tham gia vào sứ mạng của Hội
Thánh trong thế giới. Để được như thế, chúng ta cần được xức dầu bởi Thần Khí:
“Nếu không có Chúa ban sức, loài người chúng con không là gì cả” (x. Ca tiếp
liên Lễ Hiện Xuống). […] Cũng như cả cuộc đời của Chúa Giêsu được Thần Khí thúc
đẩy, cũng thế đời sống của Hội Thánh và của mỗi chi thể trong Hội Thánh cũng
được chính Thần Khí ấy hướng dẫn”[166].
Dưới ánh sáng của tầm nhìn cơ bản này, chúng ta nhớ đến
những lời của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI: “Nhiệm vụ của Hội đồng Mục vụ là
nghiên cứu, khảo sát mọi sự có liên quan đến hoạt động mục vụ, và đưa ra những
kết luận thực tiễn liên hệ đến những điều ấy nhằm thúc đẩy đời sống và hoạt
động của Dân Chúa sao cho phù hợp với Tin Mừng”[167], với ý thức rằng mục đích
của Hội đồng này, như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở, “chính yếu không phải
là tổ chức Hội Thánh nhưng là khát vọng truyền giáo muốn vươn đến với hết thảy
mọi người”[168].
111. Hội đồng Mục vụ là một tổ chức tư vấn, tuân theo
những quy tắc được Giám mục giáo phận đưa ra, xác định tiêu chuẩn thành lập,
các phương pháp bầu cử thành viên, mục tiêu và phương thức hoạt động[169]. Dù sao đi nữa, để tránh
làm sai lệch bản chất của Hội đồng này, tốt nhất là tránh định nghĩa Hội đồng
như một “nhóm” hay một “đội”, nghĩa là tránh dùng những từ ngữ không thích hợp
để diễn tả cụ thể mối tương quan, về mặt Hội Thánh và Giáo luật, giữa cha sở và
cộng đoàn tín hữu.
112. Về mặt luật lệ liên quan của giáo phận, điều cần
thiết là Hội đồng Mục vụ phải gồm những người thực sự đại diện cho cộng đoàn,
mà Hội đồng diễn tả qua tư cách các thành viên (linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo
dân). Điều này làm nên một môi trường đặc biệt trong đó người tín hữu có thể
thực thi quyền lợi và bổn phận nói lên ý kiến riêng của mình
với các mục tử về tài sản của cộng đoàn giáo xứ[170] và truyền thông cho
các tín hữu khác.
Thế nhưng, nhiệm vụ chính của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ là
tìm kiếm và nghiên cứu đề xuất các sáng kiến thực tiễn về mục vụ và bác ái liên
quan đến giáo xứ, phù hợp với đường hướng của giáo phận.
113. Hội đồng Mục vụ Giáo xứ “chỉ có quyền tư vấn”[171], theo nghĩa các ý kiến của
Hội đồng này cần phải được cha sở quan tâm chấp thuận thì mới được đem ra thực
hành. Cha sở phải chú tâm xem xét cẩn thận các ý kiến của Hội đồng Mục vụ Giáo
xứ, nhất là khi các thành viên đồng lòng đưa ý kiến trong tiến trình phân định
chung.
Để Hội đồng Mục vụ có thể phục vụ hữu hiệu và có kết quả
tốt đẹp, cần phải tránh hai thái cực: một là, cha sở đưa ra cho Hội đồng Mục vụ
Giáo xứ quyết định có sẵn của mình, hoặc ngài không nắm trước những thông tin
cần thiết, hoặc chỉ triệu tập thi thoảng cho có hình thức; hai là, một Hội đồng
Mục vụ Giáo xứ mà cha sở chỉ là một thành viên trong đó, trên thực tế ngài đánh
mất vai trò mục tử và lãnh đạo cộng đoàn[172].
114. Cuối cùng, Hội đồng Mục vụ trong khả năng hết sức có
thể nên bao gồm phần nhiều các thành viên là những người thực sự có trách nhiệm
trong đời sống mục vụ của giáo xứ, hoặc những người dấn thân cụ thể trong đời
sống ấy, để tránh trường hợp biến những cuộc họp thành những cuộc trao đổi
những ý kiến trừu tượng, không màng đến đời sống thực của cộng đoàn, với những
nguồn lực cũng như vấn đề của cộng đoàn.
X.c.
