PHẦN III:
CÁC MÔN HỌC VÀ THỜI KHOÁ BIỂU
NIÊN
KHOÁ 2022–2023
MỤC I: GIỚI THIỆU CÁC MÔN HỌC
1. Lớp Triết học I
2. Lớp Triết học II
3. Lớp Thần học I
4. Lớp Thần học II
5. Lớp Thần học III
6. Lớp Thần học IV
MỤC II: GIỚI THIỆU CÁC MÔN HỌC
Phân khoa Triết học
Phân khoa Thần học
MỤC III: THỜI KHOÁ BIỂU NIÊN KHOÁ 2022–2023
MỤC I:
CÁC MÔN HỌC
1.
Lớp Triết học I
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Triết Nhập môn |
3 |
2 |
Triết sử Tây phương Thượng cổ |
3 |
3 |
Triết sử Tây phương Trung cổ |
3 |
4 |
Luận lý học |
4 |
5 |
Triết học về Con người |
4 |
6 |
Triết học về Tự nhiên |
3 |
7 |
Phương pháp Nghiên cứu & Biên soạn |
3 |
8 |
Văn hoá tín ngưỡng Việt Nam |
3 |
9 |
Dẫn nhập Kinh Thánh |
6 |
10 |
Nhập môn Phụng vụ |
3 |
11 |
Các giờ kinh và Năm phụng vụ |
3 |
12 |
Tiếng Latin |
6 |
13 |
Tâm lý Nhân cách |
4 |
14 |
Huấn Giáo - Sư phạm Giáo lý |
3 |
2.
Lớp Triết học II
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Triết sử Tây phương Cận đại |
3 |
2 |
Triết sử Tây phương Hiện đại - Hậu Hiện đại |
3 |
3 |
Triết học về Tôn giáo |
3 |
4 |
Triết học Trung Hoa |
3 |
5 |
Triết học Ấn Độ |
3 |
6 |
Siêu hình học |
6 |
7 |
Tri thức luận |
4 |
8 |
Giải thích học |
3 |
9 |
Phật giáo |
3 |
10 |
Vấn đề Vô thần |
3 |
11 |
Đạo đức học |
3 |
12 |
Tâm lý Tư vấn |
4 |
13 |
Linh đạo Kitô giáo |
6 |
14 |
Tiểu luận Triết học |
12 |
3.
Lớp Thần học I
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Thần học Căn bản |
4 |
2 |
Bí tích Tổng quát |
3 |
3 |
Bí tích Thánh Thể |
3 |
4 |
Luân lý Căn bản |
6 |
5 |
Giáo luật về Đời sống thánh hiến |
3 |
6 |
Thần học Mục vụ |
3 |
7 |
Học thuyết Xã hội của Hội Thánh Công giáo |
3 |
8 |
Lịch sử Giáo hội hoàn vũ |
6 |
9 |
Lịch sử Giáo hội Việt Nam |
6 |
10 |
Tiếng Hy Lạp Kinh Thánh |
4 |
11 |
Ngũ thư |
6 |
12 |
Các sách Lịch sử |
3 |
13 |
Thánh vịnh |
3 |
14 |
Tin mừng theo thánh Mátthêu |
3 |
4.
Lớp Thần học II
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Tạo dựng - Ân sủng - Nguyên tội |
3 |
2 |
Kitô học [& Cứu độ luận] |
7 |
3 |
Bí tích Thánh tẩy - Thêm sức |
3 |
4 |
Cánh chung học |
3 |
5 |
Công đồng Vaticanô II |
6 |
6 |
Giáo phụ |
6 |
7 |
Giáo luật về các Bí tích [&
Hôn phối] |
4 |
8 |
Phụng vụ Bí tích - Á Bí tích - Thánh Lễ |
4 |
9 |
Mục vụ Tư vấn - Linh hướng |
4 |
10 |
Văn chương Khôn ngoan |
3 |
11 |
Văn chương Khải huyền |
3 |
12 |
Các thư chung - Các thư Gioan - Do Thái |
3 |
13 |
Tin mừng theo thánh Máccô |
3 |
5.
Lớp Thần học III
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Chúa Ba Ngôi |
3 |
2 |
Thánh Mẫu học |
3 |
3 |
Bí tích Hoà giải - Hôn phối |
4 |
4 |
Luân lý Kinh tế - Xã hội |
3 |
5 |
Đạo đức Sinh học |
3 |
6 |
Giáo luật Tổng tắc |
3 |
7 |
Sứ vụ học |
3 |
8 |
Đối thoại liên tôn |
3 |
9 |
Đạo đức và Mục vụ Truyền thông |
3 |
10 |
Mục vụ Di dân |
1 |
11 |
Luân lý thánh Anphongsô |
3 |
12 |
Các sách Ngôn sứ |
6 |
13 |
Các thư Phaolô |
6 |
14 |
Tin mừng Luca - Sách
Công vụ |
6 |
6.
Lớp Thần học IV
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
1 |
Giáo hội học |
6 |
2 |
Giảng thuyết & Mục vụ
Lời Chúa Chúa nhật |
6 |
3 |
Thần học về Chúa Thánh Thần |
3 |
4 |
Bí tích Truyền chức
- Xức dầu |
3 |
5 |
Luân lý Phái tính |
3 |
6 |
Luân lý Giải nố |
3 |
7 |
Giáo luật về Phẩm
trật |
3 |
8 |
Mục vụ Hôn nhân Gia
đình |
1 |
9 |
Đại kết |
1 |
10 |
Tin mừng theo thánh Gioan |
4 |
11 |
Thần học Kinh
Thánh |
4 |
12 |
Luận văn Tốt nghiệp |
24 |
MỤC II:
GIỚI THIỆU CÁC MÔN HỌC
Phân khoa Triết học
-
Các môn Triết học
1.
Triết học Nhập môn
Phụ trách: Cha Giuse Trương Văn Tính, O.F.M.
Con
người mở ra với thực tại bằng ba “cửa sổ” hay ba lãnh vực khác nhau: Khoa học,
Triết học và Thần học. Triết học – yêu mến, tìm kiếm sự khôn ngoan – trước khi
như là một khoa học, đã là một hoạt động, một lối sống, một thao thức của con
người về ý nghĩa của sự hiện hữu. Học Triết và làm Triết là điều thực sự cần
thiết đối với mỗi người, bởi vì, chúng ta có thể nói như Socrate: “[…] Đời sống không suy
xét là không đáng sống” (Platon, Socrates biện hộ, 38a). Nhập môn Triết
học Tây phương là môn học hướng dẫn các học viên khám phá sơ khởi về các nội
dung liên quan đến lãnh vực Triết học như: Triết học là gì? Nguồn hứng khởi của Triết học; Phương pháp
Triết
học; Tương quan giữa Triết học với khoa học và Thần học; Giá trị đào tạo của Triết học; Một vài triết gia,
tác phẩm Triết học và các triết thuyết tiêu biểu trong dòng lịch sử… Với những kiến thức
cơ bản của Triết học Nhập môn, sinh viên có thể hứng khởi bước vào khám phá
“ngôi nhà triết học” và tránh được những bỡ ngỡ.
2.
Triết sử Tây phương Thượng cổ
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn,
O.P.
Với môn học này, sinh viên tiếp cận và làm quen
với nền Triết học Cổ đại qua khuôn mặt các triết gia nổi bật như
Socrate, Platon, Aristốt… Các sinh viên tìm hiểu và đào sâu tư tưởng Triết học
của các triết gia này, nhờ đó, có thể nắm vững nguồn mạch triết học chi
phối hệ thống triết học lâu dài sau này như thế nào. Chẳng hạn, qua việc học
hỏi, đào sâu tư tưởng Triết học Cổ đại, sinh viên nhận biết được nó có tầm ảnh
hưởng thế nào trên truyền thống Triết học Kinh viện sau này.
3.
Triết sử Tây phương Trung cổ
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn,
O.P.
Môn học này tiếp nối lịch sử tư tưởng Triết học
Thượng cổ. Sinh viên, với môn học này, đào sâu các vấn đề Triết học cổ cựu dưới
viễn tượng Triết học của thánh Augustinô, Boethius, Anselmô, Bônaventura, và
thánh Tôma Aquinô. Nghiên cứu đào sâu Triết học Trung cổ, sinh viên cũng học biết
mối liên hệ mật thiết giữa Thần học Kitô giáo và Triết học.
4.
Triết sử Tây phương Cận đại
Phụ trách: Cha G. Bosco Nguyễn Hữu Thy, O.Cist
Thời
Cận đại – từ cuối thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII – là thời kỳ chuyển tiếp giữa
thời Trung cổ và thời Hiện đại. Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong suốt dòng
lịch sử Triết học nhân loại. Triết học thời Trung cổ – từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII – đặt nặng các
vấn đề siêu hình và các hình thức đượm tính cách giáo điều; nó bị chi phối bởi Thần học
và chịu ảnh hưởng sâu xa quan điểm của giáo lý Kitô giáo. Bước sang thời Cận
đại, khuynh hướng Triết học được lật qua một trang sử hoàn toàn mới: Đề cao con
người, các vấn đề nhân bản và thiên nhiên độc lập một cách cụ thể, loại bỏ
khuynh hướng giáo điều.
Dưới
cái nhìn tổng quát, Triết học thời Cận đại được chia ra làm hai khuynh hướng:
Khuynh hướng duy lý và khuynh hướng duy nghiệm. Theo khuynh hướng duy lý, chân lý không nằm ở
đối tượng được suy tư, nhưng nằm trong tư tưởng của chủ thể suy tư: Tôi có ý
tưởng rõ ràng và phân minh về một cái chi đó thì cái đó phải hiện hữu. Trong
khi, theo khuynh hướng duy nghiệm lại cho rằng người ta chỉ gặp được chân lý qua kinh nghiệm:
không có gì hiện hữu mà không qua các giác quan.
Thời
Cận đại cũng là thời kỳ “cách mạng” trong hầu như mọi lãnh vực, từ suy tư triết
học, văn hoá, chính trị, xã hội, tôn giáo đến địa lý, kinh tế, thiên văn và các
ngành công nghệ. Vì thế, thời Cận đại đã được mệnh danh là Thế kỷ Triết học hay thời kỳ Khai
Sáng: Khoa học như ngọn hải đăng soi dẫn chúng ta đạt được chân lý chắc chắn!
5.
Triết sử Tây phương Hiện đại - Hậu Hiện đại
Phụ trách: Cha Giuse Bùi Quang Minh, S.J.
Bắt
đầu cuối thế kỷ XIX, các trường phái Triết học mang tính hệ thống và phổ quát
như Duy lý, Duy nghiệm, Duy tâm và Lãng mạn đã bị phê phán vì những ảnh hưởng
tiêu cực của chúng. Triết học Tây Phương bắt đầu chuyển hướng, nhấn mạnh vào
khía cạnh cụ thể và tiến trình phát triển của thực tại, quay trở về với kinh
nghiệm hằng ngày của cuộc sống, tìm hiểu cách con người khám phá chân lý, và
hoài nghi về khuynh hướng lạc quan trong Triết Cận đại. Phần Triết Hiện đại sẽ bao gồm năm
chủ đề: phê bình tôn giáo (Nietzsche & Kierkegaard), thuyết Thực dụng
(James & Pierce), Siêu hình học mới (Bergson & Whitehead), Triết Phân tích
& Ngôn ngữ (tiền & hậu Wittgenstein), và Triết hiện tượng & Hiện sinh
(Husserl, Heidegger, Sartre). Phần Triết Hậu Hiện đại sẽ khai triển những đóng
góp của Derrida (thuyết Giải trừ cấu trúc) và tác phẩm Tình huống hậu hiện đại
của Lyotard. Môn học này sẽ giúp cho sinh viên có cái nhìn phê phán và thực tế
hơn về những thử thách mà Thần học phải đương đầu hiện nay.
6.
Triết học Tôn giáo
Phụ trách: Cha Giuse Bùi Quang Minh, S.J.
Môn Triết học Tôn giáo, trong khi tôn trọng bản
chất và sự độc lập của hiện tượng tôn giáo, cố gắng mô tả nó trong bản chất đa
dạng của các tôn giáo khác nhau. Triết học Tôn giáo, vì thế, không khởi đi từ
một xuất phát điểm trừu tượng, cho bằng từ những phản tư trên các kinh nghiệm
sống niềm tin. Các bài giảng trong bộ môn này được sắp xếp theo thứ tự lịch sử,
từ kim đến cổ, tiếp cận những đề tài căn bản trong Triết học Tôn giáo: Thiên
Chúa và điều thần thiêng, đức tin trong hiện hữu con người, kinh nghiệm tôn
giáo, lý tính và ngôn ngữ tôn giáo… Các tác giả được chọn trong các bài giảng
này chủ yếu đến từ truyền thống Kitô giáo, nhưng đồng thời có một định hướng về
quan điểm rõ rệt: Triết học Tôn giáo phải vượt qua một quan niệm duy lý nơi bản
chất nghiên cứu của chính mình.
7.
Triết học về Tự nhiên
Phụ trách: Cha Giuse Vũ Đức Nghĩa,
S.D.B.
Bằng
phương pháp riêng của mình, khoa học đã đi sâu vào cấu tạo của vật chất và muốn
định nghĩa lại ý nghĩa của vật chất. Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Duy vật cũng muốn
khẳng định con người chỉ là một sản phẩm ngẫu nhiên của quá trình tiến hoá. Để
trả lại ý nghĩa đúng đắn cho sự hiện hữu của hữu thể vật chất, và để xác định thế nào là một
bản thể tự nhiên,… bộ môn Triết học Tự nhiên sẽ cống hiến cho các sinh viên cơ
hội tìm hiểu tận căn về thế giới vật chất, tức bản chất nội tại, cơ cấu nền
tảng… của hữu thể vật chất trong vũ trụ và tái xác định phẩm vị của hữu thể
nhân linh dưới ánh sáng của Triết học Tân Kinh viện.
8.
Triết học về Con người/Nhân luận Triết học
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R.
Vấn
đề: “Con người là ai?” đã là và vẫn còn là một lời hỏi
và một ẩn ngữ chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Mặc dù được tìm hiểu và phân tích
ở nhiều cấp độ cũng như trong nhiều chuyên ngành khác nhau, nhưng huyền nhiệm
con người thực sự sâu thẳm và vượt xa mọi lý giải của những phân tích, kiểm
chứng và những lý luận.
Nội dung khoá học: Truy tìm bản chất và ý nghĩa sâu xa nhất của hiện hữu người để
trả lời câu hỏi “con người là ai?” Đây là
một trong những mục đích chính yếu của bộ môn mà ngày nay đã trở thành một khoa
học với ưu tiên quan trọng nhất: con người và những vấn đề của nó. Không
thể trả lời câu hỏi về huyền nhiệm con người trong một khái niệm ngắn gọn,
chúng ta phải tiếp cận con người dưới những mức độ khác nhau: 1) lược sử tư
tưởng về con người, 2) khai triển một hiện tượng luận về hiện hữu người,
3) tìm hiểu con người ở tầm mức siêu hình, và 4) tiếp cận huyền nhiệm
con người.
Tài
liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Con người – một
huyền nhiệm (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
9.
Siêu hình học
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải,
C.Ss.R.
Vấn
đề: Hiểu biết là một trong những nhu cầu căn bản của con
người. Và một trong những cấp độ hiểu biết cao nhất, đó là hiểu biết về căn
nguyên hay cái lý hiện hữu của tồn hữu. Bộ môn Siêu hình học (SHH) nghiên cứu những
vấn đề này; và đối tượng căn bản của SHH là nghiên cứu “hữu thể xét như nó là.”