Các hình thức đồng trách nhiệm khác trong việc chăm sóc mục vụ
115. Khi một cộng đoàn tín hữu không có điều kiện trở
thành giáo xứ hay chuẩn giáo xứ[173] thì Giám mục giáo
phận, sau khi tham khảo ý kiến Hội đồng linh mục[174], phải có giải pháp chăm
sóc mục vụ cách khác[175], chẳng hạn cân nhắc khả
năng lập những trung tâm mục vụ, tùy thuộc ở cha sở địa phương, như những “giáo
điểm” để đẩy mạnh việc Loan báo Tin Mừng và thực thi bác ái. Trong những trường
hợp như thế, cần phải thiết lập một nhà thờ hay nhà nguyện trong các trung tâm
mục vụ ấy[176] và đồng thời đưa ra
các luật lệ của giáo phận liên quan đến các hoạt động của các tổ chức ấy, làm
thế nào để chúng có thể được điều phối và bổ túc với sự tôn trọng y như thực
hiện cho các giáo xứ.
116. Các trung tâm được xác định như thế, trong một số
giáo phận được gọi là “Trung tâm phục vụ”, nơi nào có thể thì được giao phó cho
một cha phó, hay đặc biệt trao cho các phó tế vĩnh viễn. Các phó tế có trách
nhiệm chăm sóc điều hành cùng với các gia đình trong Trung tâm, thuộc trách
nhiệm của linh mục chính xứ.
XI. Khoản dâng cúng cho việc cử hành các bí tích
118. Một chủ đề liên quan đến đời sống các giáo xứ và sứ
vụ Loan báo Tin Mừng là các khoản dâng cúng cho việc cử hành Thánh Lễ, được chỉ
định cho linh mục cử hành, và các khoản cho các Bí tích khác thì thuộc về giáo
xứ[177]. Điều này có nghĩa là việc
dâng cúng tự bản chất phải là hành vi tự do về phía người dâng cúng, tùy theo
lương tâm và ý thức trách nhiệm đối với Hội Thánh, chứ không phải là “giá phải
trả” hay “phí phải nộp”, cứ như là một loại “thuế thu trên các bí tích”. Thật
ra, với việc dâng cúng cho việc cử hành Thánh Lễ, “người Kitô
hữu […] đóng góp vào phúc lợi của Hội Thánh và […] chia sẻ
mối quan tâm nâng đỡ các thừa tác viên và công việc của các ngài[178].
119. Như thế, sự nhạy cảm của người tín hữu tỏ hiện bằng
việc làm là rất quan trọng. Qua đó, họ tự nguyện cộng tác vì những nhu cầu của
giáo xứ, cũng là “nhu cầu của chính họ”. Bởi thế thật là tốt đẹp nếu họ học
cách tự nguyện đảm nhận trách nhiệm, đặc biệt trong những quốc gia mà bổng lễ
vẫn là nguồn thu nhập duy nhất cho các linh mục và cũng là nguồn duy nhất dành
cho công cuộc Loan báo Tin Mừng.
120. Sự nhạy cảm này càng phát sinh hiệu quả khi các linh
mục, phần mình, các ngài càng nêu gương đức hạnh trong việc sử dụng tiền bạc,
qua việc sống tiết độ, không hưởng dùng nhu cầu cá nhân quá mức, hoặc gương mẫu
trong việc quản lý minh bạch tài sản giáo xứ. Việc quản trị hữu hiệu được đo
lường không phải qua các “dự án”, của cha sở hay của một nhóm nhỏ, tốt nhưng
trừu tượng, nhưng đáp ứng các nhu cầu thực sự của tín hữu, đặc biệt người nghèo
và người túng thiếu.
121. Dù sao đi nữa, “tuyệt đối tránh mọi hình thức thương
mại hay buôn bán trong vấn đề bổng lễ”[179], nhớ rằng “rất khuyến
khích các linh mục cử hành Thánh Lễ theo ý chỉ của các Kitô hữu, nhất là của
những người nghèo túng, ngay cả khi các ngài không nhận được bổng lễ”[180].
Trong các phương thức được đề nghị sử dụng để đạt được
mục đích đó, người ta có thể nghĩ đến việc nhận bổng lễ mà không nêu danh tính,
nhờ đó mọi người cảm thấy thoải mái dâng cúng theo khả năng hoặc theo ý của họ
mà không cảm thấy bó buộc phải đáp ứng một quy định hay một mức giá nào.
122. Nhắc nhớ lại Giáo hội học theo Công đồng Vaticanô II
dưới ánh sáng của Huấn quyền gần đây, và xem xét bối cảnh xã hội và văn hóa đã
thay đổi sâu sắc, Huấn thị này nhằm tập trung vào chủ đề đổi mới giáo xứ theo
hướng truyền giáo.