SHH là nền tảng, vì nó là rường
cột mà trên đó người ta xây dựng các triết thuyết và tùy theo việc người ta
quan niệm nó thế nào mà có những lập trường Triết học khác nhau.
Nội
dung khoá học: Chúng ta giới hạn tìm
hiểu về hữu thể (ens) và hiện hữu (existentia) qua một số khía
cạnh chủ yếu sau: 1) khởi đi những lời hỏi như hữu thể
là gì?, thực tại là gì?, cái gì là những đặc điểm của hữu thể?,
2) chúng ta cố gắng xác định cấu trúc căn
bản của hữu thể (tính thống nhất của hữu thể); 3) tuy nhiên, tính thống nhất của hữu thể lại luôn được đặt trong
một thực tại đa dạng, biến thiên và hữu
hạn, làm thế nào dung hoà hai cực của cùng một vấn đề này?; 4) một nguồn quy
chiếu quan trọng, đó là kinh nghiệm căn
bản của con người về việc hiện hữu và về hữu thể; 5) phân tích một số nét siêu nghiệm
của hữu thể; và 6) bàn luận về bản chất của một số căn nguyên của “hiện
hữu.”
Tài liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Những nẻo đường
của hữu thể (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
10. Tri thức luận/Nhận thức luận
Phụ trách: Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R.
Vấn
đề: Làm sao chúng
ta nhận biết được thực tại chung quanh mình? Đích
thật “cái gì đó” chúng ta biết là gì vậy? Và cái chúng ta
biết về “cái gì đó” thực sự chính là “cái gì đó” như nó là cái chúng ta
biết?... Những câu hỏi đưa chúng ta đi xa hơn cái-biết, đụng đến cái-làm-thế-nào để biết và làm sao chúng ta chắc thực được cái chúng ta biết là thực
như nó là.
Nội
dung khoá học: Mục đích chính của khoá học nhằm tìm
hiểu cái-làm-thế-nào của nhận thức con người nhìn từ quan điểm Triết học;
tuy nhiên, để bàn luận rõ hơn, chúng ta cũng xét tới một số yếu tố liên quan.
Cụ thể, chúng ta tìm hiểu: 1) bản chất của tri thức; 2) một số quan điểm
về tiến trình nhận thức của con người; 3) một số phương pháp căn
bản của việc truy tìm tri thức trong lịch sử tư tưởng; 4) một số yếu tố biện
minh cho điều chúng ta chấp nhận hoặc nghi ngờ và những tiêu chuẩn
nào chúng ta có thể sử dụng để thu nhận sự thật về thế giới và về hiện hữu của
con người.
Tài
liệu học tập: Nguyễn Ngọc Hải, Nhận thức luận. Triết học về tri
thức của con người (TP. HCM: Học viện thánh Anphongsô, 2021).
11. Giải thích
học/Thông diễn học
Phụ trách: Cha Giuse Vũ Liên Minh,
O.F.M.
Giải thích học/Thông diễn học (Hermeneutics)
có lịch sử lâu đời, từ thời triết học Hy Lạp cổ đại. Thời Trung cổ và Phục
hưng, môn học này gắn liền với việc chú giải Kinh Thánh. Nhưng với trào lưu Triết
học mới thời Cận đại và Hiện đại, vấn đề “hiểu” được suy xét dưới nhiều khía
cạnh khác nhau và môn Giải thích học trở thành môn học quan trọng để tiếp cận chân
lý. Môn học này giúp sinh viên tiếp cận các vấn đề “hiểu” trong bối cảnh văn
học, lịch sử và nhân học. Môn học cũng giúp học viên biết đường hướng tiếp cận
chân lý và có được những kỹ năng thực tiễn liên quan đến vấn đề thông diễn. Nói
cách khác, môn học giúp sinh viên có khả năng biện phân trong linh hướng, tư
vấn mục vụ, suy tư triết học và thần học.
12. Vấn đề Vô thần
Phụ trách: TS. Nguyễn Anh Thường, KHXH-NV
Môn học này gợi nhắc cho sinh viên những học
thuyết hay những thái độ sống từ khước thần thánh, từ chối sự hiện hữu của
Thượng Đế. Qua môn học này, học viên có thể phân định những hình thức vô thần
khác nhau trong dòng lịch sử nhân loại. Nói cách khác, với môn học này, sinh
viên tìm hiểu vấn đề vô thần ở những giai đoạn lịch sử tư tưởng khác nhau, qua
đó họ có những phân định nghiêm túc trước các lập trường vô thần và chọn lựa thái
độ sống xác đáng với tư cách là những người có đức tin.
13. Đạo đức học
Phụ
trách: Cha Gioan Nguyễn
Ngọc Hải, C.Ss.R.
Hạnh
phúc con người không chỉ hệ tại trong sự thoả mãn các nhu cầu bản năng nhưng
còn nơi các giá trị đạo đức nền tảng để có một cuộc sống nhân bản. Nhưng các
giá trị đạo đức đến từ đâu? Chúng tương quan với niềm tin tôn giáo như thế nào?
Các tiêu chuẩn đạo đức thì tương đối hay tuyệt đối, chủ quan hay khách quan?
Cuối cùng, tại sao chúng ta “nên” sống đạo đức? Môn học này sẽ giúp sinh viên
nhận thức được những điều kiện phải có trong phán đoán đạo đức, trước khi chúng
ta bước vào các chủ đề của Thần học Luân lý. Ngoài phần lý thuyết, chúng ta sẽ
học cách áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức căn bản như vị lợi, vị kỷ, luật tự
nhiên, bổn phận và nhân đức, để phân tích và phán đoán các trường hợp cụ thể.
14. Triết học Trung Hoa
Phụ trách: GS. TS. Trịnh Doãn
Chính, KHXH-NV
Khi nhắc đến Triết học Trung Hoa, có lẽ chúng ta
cần ghi nhận rằng đây là hệ thống Triết học tuy không sâu sắc bằng hệ thống
triết học Ấn Độ xét về phương diện siêu hình, nhưng nó lại
phong phú hơn, nhiều sắc thái hơn, thậm chí có lẽ hơn cả hệ thống Triết học Hy Lạp. Triết học Trung Hoa không quá chú trọng vào sự giải thoát con người như hệ thống triết học Ấn
Độ; cũng không căn cứ vào sự mạch lạc lý luận hay chú trọng vào sự hiểu biết
như triết học Hy Lạp, nhưng nó căn cứ vào sự hoà hợp của con người với thiên
nhiên, chú trọng vào đối nhân xử thế. Vì vậy, học hỏi, đào sâu môn Triết học
Trung Hoa, sinh viên học hiểu về nhân sinh quan nhiều hơn là những vấn đề khác
của Triết học. Học hỏi Triết học Trung Hoa, sinh viên học biết một nếp sống của
con người phương Đông, một nếp sống giản dị, có trật tự, tuy an mệnh thủ thường
mà vẫn có tinh thần phấn đấu; một nếp sống nhân bản, chú trọng tới toàn diện
con người: tình cảm – Nhân; trí tuệ – Trí; ý chí – Dũng; một nếp sống hoà hợp với xã hội và thiên
nhiên.
15. Triết học Ấn Độ
Phụ trách: GS. TS. Trịnh Doãn
Chính, KHXH-NV
Nếu Triết học Tây phương thiên về tìm tòi chân lý
bằng những lý luận thuần lý hay loại suy thì triết học Ấn Độ
hướng chúng ta đến sự trầm tĩnh suy tư hơn là khảo cứu, lý luận; tri gắn liền
với hành. Nói cách khác, với triết học Ấn Độ, biết không phải để biết, nhưng
biết để đạt tới Trí - Huệ (Prajnâ: Bát - Nhã).
Với môn học này, sinh viên sẽ khám phá một nền Triết
học vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Thống nhất ở
chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể
của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải thoát; một số nguyên
lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở
chỗ, Triết học Ấn Độ chia thành nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; mỗi trường
phái là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
16. Phật giáo
Phụ trách: Cha Đa Minh Lê Đức Thiện, O.P.
Môn học nhằm mục đích giúp sinh viên có thể nắm
bắt một cách cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ
qua các giai đoạn, từ Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo Đại thừa, đồng
thời, tìm hiểu một số nội dung quan trọng của triết lý
Phật giáo nguyên thuỷ qua việc tiếp cận các bản Kinh văn. Bên cạnh đó, môn học
cũng giúp sinh viên có một cái nhìn khái quát về các trường phái chính của Phật
giáo Đại thừa, cũng như sự truyền bá và phát triển của Phật giáo bên ngoài Ấn
Độ, đặc biệt là Phật giáo tại Việt Nam.
17. Luận lý học
Phụ trách: TS. Nguyễn Anh Thường, KHXH-NV
Môn học giúp sinh viên có được những kiến
thức cơ bản về mệnh đề, các phép logic, hàm mệnh đề, khái niệm và quan hệ giữa các khái niệm, các công thức,
quy tắc suy luận; các phép suy luận, suy diễn; phương pháp chứng minh, bác bỏ
và giả thích… Nhờ thủ đắc
kiến thức căn bản về logic như thế, sinh viên có thể vận dụng vào đời sống của
mình. Nói cách khác, nhờ nắm bắt những kiến thức căn bản về logic, sinh viên
phát huy khả năng nghiên cứu khoa học về Triết học, Thần học, đồng thời tự học hỏi, trau
dồi năng lực phán đoán, phản biện của mình trong cuộc sống hằng ngày.
-
Các môn Triết - Thần
1.
Latin
Phụ trách: Thầy Giuse Trần Quốc Việt
La ngữ (Latin) vốn là tiếng nói
chính thức của Đế chế La Mã (SPQR). Nó được coi là nguồn cội của nhiều ngôn ngữ
Âu châu, Ý, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Rumani, kể cả Anh và Đức ngữ. Trong lịch sử, Latin từng là
ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp quốc tế và học thuật cho đến thế kỷ XVIII.
Trên thế giới người ta học Latin vì do đam mê hay tính “hấp dẫn” và “thách đố”
nhất của nó. Hơn nữa, học và dùng được Latin đồng nghĩa với việc sử dụng chung
ngôn ngữ với những vĩ nhân thời Cổ đại La Mã như Livius Andronicus, Augustus, Aurelius,
Catullus, Ceasar, Cicero, Livy,… Đó là niềm tự hào (honor) tự nhiên.
Rất nhiều trường học trên thế
giới (dù ở cấp trung học) dạy Latin như một học phần bắt buộc. Hiện tại, Giáo
hội Công giáo sử dụng Latin (Ecclesiastical Latin) làm ngôn ngữ riêng (tiếng
mẹ/matris lingua) cho các văn kiện chính thức (officialis) của mình. Về phần
mình, môn Latin được đưa vào chương trình (học ngôn ngữ) trong các Học viện, Chủng
viện như một công cụ, dẫu nhỏ bé, nhưng sắc bén và hữu hiệu (x. SDV, Nov. 04, 1963, # 17) Tuy thời
gian học Latin (60 tiết) khá ngắn ngủi, nhưng lại giúp các sinh viên đặt nền tảng cho việc
“Học và Tập” tính kiên nhẫn, trật tự, óc nhận định, phân tích và lý luận trong
suy tư và hành động; hỗ trợ khá đắc lực cho việc “động não” (brainstorming) khi
tiếp cận các môn Triết học và Thần học sau này.
Chẳng hạn, đơn giản những cụm từ
như ad hoc, ad libitum, ad valorem, bona fide, cum laude, de facto, ipso facto,
persona non grata, sine qua non,… không thể không gặp trong nghiên cứu học
thuật ở tầm cao. Có ít nhất 3 lĩnh vực có liên quan: Văn kiện Giáo hội, Giáo
luật và nhất là Phụng vụ mà nhiều ít các sinh viên sẽ gặp để tìm biết. Như
vậy, Latin sẽ giúp sinh viên hiểu được những từ ngữ học thuật quốc tế, hay ít ra
những những nét chính yếu trong các Văn kiện Hội Thánh (x. OT, # 13) và nhất là chuẩn bị cho
những chuyên viên về Thánh Kinh, Giáo lý, Giáo luật, Phụng vụ hoặc các môn ở cấp độ cao
khác mà sinh viên có thể phát triển sau này (x. PDV, # 18).
Vì lẽ này, sinh viên không nên xem việc học
ngôn ngữ Latin là thách đố (probatio) hay “gánh nặng” (onus); nhưng hơn hẳn sẽ
phải là một “cơ hội” (facultas/năng lực) hay đúng hơn một “vinh dự” (honor/danh
giá) như lời W. Churchill phát biểu, “I would make them all learn English: and
then I would let the clever ones learn Latin as an honour, and Greek as a treat”
[Tạm dịch, Tôi sẽ buộc tất cả (trẻ em) học Anh ngữ: sau đó ai thông minh nhất
sẽ được học Latin như một vinh dự, học Hy Lạp như một phần thưởng] (x. My Early Life: A
Roving Commission).
2.
Văn hoá Tín ngưỡng Việt Nam
Phụ trách: Cha Anphongsô Trần Ngọc Hướng, C.Ss.R.
Mỗi nền văn hoá đều có những đặc tính riêng biệt. Với tư cách là những người có đức tin, chúng ta đều ý thức rằng: nơi mỗi nền văn hoá đều có sự hoạt động của Thánh Thần để chuẩn bị tâm hồn
con người đón nhận Tin mừng. Với môn Văn hoá Tín ngưỡng Việt Nam, các sinh viên
học hỏi bản sắc văn hoá, tín ngưỡng Việt Nam với những đặc tính riêng biệt của
nó. Sinh viên cũng được học các tầng văn hoá trong nền văn hoá Việt Nam. Việc
học hỏi này giúp sinh viên hướng đến viễn tượng thi hành sứ vụ tương lai: làm
cho các giá trị Tin mừng được thấm đượm vào nền văn hoá Việt Nam.
3.
Nhập môn Phụng vụ
Phụ trách: Cha Giuse Đỗ Đình Tư, C.Ss.R.
Môn
học cung cấp cho học viên những kiến thức căn bản về phụng vụ ở ba lãnh vực:
lịch sử, nền tảng thần học và một số cử hành phụng vụ. Với tên gọi “Phụng vụ
nhập môn,” hai lãnh vực đầu được chú trọng và đào sâu hơn lãnh vực thứ ba. Cùng
với những kiến thức trình bày trên lớp, đòi buộc các học viên dành thời gian
đọc kỹ các sách được giới thiệu trong suốt khoá học. Chỉ với đức tin chân chính
và niềm đam mê nghiên cứu, các học viên mới hiểu và sống phụng vụ cách sinh
động, tạo ý thức: “Phụng vụ là môn học chính trong các phân khoa thần học; phải
được luận giải từ những góc nhìn liên quan đến thần học, lịch sử, tu đức và
giáo luật” (x. PV, # 16).
4.
Giờ
kinh phụng vụ & Năm Phụng vụ
Phụ trách: Cha Giuse Đỗ Đình Tư, C.Ss.R.
Môn
học xây dựng từ hai lãnh vực thuộc phạm vi cử hành: năm phụng vụ và các giờ kinh
phụng vụ. Phần thứ nhất, môn học giới thiệu từ lịch sử đến cử hành năm phụng vụ,
với những điểm nhấn thần học và linh đạo, giúp học viên hiểu “Mẹ thánh Giáo hội
luôn ý thức về bổn phận phải thực hành việc tưởng niệm để cử hành công trình
cứu chuộc của Đấng Phu Quân chí thánh vào những ngày được ấn định trong năm” (x.