Trong khi vẫn là một định chế thiết yếu để gặp gỡ và quan
hệ sống động với Đức Kitô và với anh chị em trong đức tin, cũng thế, giáo xứ
vẫn phải thường xuyên đối mặt với các thay đổi diễn ra trong văn hóa ngày nay
và trong cuộc sống của con người, làm sao để tìm tòi sáng tạo những cách thức
và phương pháp mới mẻ để Hội Thánh thực hiện thật hiệu quả sứ vụ đệ nhất của
mình, là trở nên nguồn lực Loan báo Tin Mừng.
123. Bởi thế, hoạt động mục vụ cần đi ra ngoài ranh giới
địa dư của giáo xứ, tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh cách rõ ràng cụ thể hơn
nhờ biết phối hợp giữa những thừa tác viên và các đặc sủng khác nhau, xây dựng
giáo xứ trở thành tác nhân “chăm sóc mục vụ cùng nhau”, phục vụ cho giáo phận
và sứ mạng của giáo phận.
Đó là một hoạt động mục vụ, nhờ việc hợp tác hữu hiệu và
sống động giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, cũng như giữa các cộng
đoàn giáo xứ trong khu vực hay trong vùng, cùng nhau quan tâm tìm kiếm xác định
những vấn đề, những khó khăn và thách đố về việc Loan báo Tin Mừng, tìm cách
kết hợp các cách thức, phương thế, ý kiến và phương tiện thích hợp để giải
quyết các vấn đề ấy. Một dự phóng truyền giáo chung như thế có thể được soạn
thảo và thực hiện liên hệ đến bối cảnh xã hội và địa lí gần gũi, nghĩa là trong
những cộng đoàn gần nhau hay có cùng những điều kiện văn hóa xã hội như nhau,
hoặc có liên quan đến các lãnh vực mục vụ gắn kết với nhau, chẳng hạn trong một
nhóm phối hợp thiết yếu việc chăm sóc mục vụ giới trẻ, các trường đại học và ơn
gọi, như đã có trong nhiều giáo phận.
Bởi thế, ngoài sự phối hợp có trách nhiệm các hoạt động
và các tổ chức mục vụ có khả năng liên kết và hợp tác, việc chăm sóc mục vụ cùng
nhau còn đòi hỏi mọi người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy cùng cộng tác. Đức
Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Khi chúng ta nói đến “dân”, thì không được hiểu là
các cấu trúc xã hội hay của Hội Thánh, nhưng là nói về toàn thể những người
đang lữ hành, không với tính cách cá nhân, nhưng như là một cộng đoàn liên kết
chặt chẽ mọi người với nhau và vì mọi người”[181].
Điều này đòi hỏi không để cơ chế giáo xứ lịch sử bị giam
hãm bất động hay đóng khung trong những việc mục vụ quen thuộc nhàm chán, nhưng
trái lại, cần sống sự “năng động đi ra”, bằng cách cùng hợp tác giữa các cộng
đoàn giáo xứ khác nhau và sống tình hiệp thông được củng cố giữa giáo sĩ và
giáo dân, như thế giáo xứ mới được định hướng một cách hữu hiệu hướng đến sứ vụ
Loan báo Tin Mừng, là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa; một Dân vốn đang lữ hành
trong lịch sử như là “gia đình của Thiên Chúa” trong đó các thành viên cùng
liên kết làm việc để cho toàn thể Thân mình Hội Thánh phát triển.
Như thế, văn kiện này ngoài việc nhấn mạnh tính cấp bách
của việc đổi mới, còn trình bày một cách áp dụng các quy tắc Giáo luật quy định
những điều có thể, những giới hạn, những quyền hạn và bổn phận của các mục tử
và giáo dân, để giáo xứ có thể tái khám phá chính mình là căn cứ nền tảng của
công cuộc Loan báo Tin Mừng, cử hành Thánh Thể, sống tình huynh đệ và bác ái,
từ đó chứng tá cho Đức Kitô được chiếu sáng trên thế gian. Điều ấy có nghĩa là
giáo xứ “phải luôn là một nơi của sáng tạo, sống tương quan và tình mẫu tử.
Chính ở nơi đây khả năng sáng tạo được thể hiện. Và khi một giáo xứ phát triển
theo hướng này, giáo xứ sẽ đạt được điều mà tôi gọi là một “giáo xứ đi ra”[182].
124. Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta khẩn cầu
“Đức Maria, Mẹ của công cuộc Loan báo Tin Mừng”, để “Đức Trinh Nữ giúp chúng ta
thưa tiếng “xin vâng” của mình, ý thức nhu cầu cấp bách làm cho Tin Mừng của
Chúa Giêsu vang lên trong thời đại chúng ta. Xin Mẹ khẩn cầu cho chúng ta được
lòng nhiệt thành mới mẻ để chúng ta đem đến cho mọi người Tin Mừng sự sống
chiến thắng tử thần. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta để chúng ta có được sự bạo dạn
thiêng liêng cần thiết để khám phá những phương thức mới đem ơn cứu độ đến cho
mọi người”[183].
Ban hành tại Rôma vào ngày
29 tháng 6 năm 2020, Lễ trọng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
Hồng y Beniamino Stella
Tổng
trưởng
Giám
mục Joël Mercier
Thư ký
Giám
mục Jorge Carlos Patrón Wong
Thư ký đặc trách chủng viện
Đức
ông Andrea
Ripa
Phụ
tá Thư ký
Chuyển ngữ: Gm. Luy Nguyễn
Anh Tuấn
và
Nhóm Dịch thuật HĐGMVN
[1] ĐGH Phanxicô, Diễn từ
nói với các Cha sở Gp. Roma (16.09.2013): http://cosarestadelgiorno.wordpress.com/2013/09/16/
[2] Cf. Id., Evangelii
Gaudium (24.11.2013), s.287: AAS 105 (2013), 1136 .
[3] Ibid.,
s.49: AAS 105 (2013), 1040
[4] Cđ. Vaticanô
II, Gaudium et Spes (7.12.1965), s.58: AAS 58
(1966), 1079.
[5] Id. ,
s.44: AAS 58 (1966), 1065 .
[6] Cf. Th. Eprem, Commentary
on Tatian’s Diatessaron 1, 18-19: SC 121, 52-53
[7] ĐGH Phanxicô, Laudato
Si’ (24.05-2015), s.68: AAS 107 (2015), 847 .
[8] Cf. Th. GH Phaolô VI,
Thông điệp Ecclesiam Suam (6.08.1964): AAS 56
(1964), 639.
[9] ĐGH Phanxicô, Evangelii
Gaudium, s.27: AAS 105 (2013), 1031
[10] Cf. Th. GH Gioan
Phaolo II, Christifideles Laici (30.12.1988), s. 26: AAS 81
(1989), 438.
[11] ĐGH Phanxicô, Tiếp
kiến chung (12.06.2019): L’Osservatore Romano 134 (13-6-2019),
1
[12] Cđ. Vaticanô
II, Christus Dominus (28.10.1965), s. 30: AAS 58
(1966), 688
[13] Th. GH Gioan Phaolo
II, Diễn văn trước Tham dự viên Khoáng đại Hội nghị Bộ Giáo sĩ (20.10.1984),
s. 3 và 4: Insegnamenti VII/2 (1984), 984 và 985; x. Id., Catechesi
Tradendae (16.10.1979), s. 67: AAS 71 (1979), 1332.
[14] ĐGH Bênêđictô
XVI, Bài giảng khi thăm viếng mục vụ giáo xứ Our Lady Star of
Evangelisation, Rome (10.12.2006): Insegnamenti II/2
(2006), 795
[15] ĐGH Phanxicô, Evangelii
Gaudium, s. 28: AAS 105 (2013), 1032.
[16] Cf. Gaudium
et Spes, s. 4: AAS 58 (1966), 1027
[17] Cf. Gaudium
et Spes, s. 1: AAS 58 (1966), 1027
[18] Cf. Evangelii
Gaudium, các số 72-73: AAS 105 (2013), 1050-1051
[19] Cf. Thượng Hội đồng
Giám mục Thế Giới, Đại hội Khoáng đại Thường lệ XV (3-28.10.2018): “Giới Trẻ,
Đức Tin và Phân định Ơn gọi”, Văn kiện chung kết, s.129 “Trong bối
cảnh này, một nhận thức về giáo xứ được xác định chỉ bởi biên giới lãnh thổ và
không có khả năng làm cho các tín hữu tham gia vào các sáng kiến đa dạng, nhất
là những người trẻ giam hãm giáo xứ trong sự tù túng không thể chấp nhận được
và trong những chu kỳ mục vụ lặp đi lặp lại một cách nhàm chán”: L’Osservatore
Romano 247 (29-30.10.2018), 10
[20] Cf. Bộ Giáo Luật
(BGL), các điều khoản 102; 1015-1016; 1108 §1
[21] Christifideles
Laici, s.25: AAS 81 (1989), 436-437
[22] Cf. Evangelii
Gaudium, s.174: AAS 105 (2013), 1093
[23] Cf. Ibid.,
ss. 164-165: AAS 105 (2013), 1088-1089
[24] Cđ. Vaticanô
II, Lumen Gentium (21.11.1964), s.11: AAS 57
(1965), 15
[25] Cf. Evangelii
Gaudium, các số 166-167: AAS 105 (2013), 1089-1090
[26] ĐGH Phanxicô, Gaudete
et Exultate (19.03.2018), s.35: AAS 110 (2018), 1120.