PV, # 102). Phần thứ hai, học viên sẽ học hỏi Văn kiện trình bày và
quy định các giờ kinh phụng vụ. Đây là tài liệu Hội Thánh biên soạn cách khoa
học về lịch sử và cách thức cử hành các giờ kinh phụng vụ. Với hai phần tưởng
như không liên hệ, được trình bày xuyên suốt khoá học, sẽ cho học viên thấy mối
liên hệ chặt chẽ và thêm xác tín: Cử hành năm phụng vụ và các giờ kinh phụng vụ
là đang tuyên xưng chính Đức Kitô hiện diện trong Hội Thánh của Người.
5.
Phương pháp Nghiên cứu & Biên soạn
Phụ trách: Thầy Giuse Phạm Vũ Phi Hổ & Cha Giuse Quách Minh Đức,
C.Ss.R.
Môn học giúp các sinh viên nắm bắt phương pháp nghiên
cứu có tính hàn lâm. Qua môn học này, các sinh viên có khả năng làm việc trên
lớp học cũng như trong thư viên một cách khoa học và đạt hiệu quả. Cũng qua môn
học này, các sinh viên đạt được sự nhuần nhuyễn tiến trình thực hiện các bài
luận, các bài khảo cứu, tiểu luận, luận văn. Một điều quan trọng khác mà sinh
viên thu lượm được từ khoá học này là khả năng trình bày bài nghiên cứu theo
đúng quy cách học thuật đòi hỏi.
6.
Linh
đạo Kitô giáo
Phụ trách: Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R.
Môn học được chia làm hai phần chính. Phần I là
linh đạo sử; phần II là linh đạo thực hành. Ở phần I, sinh
viên tìm hiểu những nét căn bản của linh đạo Kitô giáo bằng cách xem xét các giai
đoạn lịch sử khác nhau của linh đạo Kitô giáo; đồng thời tìm hiểu, phân tích
những chiều kích khác nhau của linh đạo trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thêm vào đó, phần này cung cấp cho sinh viên một cái nhìn bao quát về các nguồn mạch, những
kinh nghiệm thiêng liêng được đúc kết trong dòng lịch sử của Hội Thánh. Bên
cạnh đó, nó cũng giúp cho sinh viên nắm bắt đường hướng trưởng thành tâm linh,
kinh nghiệm về đời sống cầu nguyện để hướng tới chân trời mới của một đời sống
Kitô hữu thấm đẫm những giá trị Tin mừng.
Phần II – Linh đạo thực hành: Dựa trên nền tảng Kinh Thánh, Thần học và truyền thống cũng như kinh
nghiệm thiêng liêng trong Giáo hội Công giáo, sinh viên đào sâu và trau dồi đời
sống nhân bản Kitô giáo và đời sống tâm linh của bản thân. Hơn nữa, phần linh đạo thực hành cũng giúp
sinh viên nắm chắc hành trình tâm linh dưới nhãn giới Kitô giáo cùng với những
yếu tố liên quan mật thiết với đời sống tâm linh, nghĩa là những yêu tố có tính
cách thực hành giúp họ được thăng tiến trong hành trình tâm linh của mình. Cuối
cùng, môn học giúp sinh viên định hình được con đường tâm linh gắn với ơn gọi đặc thù
của người tín hữu Chúa Kitô.
7.
Tâm lý Nhân cách
Phụ trách: Soeur Maria Thécla Trần Thị Giồng, C.N.D.
Môn học giúp sinh viên
biết về mình hầu có thể điều chỉnh hay bổ sung thêm những nét nhân cách của
mình và có thể qua đó cũng giúp biết thêm về người khác trong công việc mục vụ.
Môn
học này gồm 2 phần: 1) Tiến trình và những yếu tố hình thành nhân cách; 2) Biết và xây dựng
một nhân cách lành mạnh.
8.
Tâm lý Tư vấn
Phụ trách: Soeur Maria Thécla Trần Thị Giồng, C.N.D.
Môn học này giúp cho sinh viên thêm tự
tin trong việc mục vụ và biết một số kỹ năng hầu có thể giúp đỡ một cách hữu hiệu hơn
cho những người gặp khó khăn... đến tìm sự trợ giúp.
Nội
dung môn học gồm: 1) Một số nguyên tắc và tiến trình trong việc giúp đỡ; 2) Một số chỉ dẫn cơ bản trong việc tìm hiểu về con
người và vấn đề của người đến tìm giúp đỡ; 3) Một số kỷ năng cơ bản trong việc giúp đỡ những ai cần đến
khi làm mục vụ.
9.
Dẫn nhập Kinh Thánh
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Đình Trí, C.Ss.R.
Môn học này được chia là hai phần: Dẫn nhập Cựu
Ước và Dẫn nhập Tân Ước.
Phần Dẫn nhập Cựu
Ước có mục đích cung cấp cho các sinh viên các kiến thức tổng quát về Kinh
Thánh Cựu Ước và các phương pháp tiếp cận bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Trước hết,
phần này sẽ trình bày các khái niệm quan trọng liên quan đến Kinh Thánh nói
chung, như: Hạn từ “Kinh Thánh,” Ơn Linh hứng, Quy điển, Sự Thống nhất của Kinh
Thánh,… Thứ đến, phần này sẽ cung cấp các kiến thức tổng quát về lịch sử và văn
hoá của dân tộc Isarel qua các thời kỳ khác nhau trong thời Cựu Ước, nhằm giúp
cho các học viên hiểu rõ hơn về bối cảnh và lịch sử hình thành các bản văn Kinh
Thánh Cựu Ước. Tiếp theo, phần Dẫn nhập Cựu Ước sẽ trình bày nội dung tổng quát
của Kinh Thánh Cựu Ước, dựa theo cách phân chia các phần Cựu Ước của Quy điển
Kinh Thánh Công giáo, cụ thể: 1) Ngũ thư; 2) Các Sách Lịch sử; 3) Các Sách Giáo huấn (Nền Văn chương Khôn ngoan); 4/ Các Sách Ngôn sứ. Mục
đích cốt yếu của phần này làm nổi bật những sứ điệp chính của Cựu Ước. Sau
cùng, phân này sẽ trình bày tổng quát về lịch sử và các phương pháp chú giải
Kinh Thánh nói chung, và
Cựu Ước nói riêng.
Sang phần Dẫn nhập Tân Ước, sinh
viên có cái nhìn tổng quát về
Kinh Thánh Tân Ước trước khi đi vào tìm hiểu từng tác phẩm cụ thể. Trước hết,
trong phần
này, sinh viên sẽ được trình bày những yếu tố căn bản liên quan đến
Tân Ước, như: bối cảnh chung về lịch sử và văn hoá Do Thái thời Tân Ước; các
giai đoạn hình thành bộ Kinh Thánh Tân Ước; Lịch sử Quy điển Tân Ước; các thể
văn trong Tân Ước; cách sắp xếp các sách trong bộ Tân Ước và ý nghĩa của nó;
các nguỵ thư,… Tiếp đến, phần này cũng trình bày cho sinh viên một số vấn đề khác liên quan đến khoa phê bình Tân
Ước, như: các bản thảo cổ Tân Ước và tình trạng của chúng; một số phương pháp
phê bình hiện đại; vấn đề Đức Giêsu lịch sử;... Sau cùng, phần Dẫn nhập Tân Ước sẽ giúp các sinh viên thấy rõ hơn sự “ẩn giấu” của Tân Ước nơi Cựu Ước và
sự thành toàn của Cựu Ước nơi Tân Ước. Biến cố Đức Giêsu Kitô (Nhập thể, Đời sống, Lời rao
giảng, Cái Chết và Sự Phục sinh của
Người) không chỉ là biến cố trung tâm của Tân Ước mà là trung tâm của cả lịch
sử cứu độ.
10. Huấn Giáo và Sư phạm Giáo lý
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Hồng Phước, C.Ss.R.
Môn
học này
trang bị cho sinh viên những hiểu biết căn bản về mục vụ huấn giáo như một thực
hành quan trọng trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Ngang qua việc học hỏi
các văn kiện chính hướng dẫn về tầm quan trọng, nội dung giáo lý, phương pháp
trình bày, và các chủ đề liên quan khác, sinh viên sẽ được tìm hiểu và đào sâu
hơn những xác tín của người môn đệ Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo Tin mừng
cho thế giới hôm nay.
Phân khoa Thần học
-
Kinh Thánh
1.
Tiếng Hy Lạp Kinh Thánh
Phụ trách: Cha Vinh Sơn Phạm Cao Quý, C.Ss.R.
Không biết tiếng Hy Lạp Kinh Thánh thì khó có
thể chạm thấu sinh khí của Lời Chúa trong Tân Ước.
Tiếng Hy Lạp Kinh Thánh hay còn gọi là tiếng Hy
Lạp Phổ thông (Ελληνιστική Κοινή, phổ biến từ thời đế chế văn hoá Hy Lạp
đến thời đại Byzantine) đã được sử dụng nhằm chuyển tải sứ điệp Tin mừng và
những đạo lý liên quan vào thời sơ khai của Kitô giáo.
Môn học tiếng Hy Lạp Kinh Thánh, dựa theo giáo trình Basics of Biblical Greek của William D.
Mounce, không có tham vọng cho sinh viên nắm vững tất cả tiếng Hy Lạp cổ, nhưng
chỉ là những căn bản về ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Hy Lạp Kinh Thánh
xét như nền tảng để sinh viên có thể tự tiến xa hơn.
Trong khoá học, ngoài những bài học căn bản
theo giáo trình, sinh viên sẽ có cơ hội làm quen đọc trực tiếp một số bản văn
Kinh Thánh Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp.
2.
Ngũ
thư
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Đình Trí, C.Ss.R.
Ngũ thư, năm quyển sách đầu tiên
và quan trọng nhất của Kinh Thánh Cựu Ước, trình bày về lịch sử dân Israel, dân
được tuyển chọn của Thiên Chúa, và chứa đựng những Bộ luật Giao ước cũng như
những yếu tố nền tảng khác làm nổi bật căn tính của dân này.
Phần
thứ nhất của môn này sẽ trình bày cho các sinh viên những yếu tố tổng quát về Ngũ thư: Tên gọi “Ngũ thư” (nguồn gốc và việc sử dụng), các tên gọi được đề
nghị khác (“Tứ thư,” “Lục thư,” hay “Cửu thư”), nội
dung, cấu trúc và sứ điệp tổng quát của Ngũ thư, và Ngũ thư trong
ánh sáng của Tân Ước.
Phần thứ
hai của môn này sẽ trình bày tổng quát lịch sử nghiên cứu và những điểm tham
chiếu để đọc Ngũ thư. Phần này nhằm giúp các
sinh viên có cái nhìn xuyên suốt về các giai đoạn
nghiên cứu Ngũ thư, đồng thời đưa ra những
yếu tố chìa khoá để các sinh viên đọc và
hiểu các bản văn Ngũ thư tốt hơn.
Phần
cuối, phần quan trọng nhất của môn này, giúp các sinh viên đọc và chú giải một số bản văn được chọn lựa trong
từng quyển sách của bộ Ngũ thư. Ở đây, các
sinh viên cũng sẽ được trình bày dẫn nhập vào mỗi quyển sách, trước khi đi vào
chú giải các bản văn trong mỗi quyển sách đó.
3.
Các Sách Lịch sử
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Tiến Dũng, O.F.M.
Trong Kinh Thánh Công
giáo, khối “Các Sách Lịch sử” được chia làm 4 nhóm : I)
Giôsuê, Thủ lãnh, Rút, 1-2 Samuen, 1-2 Vua; II/1-2 Sử biên niên, Étra,
Nơkhemia; III) Tôbia, Giuđitha, Étte; IV) 1-2 Macabê. Trong đó, Các Sách Lịch sử thuộc nhóm 1 được
Kinh Thánh Do Thái giáo gọi là Các Ngôn sứ tiền để đối lại với Các Ngôn sứ hậu (Isaia, Giêrêmia,
Êdêkien, và 12 ngôn sứ nhỏ). Cách gọi này cho thấy Ítraen xác tín rằng việc đọc
lại và giải thích lịch sử trong quá khứ của họ cũng là một hoạt động của các
ngôn sứ.
Khi
học môn Các Sách Lịch sử, học viên được lưu ý không áp dụng quan niệm về lịch sử của khoa sử
học hiện đại vào việc nghiên cứu Các Sách Lịch sử trong Sách Thánh. Vì lịch
sử ở đây là lịch sử thánh được những người sưu tập và biên soạn sử dụng các câu
chuyện và các truyền thống về “những sự việc của các ngày” (dibrei hayyamim),
mà ngày nay chúng ta gọi là “lịch sử” (historia), để giải thích hiện tại
và mở ra viễn tượng tương lai cho dân Ítraen.
Như
vậy, mục đích môn học nhằm giúp học viên nhận ra cách thức dân Chúa hiểu về ơn
gọi và sứ mệnh của mình và khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử
cứu độ của mình. Ngay cả sự trừng phạt cũng là để cứu độ, để thanh luyện và làm
cho dân thực sự thành dân của Chúa theo đúng kế hoạch từ ban đầu, chứ không
phải để huỷ diệt.
4.
Văn chương Khôn ngoan Cựu Ước
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện, C.Ss.R.
Môn học này nhắm mục tiêu
cung cấp cho sinh viên một số “chìa khoá” đọc hiểu các tác phẩm được gọi là
“văn chương khôn ngoan Cựu Ước.”
Bài dẫn nhập chiếm 25% thời lượng
môn học, sẽ trình bày những kiến thức tổng quát và căn bản, giúp có một cái nhìn
chung về trào lưu khôn ngoan và các tác phẩm văn chương khôn ngoan Cựu Ước.
Các bài tiếp theo sẽ giới
thiệu những tác phẩm chính yếu của kho tàng văn chương khôn ngoan: sách Gióp,
sách Giảng viên, sách Châm ngôn, sách Huấn ca, sách Khôn ngoan. Trong đó, sách Gióp và
sách Giảng viên sẽ được chú trọng một cách đặc biệt.
5.
Thánh vịnh
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện, C.Ss.R.
Môn học này nhắm mục tiêu
giúp sinh viên bước đầu làm quen với việc tiếp cận kho tàng các Thánh vịnh, vốn là đỉnh cao của
kinh nghiệm tôn giáo Israel.
Môn học với thời lượng 30
tiết, chia thành 2 phần:
I. Dẫn nhập chung
vào việc nghiên cứu Thánh vịnh, gồm: giới thiệu vắn tắt các
phương pháp nghiên cứu Thánh vịnh hiện đại (các phân tích lịch
đại, các lối tiếp cận đồng đại); cấu trúc sách Thánh vịnh; các gia đình Thánh vịnh; các viễn tượng thần
học của sách Thánh vịnh…
II. Chú giải một số
Thánh vịnh chọn lọc, với mục tiêu giúp các sinh viên bước đầu làm quen với việc đọc
Thánh vịnh theo phương pháp phê bình.
Các Thánh vịnh, đúng theo bản chất,
phải là những lời cầu nguyện trước khi là đối tượng để nghiên cứu và học hỏi.
Đàng khác, việc nghiên cứu và học hỏi các Thánh vịnh, để đúng thực là có
tính khoa học và phù hợp với đối tượng nghiên cứu, buộc phải được thực hiện
trong lòng một cộng đoàn đức tin. Vì thế, yêu cầu trước hết đối với sinh viên
sẽ không chỉ là khả năng làm việc trí thức, mà là tâm tình cầu nguyện và thái
độ vâng phục truyền thống Hội Thánh.
6.