Những lời sau đây của Đức Phanxicô có liên quan đến thuyết Ngộ đạo và thuyết
Pêlagiô đều đáng nhắc đến ở đây: “Tính chất trần thế này có thể được bồi tiếp
theo hai cách liên kết sâu xa với nhau. Một đàng là sự hấp dẫn của thuyết Ngộ
đạo, một niềm tin thuần túy chủ quan mà mối quan tâm duy nhất là một kinh
nghiệm nào đó hay một tập hợp các ý tưởng và các thông tin nhằm an ủi và soi
sáng, nhưng rốt cuộc lại cầm tù người ta trong chính các tư tưởng và tình cảm
của họ. Đằng kia là thuyết Tân-Pêlagiô chỉ quan tâm đến bản thân theo kiểu thần
Promêtê của những người rốt cuộc chỉ tin vào sức mình và tự cảm thấy mình hơn
người khác bởi vì giữ được ít nhiều quy định hoặc vẫn còn trung thành không lay
chuyển với tác phong Công giáo cổ xưa”. Evangelii Gaudium,
s.94: AAS 105 ((2013), 1059-1060; x. thêm Bộ Giáo lý Đức Tin,
Thư Placuit Deo (22.02.2018): AAS 110 (2018),
429.
[27] Cf. Thư gửi Diognetus V,
1-10: Patres Apostolici, ed. F.X. Funk, Tập 1, Tubingae 1901,
398
[28] Cf. Th. GH Gioan
Phaolo II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6.01.2001),
s.1: AAS 93 (2001), 266
[29] Evangelii Gaudium,
s.28: AAS 105 (2013), 1032.
[30] Cf. BGL các
điều khoản 515; 518; 519.
[31] Evangelii Gaudium,
s.28: AAS 105 (2013), 1031-1032.
[32] Ibid
[33] Cf. ĐGH
Phanxico, Christus Vivit (25.03.2019), s.238, Vatican 2019
[34] Cf. Id., Tông
sắc Misericordiae Vultus (11.04.2015), n.3: AAS 107 (2015), 400-401
[35] ĐGH Bênêđictô XVI,
Diễn từ với các giám mục Brazil (11.05.2007), s.3: Insegnamenti III/I (2007),
826
[36] Evangelii Gaudium,
s.198: AAS 105 (2013), 1103
[37] Cf. ĐGH
Phanxicô, Suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Santa Marta (30.10.2017).
[38] Cf. Evangelii
Gaudium, ss.186-216: AAS 105 (2013), 1098-1109
[39] Cf. Gaudete
et Exultate, ss.95-99: AAS 110 (2018), 1137-1138.
[40] Cf. Evangelii
Gaudium, s.27: AAS 105 (2013), 1031; cf. ibid., s.189: AAS
105 (2013), 1099: “Thay đổi cơ cấu mà không tạo ra những xác tín và những thái
độ mới, thì chính những cơ cấu đó sớm muộn gì cũng trở nên biến chất, ngột ngạt
và vô hiệu”
[41] Ibid., s.26:
AAS 105 (2013), 1030-1031
[42] Christus Dominus,
s.30: AAS 58 (1966), 688
[43] ĐGH Phanxicô, Lời
Chào mừng Lễ Giáng Sinh với Giáo triều Rôma (22.12.2016): AAS 109
(2017), 44.
[44] Id., Carta al
Pueblo de Diós que peregrina en Chile (31.05.2018): www.vatican.va/content/francesco/es/letters/2018/documents/papa-francesco_20180531_lettera-popolodidio-cile.html
[45] Cf. ibid
[46] Ibid.
[47] Lumen Gentium,
s.9: AAS 57 (1965), 13.
[48] Cf. Bộ Giáo sĩ, Ratio
Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis (8.12.2016), ss.80-88,
Vatican City 2016, 37-42
[49] Cf. BGL,
374 §1.
[50] Cf. ibid.,
374 §2; cf. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam Mục Vụ của Giám Mục “Apostolorum
Successores” (22.02.2004), s.217: Enchiridion Vaticanum 22
(2003-2004), 2110
[51] Cf. BGL,
374 §1
[52] Cf. ibid.,
374 §2.
[53] Cf. Apostolorum
Successores, s.218: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2114.