Các
Sách Ngôn sứ
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Văn Hội, C.Ss.R.
Trong
Kinh Thánh, ta không thấy một “khuôn mẫu” cố định về các ngôn sứ, mỗi người mỗi
kiểu. Ngôn sứ có nam có nữ, là nông dân, tư tế, hay cố vấn nhà vua; được gọi
cách bất ngờ như Amốt (x. Am 7,14) hay
được chuẩn bị từ trong lòng mẹ như Giêrêmia (x. Gr 1,4-10).
Điều này cho thấy tự do và sáng kiến của Thiên Chúa trong việc chọn lựa và dùng
những con người khác nhau, tuỳ giai đoạn, tuỳ hoàn cảnh. Và ngôn sứ được gọi
chỉ để nói Lời Thiên Chúa mà thôi. Vì vậy, thánh Phêrô cho biết lời các ngôn sứ
có giá trị đặc biệt, cần “tin tưởng” vào lời của các ngài, vì lời ấy “như chiếc
đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm” và “lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn
người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có nhữung người đã nói theo
lệnh của Thiên Chúa” (x. 2 Pr 19-21).
Học
và tìm hiểu sứ điệp của các ngôn sứ không chỉ giúp ta nhận ra Thiên Chúa đã
đồng hành thế nào với dân ngang qua những thăng trầm lịch sử, nhưng còn giúp ta
hiểu về Đức Giê-su, Đấng là trung tâm lòng tin của chúng ta. Bởi vì qua lời nói
và cuộc đời của mình, các ngôn sứ báo trước và chuẩn bị cho Đức Giêsu đến. Hơn
nữa, chính Đức Giêsu tiếp nối và hoàn thiện công việc của các ngôn sứ, đến độ
người ta phải thốt lên “một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên
Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16).
7.
Tin
mừng Mátthêu
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Tuấn Nghĩa, S.J.
Tin
mừng Mátthêu
là quyển đầu tiên trong bộ Kinh Thánh Tân Ước. Môn Tin mừng Mátthêu tập trung
vào việc đọc và chú giải các bản văn của sách Tin mừng này.
Trước
hết, ngoài những vấn đề tổng quát liên quan đến Tin mừng Nhất lãm đã được trình
bày trong môn Sự kiện Nhất lãm, các học viên sẽ được trình bày dẫn nhập vào Tin
mừng Mátthêu một cách chi tiết hơn về các vấn đề khác nhau, như: tác giả, thời
gian và hoàn cảnh soạn tác, bố cục tác phẩm, và các sứ điệp chính của tác phẩm.
Sau
phần dẫn nhập chung, các học viên sẽ được hướng dẫn đọc và chú giải các bản văn
quan trọng nhất trong sách Tin mừng này. Công việc này vừa giúp các học viên
làm quen với các bước chú giải một bản văn Kinh Thánh nói chung, và bản văn Tin
mừng nói riêng, vừa giúp họ đào sâu các sứ điệp Tin mừng mà tác giả Mátthêu
muốn nhấn mạnh.
8.
Tin
mừng Máccô
Phụ trách: Cha Vinh Sơn Phạm Cao Quý, C.Ss.R.
Tin mừng theo thánh Máccô (TMMc) chỉ gần đây
mới được đặc biệt chú ý và giữ một ví trí quan trọng trong mặc khải Kinh Thánh,
xét như một toàn bộ.
Thật vậy, nếu đặt TMMc ở vị trí đầu tiên của
Tân Ước, chúng ta có thể đọc ra ý nghĩa này: từ đời đời, Thiên Chúa có dự án
thông chia Nước Trời cho con người (x. St 1,1: Ἐν ἀρχῇ, Vào
lúc khởi đầu…) và khi thời gian viên mãn (x. Gl 4,4), dự án này đã
nên trọn nơi Đức Giêsu Kitô, Tin mừng của Thiên Chúa (x. Mc 1,1: Ἀρχὴ,
Khởi sự …).
Khoá học, ngoài Dẫn nhập tổng quát, sẽ
đọc Lời tựa sách TMMc 1,1 trong tương quan với toàn bộ TMMc để thấy được
dung mạo Đức Giêsu chính là Đấng Kitô (x. Mc 8,29) và là Con Thiên Chúa
(x. Mc 15,39), Đấng đã xuất hiện công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa (x. Mc
1,14-15) và đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ, và hiến
mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mc 10,45).
Sinh viên cũng sẽ có cơ hội đọc chuyên sâu hơn
một số bản văn Tin mừng theo hướng chú giải Thánh
Kinh, áp dụng trong đời sống đức tin và mục vụ.
9.
Tin
mừng Luca & Công vụ Tông đồ
Phụ trách: Cha Giuse Ngô Đức Tài, M.F. & Cha Giuse Nguyễn Văn Hội, C.Ss.R.
Luca
là sử gia duy nhất mà tác phẩm bao gồm hai tập được nối kết chặt chẽ với nhau,
không chỉ bằng những từ khoá mà còn bởi những sự kiện mang tính song đối. Sinh
viên, dù khi nghiên cứu riêng từng tập, nhưng luôn tiếp cận mỗi bản văn trong
cái nhìn bao quát này.
Tập I
là một nỗ lực trình bày về chính con người Đức Giêsu Kitô cũng như những sứ
điệp của Ngài qua những phép lạ và những lời rao giảng. Luca đặc biệt chú trọng
tới những dụ ngôn để làm nổi bật lên ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn chuyển tải tới
cho người nghe.
Tập
II như là một tiếp nối của Giáo hội những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện trong
tập I. Việc nỗ lực không ngừng để tồn tại, để phát triển, để vượt qua những khó
khăn về mặt cơ cấu cũng như giáo thuyết là điểm nổi bật nhằm trang bị cho sinh
viên những kinh nghiệm sống đức tin quý báu của Giáo hội thời sơ khai.
Từ
những khái niệm căn bản trên, việc chú giải một số bản văn quan trọng sẽ giúp
sinh viên làm quen với các hình thái văn chương mà thánh Luca sử dụng.
10. Tin mừng Gioan
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện, C.Ss.R.
Mục tiêu trước hết của môn
học này là giúp sinh viên biết cách đọc Tin mừng Gioan (Ga).
Về nội dung, môn học gồm 2
phần: (1) dẫn nhập chung: trình bày những nội dung trực tiếp liên
quan đến việc đọc Ga; (2) đọc một số bản văn chọn lọc. Phần thứ hai
là phần chính yếu và chiếm nhiều thời lượng hơn.
Ga là một công trình đơn
nhất, có thể và phải được đọc như là một chỉnh thể, trong đó các
phần riêng biệt có chức năng thực hiện một cấu trúc chung mà tác giả dụng công
xây dựng để truyền đạt nội dung thần học, đồng thời, cấu trúc đó, đến lượt
mình, soi sáng ý nghĩa cho mỗi bộ phận tạo nên nó. Do đó, đối tượng của việc
đọc là toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể, chứ không chỉ là những đơn vị được
đọc cô lập, tách rời khỏi các đơn vị khác và tách rời khỏi toàn bộ công trình.
Ý định thần học chi phối
việc xây dựng cấu trúc của Ga, do đó, các sự kiện gặp thấy trong bản văn và sử
tính của những sự kiện đó sẽ được giải thích trong tầm nhìn về mục đích của Ga,
tức là chú ý ngôn ngữ thần học của tác giả khi ông trình bày
các sự kiện đó.
Những phân tích từ
vựng, văn phạm và ý nghĩa biểu tượng là phần quan trọng giúp nắm bắt
nội dung đạo lý mà tác giả muốn trình bày. Vì thế, sinh viên được yêu cầu có
những kiến thức cơ bản về tiếng Hy Lạp Tân Ước và kiến thức tổng quát về văn
chương Thánh Kinh.
11. Thư Phaolô
Phụ trách: Cha Vinh Sơn Phạm Cao Quý, C.Ss.R.