[54] Cf. BGL,
can. 515 §2
[55] Cf. ibid.,
86
[56] Cf. ibid.,
120 §1
[57] Cf. ibid.,
121-122; cf. Apostolorum Successores, s.214: Enchiridion Vaticanum
22 (2003-2004), 2099
[58] Cf. BGL,
51
[59] Cf. ibid.,
120-123
[60] Cf. ibid.,
500 §2 and 1222 §2
[61] Cf. Bộ Văn Hóa, Giải
thể và tái sử dụng các nhà thờ. Hướng dẫn (17.12.2018): http://www.cultura.va/content/cultura/it/pub/documenti/decommissioning.html
[62] Cf. BGL,
1222 §2.
[63] Ibid., 374 §2.
[64] Cf. Apostolorum
Successores, s.217: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2110.
[65] Cf. BGL,
554 §1.
[66] Ibid., 555 §1,
1°
[67] Ibid., 555 §4.
[68] Cf. ibid.,
500 §2
[69] Cf. Hội Đồng Tòa
Thánh về Chăm sóc Mục Vụ Di Dân và Người Lưu động, Erga Migrantes
Charitas Christi (3.05.2004), s.95; Enchiridion Vaticanum 22
(2003-2004), 2548.
[70] Cf. Apostolorum
Successores, s. 215: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2104.
[71] Cf. ibid
[72] Cf. BGL,
517 §1
[73] Cf. ibid.,
526 §1
[74] Cf. ibid
[75] Cf. ibid.,
522
[76] Cf. ibid.,
553-555
[77] Cf. ibid.,
536
[78] Cf. ibid.,
537.
[79] Cf. ibid.,
500 §2
[80] Cf. Apostolorum
Successores, s. 219: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2117; nên dành
riêng danh hiệu “khu vực mục vụ” cho loại cụm hạt này mà thôi, để tránh lẫn lộn
[81] Cf. BGL,
134 §1 và 476.
[82] Cần phải lưu ý rằng:
a) những gì đề cập đến “Giám mục giáo phận” cũng được áp dụng đối với những vị
khác mà luật quy định; b) những gì đề cập đến giáo xứ và cha sở cũng được áp
dụng cho chuẩn giáo xứ và cha quản nhiệm; c) liên quan đến các tín hữu, luật
cũng áp dụng cho thành viên các Hội dòng Tận hiến và Tu đoàn Tông đồ, trừ khi
có sự tham chiếu rõ rệt về tính đặc thù giáo dân; d) Thuật ngữ “Người điều
hành” mang nhiều ý nghĩa khác nhau dựa trên bối cảnh được sử dụng trong Huấn
thị này tuân theo chỉ dẫn của Bộ Giáo Luật.
[83] Cf. Lumen
Gentium, s.26: AAS 57 (1965), 31-32.
[84] Cf. Ratio
Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, ss.83; 88.e, tr.37; 39
[85] Cf. BGL 275
§1
[86] Cf. Cđ. Vaticanô
II, Presbyterorum Ordinis (07.12.1965), 8: AAS 58
(1966), 1003.
[87] Cf. Ratio
Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, s.88, tr. 39-40.
[88] Cf. ĐGH
Phanxicô, Diễn văn nói với các tham dự viên Hội Nghị Bộ Giáo Sĩ nhân
dịp kỷ niệm 50 năm sắc lệnh Đào tạo linh mục Optatam Totius và sắc lệnh
Presbyterorum ordinis (20.11.2015): AAS 107 (2015),
1295
[89] Cf. BGL,
150
[90] Cf. ibid. 521
§1.
[91] Cf. ibid., 520
§1.
[92] Ibid., 519.
[93] Cf. ibid., 532.
[94] Cf. ibid., 1257
§1.
[95] Cđ. Vaticanô
II, Christus Dominus, 31: AAS 58 (1965), 689.
[96] BGL, 522.
[97] BGL, 1748.
[98] BGL, 526 §1.
[99] Cf. BGL,
152
[100] Cf. BGL,
538 §1-2.
[101] Cf. BGL 1740-1752,
kể cả các khoản luật 190-195.
[102] Cf. BGL 538
§3
[103] Cf. ibid
[104] Cf. BGL 189
[105] Cf. BGL 189
§2 và Apostolorum successores, 212: Enchiridion
Vaticanum 22 (2003-2004), 2095.
[106] Apostolorum
Successores, s.212: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004),
2095.
[107] Cf. BGL 539-540.
[108] Cf. BGL 539,
549, 1747 §3
[109] BGL 517
§1; tham khảo cả các điều 542-544.
[110] Cf. BGL 517
§1 và 526 §1
[111] Cf. BGL 543
§1
[112] Cf. BGL 543
§2-3; điều này cũng giả định người điều hành cũng là người đại diện mang tính
pháp lý dân sự, tại các quốc gia mà giáo xứ được Nhà Nước công nhận tính cách
pháp nhân.
[113] BGL 543
§1
[114] Cf. BGL 517
§1.
[115] Cf. BGL 545
§2; chẳng hạn, một linh mục có kinh nghiệm thiêng liêng nhưng sức khỏe yếu được
bổ nhiệm làm cha giải tội cho năm giáo xứ lân cận.
[116] BGL 265.
[117] BGL 1009
§3
[118] ĐGH Phanxicô, Diễn
văn trong buổi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ, Milanô (25.03.2017): AAS 109
(2017), 376.
[119] Ibid., 376-377.
[120] Lumen Gentium,
s.29: AAS 57 (1965), 36
[121] Th. GH Phaolô
VI, Diễn văn với các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về chức Phó tế,
25.10.1965: Enchiridion sul Diaconato (2009), 147-148
[122] Cf. BGL 150.
[123] Bộ Giáo lý Đức tin,
Thư Iuvenescit Ecclesia gởi các Giám mục Công giáo về mối
tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các đoàn sủng sủng phục vụ cho sự sống
và sứ vụ của Hội Thánh (15.05.2016), s. 21: Enchiridion Vaticanum 32
(2016), 734.
[124] Ibid.,
s.22: Enchiridion Vaticanum 32 (2016), 738.
[125] Cf . BGL 573
§1.
[126] Cf. Bộ Đời sống thánh
hiến và các Tu đoàn Tông đồ, Mutuae relations. Các quy định chỉ dẫn
về tương quan giữa Giám mục và tu sĩ trong Hội thánh (14.05.1978), 10.14: Enchiridion
Vaticanum 6 (1977-1979), 604-605; 617-620; cf. Apostolorum
successores, 98: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004),
1803-1804.
[127] Cf. Evangelii
Gaudium, s.102: AAS 105 (2013), 1062-1063.
[128] Cf. Christifideles
Laici, s.23: AAS 81 (1989), 429.
[129] Evangelii Gaudium,
s.201: AAS 105 (2013), 1104
[130] Lumen Gentium,
s.31: AAS 57 (1965), 37.
[131] Th. GH Phaolo
VI, Evangelii nuntiandi (8.12.1975), 73: AAS 68
(1976), 61.
[132] Evangelii Gaudium,
s.81: AAS 105 (2013), 1053-1054.
[133] Cf. BGL 517
§2.
[134] Cf. Apostolorum
Successores, s.215, c): Enchiridion Vaticanum 22
(2003-2004), 2105
[135] Bộ Giáo sĩ, Ecclesiae
de mysterio (15.08.1997), 4 §1, a-b: AAS 89 (1997),
866-867; cf. Apostolorum succesores, 215: Enchiridion
Vaticanum 22 (2003-2004), 2105. Vị linh mục này cũng là đại diện pháp
lý của giáo xứ, cả về giáo quyền lẫn dân sự, nếu Luật quốc gia qui định như
thế.
[136] Trước khi sử dụng
giải pháp được nêu lên trong điều 517 §2, Giám mục giáo phận cần cân nhắc cẩn
thận các giải pháp lựa chọn khác, chẳng hạn sử dụng các linh mục cao niên vẫn
còn khỏe mạnh cho thừa tác vụ, hay trao phó nhiều giáo xứ khác nhau cho một cha
sở hoặc ủy thác nhiều giáo xứ cho một nhóm tư tế in solidum.
[137] Cf. Ecclesiae
de mysterio, điều 4 §1, b): AAS 89 (1997), 866-867, và Bộ
Giáo sĩ, Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo
xứ (04.08.2002), ss. 23 và 25, cách đặc biệt, bàn về việc “cộng tác
trong việc chăm sóc mục vụ tại giáo xứ”, cf. s.23: Enchiridion
Vaticanum 21 (2002), 834-836.
[138] Cf. Linh mục,
mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.25: Enchiridion
Vaticanum 21 (2002), 836.
[139] GL 517 §2
[140] Linh mục, mục tử
và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.23: Enchiridion
Vaticanum 21 (2002), 834
[141] Cf. Ecclesia
de Mysterio, 1 §3: AAS 89 (1997), 863.
[142] Cf. Linh mục,
mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.23: Enchiridion
Vaticanum 21 (2002), 835
[143] Cf. Apostolorum
Successores, s.112: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 1843.
[144] Nên nhớ rằng, ngoài
tác vụ Đọc sách ủy thác cho người nam, Đức Giám mục sau khi tham khảo ý kiến
Hội Đồng Giám Mục có thể ủy thác lâm thời cho người giáo dân (nam cũng như nữ)
nhiệm vụ phục vụ Bàn thánh, sao cho phù hợp với các khoản Giáo luật liên quan;
cf. Bộ Giải thích các Văn bản Giáo luật, Trả lời (11.07.1992): AAS 86 (1994),
541; Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Thư luân lưu (15.03.1994): AAS 86 (1994),
541-542.Cf. BGL, 205
[145] Cf. BGL,
205
[146] Cf. ibid.,
230 §1.
[147] Trong khi Đức Giám
mục ủy thác các nhiệm vụ nói trên cho phó tế hay giáo dân, ngài phải xác định
rõ ràng các phận vụ được làm và trong thời gian bao lâu.
[148] BGL, 1248
§2.
[149] Ibid., 861 §1.
[150] Ibid., 766
[151] Ecclesia de
Mysterio, 3 §4: AAS 89 (1997), 865
[152] Cf. BGL, 767
§1; cf. Ecclesia de Mysterio, 3 §1: AAS 89 (1997), 864.
[153] BGL. 1112 §1;
cf. Th. GH Gioan-Phaolô II, Pastor Bonus (28.06.1998), 63: AAS
80 (1988), 876, về thẩm quyền của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích.
[154] ĐGH Phanxicô, Suy
niệm hằng ngày tại Casa Santa Marta (21.10.2013): L’Osservatore Romano 242
(21-22 October 2013), 8.
[155] Cf. BGL, các
đ. 537 và 1280.
[156] Theo BGL đ.532, cha
sở có trách nhiệm quản trị tài sản của giáo xứ, cả khi ngài phải sẵn sàng để
giáo dân có chuyên môn cộng tác việc quản trị này
[157] Cf. BGL, 115 §2 và
tương tự, đ. 492 §1.
[158] Cf. ibid.,
537 và Apostolorum Successores, s.210: Enchiridion Vaticanum 22
(2003-2004), 2087.
[159] Cf. BGL,
517 và 526.
[160] Cf. ibid.,
1287 §1.
[161] Cf. ibid.,
536 §1.
[162] ĐGH Phanxicô, Diễn từ
trong buổi gặp gỡ với các giáo sĩ, những người sống thánh hiến và các thành
viên các hội đồng mục vụ, Assisi (4.10.2013): Insegnamenti I/2 (2013), 328.
[163] Id., bài
Giảng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, 4.06.2017: AAS 109 (2017), 711.
[164] Cf. Lumen
Gentium, s.10: AAS 57 (1965), 14.
[165] Cf. Bộ Giáo sĩ, Thư
luân lưu gửi toàn thế các tín hữu (25.01.1973), ss. 4 và 9: Enchiridion
Vaticanum 4 (1971-1973), 1199-1201 and 1207-1209; cf. Christifideles
Laici, s.27: AAS 81 (1989), 440-441.
[166] ĐGH Phanxicô, Tiếp
kiến chung (23.05.2018).
[167] Th. GH Phaolô VI,
Motu Proprio Ecclesiae Sanctae (6.08.1966), I, 16 §1: AAS 58
(1966), 766; cf. BGL. 511.
[168] Evangelii Gaudium,
s.31: AAS 105 (2013), 1033.
[169] Cf. BGL,
536 §2.
[170] Cf. Ibid.,
212 §3.
[171] Ibid., 536 §2.
[172] Cf. Linh mục,
mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.26: Enchiridion
Vaticanum 21 (2002), 843.
[173] Cf. BGL,
516 §1.
[174] Cf. Ibid., 515
§2.
[175] Cf. Ibid.,
516 §2.
[176] Cf. Ibid.,
các đ. 1214, 1223 and 1225.
[177] Cf. Ibid.,
đ. 848 và 1264, 2° và các đ. 945-958; cf. Bộ Giáo sĩ, Sắc lệnh Mos
Iugiter (22.02.1991), được Đức Gioan-Phaolô II phê chuẩn bằng một thể
thức đặc biệt: Enchiridion Vaticanum 13 (1991-1993),
[178] BGL, 946.
[179] BGL, 947.
[180] Ibid., 945 §2.
[181] ĐGH Phanxicô, Christus
Vivit, s.231.
[182] Id., Diễn từ
trong buổi Gặp gỡ các Giám mục Ba Lan, Crakôvi (27.07.2016): AAS 108 (2016),
893.
[183] Id., Thông điệp Ngày Thế giới Truyền giáo 2017 (4.06.2017), s.10: AAS 109 (2017), 764.