Tư tưởng thần học và đạo lý Kitô giáo dường như
vẫn còn đó cách vô tận trong các Thư của thánh Phaolô, vị tông đồ đặc biệt của
Đấng Phục Sinh dành cho muôn dân.
Các thư của thánh Phaolô được đồng hoá với Lời Chúa, nghĩa là những
gì tác giả viết ra đều được linh hứng
và có giá trị nuôi dưỡng đức tin xét
như mặc khải của Thiên Chúa (x. 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,20;
3,15).
Khoá học này không thể đọc thấu đáo từng lá thư,
nhưng chỉ nhằm giúp sinh viên cái nhìn tổng quát các Thư Phaolô; phân biệt sự
khác nhau giữa thể văn Tin mừng và thể văn Thư từ; nhận diện một số chủ đề thần
học quan trọng; tạo khả năng nghiên cứu bản văn Kinh Thánh trong điều kiện có
thể.
Điều quan trọng hơn cả, đó là gợi cho sinh viên
lòng yêu mến đọc trực tiếp bản văn
Kinh Thánh sao cho việc suy tư thần học và đời sống đức tin có nền tảng mặc
khải hơn.
12. Các Thư chung
& Thư Hípri
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Đình Trí, C.Ss.R.
Thư
Hípri và Các Thư chung tạo thành một khối lớn
và không kém phần quan trọng trong bộ Kinh Thánh Tân Ước, gồm có: Thư Hípri và
7 Thư chung (Thư Giacôbê, các Thư 1-2 Phêrô, các Thư
1-3 Gioan, và Thư Giuđa).
Trước
hết, môn học này sẽ giới thiệu tổng quát về Thư Hípri và Các Thư chung, như: tên gọi, bối cảnh và sứ điệp chung của các
thư này. Tiếp đến là phần dẫn nhập vào mỗi thư riêng, tìm hiểu kỹ hơn về tác
giả, độc giả, bối cảnh cụ thể trong đó mỗi thư được viết ra, cấu trúc, văn
phong và sứ điệp chính của mỗi thư.
Một
phần chính yếu của môn này, theo sau phần dẫn nhập vào mỗi thư, là đọc và chú
giải một số đoạn văn tiêu biểu trong các thư này. Ở đây, các học viên vừa có cơ
hội đào sâu về văn phong cũng như sứ điệp quan trọng của mỗi thư, vừa đồng thời
nắm rõ hơn phương pháp để có thể tự đọc và chú giải các bản văn khác trong các
thư này.
13. Văn chương Khải huyền
Phụ trách: Cha Giuse Ngô Đức Tài, M.F.
Đại dịch Covid-19 đang là một thảm họa cho nhân
loại với biết bao nhiêu người vô tội đã chết và đang gây ra nhiều hệ luỵ. Với
Kitô hữu có lòng tin vào Chúa, thì bối cảnh này là gì? Thời khắc ân sủng chăng?
Thanh luyện chăng? Thử thách chăng? Đâu là ý Chúa?
Đây cũng là cũng là những khắc khoải nghi nan
của các tín hữu của thời kỳ khó khăn và thử thách từ những thế kỷ II TCN. cho
đến thế kỷ II. Thay vì loay hoay đi tìm cho mình những “giải đáp an thần” mang
tính trần thế, các nhà tiên kiến, sau khi được Thiên Chúa mặc khải qua các thị
kiến, đã dẫn đưa những những người đương thời của mình về một “giải pháp Nước
Trời,” về một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa và các thánh
trên thiên quốc, chỉ đến khi đó và ở đó, “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết;
cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Vì
thế, khoá học sẽ giúp sinh viên làm quen với thể loại văn chương rất đặc biệt
và thú vị này, để có thể khám phá ra rằng, đằng sau những kiểu nói mang tính
biểu tượng, đôi khi rất khó hiểu, lại là một sứ điệp đầy yêu thương và hy vọng
mà Thiên Chúa muốn gởi đến cho dân Người trong những thời khắc khó khăn và thách
đố của đời mình ở mọi thời đại, với xác quyết rằng, chung cuộc, sự dữ sẽ qua
đi, tình yêu thập giá sẽ chiến thắng, và vinh quang thiên quốc sẽ là phần
thưởng đích thật cho những người tín trung vào Chúa.
14. Thần học Kinh Thánh
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Văn Hội, C.Ss.R.
Cho
dù Kinh Thánh bao gồm những cuộn sách có nội dung rất phong phú và được viết
qua bao ngàn năm, thì cũng chỉ kể lại một câu chuyện duy nhất: câu chuyện cứu độ.
Mục đích chính yếu của Thần học Kinh Thánh là làm sáng tỏ câu chuyện này và cho
thấy sự cần thiết của việc đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Tân Ước và ngược lại,
như lời thánh Augustinô: “Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước
và Cựu Ước được tỏ lộ trong Tân Ước.” Hơn nữa, kết hợp với những chuyên ngành
Kinh Thánh và thần học khác, Thần học Kinh Thánh diễn giải những bản văn Kinh
Thánh trong và vì Giáo hội. Đặc biệt, theo cách thức có hệ thống, Thần học Kinh
Thánh cho thấy không chỉ Tân Ước mà cả Cựu Ước đều quy hướng về Đức Giê-su,
Đấng là “sợi chỉ đỏ,” là “chìa khoá” để giải thích toàn thể Kinh Thánh.
-
Phụng vụ
Phụng vụ Bí tích, Á
Bí tích và Thánh Lễ
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Đình Ái, S.S.S.
Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 16, dạy rằng: “Môn Phụng vụ phải được giảng huấn dưới khía cạnh vừa thần học và lịch sử, vừa tu
đức, mục vụ và luật pháp.” Vì thế, khoá trình “Phụng vụ Bí tích - Thánh Lễ” sẽ được giảng dạy theo hướng
đáp ứng những đòi hỏi trên đây, nghĩa là giúp các học viên đào sâu các yếu tố
gắn liền với Bí tích, nhất là Thánh Lễ, về nhiều phương diện; bổ túc cho bộ môn Bí tích thuộc các chuyên ngành khác
như Tín lý, Luân lý và Giáo luật; đặc biệt, khoá trình này còn giúp các ứng viên linh mục hiểu
và cử hành phụng vụ Thánh Lễ và
các Bí tích cho xứng đáng, chăm chú, đạo đức, vừa đúng, đẹp, vừa linh hoạt, sáng tạo và tác động đến giác
quan.
-
Thần học Tín lý
1.
Thần học căn bản
Phụ trách: Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R. & Cha Phanxicô X. Nguyễn Hai Tính, S.J.
Khoá
học giúp sinh viên hiểu được những yếu tố căn bản cho những suy tư thần học
chính thống của Giáo hội Công giáo. Những yếu tố căn bản đó là Mặc khải, Đức tin, Kinh Thánh,
Truyền thống, tín biểu, tín điều, Huấn quyền và cảm thức đức tin của Dân Chúa. Khoá học cũng giúp sinh viên nắm bắt
nguyên tắc, đường hướng, phương pháp suy tư thần học theo dòng lịch sử Giáo
hội, qua đó sinh viên học biết cách diễn tả đức tin bằng chính những dòng suy
tư thần học có tính hệ thống của chính mình trong truyền thống suy tư thần học
của Giáo hội Công giáo Rôma. Trải qua môn học này, sinh
viên nhận biết và phân định những tiêu
chuẩn và nguyên tắc căn bản của Giáo hội Công giáo cho những suy tư thần học.
Cuối cùng, sinh viên thuần thục với việc thực hành suy tư thần học trước những vấn đề thực
tế của cuộc sống đức tin.
2.
Tạo dựng - Ân sủng - Nguyên tội
Phụ trách: Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh, C.Ss.R.
Thần
học
Tạo dựng, Ân sủng và Nguyên tội là ba khía cạnh hiện sinh
của thế giới và con người trong mầu nhiệm cứu độ. Môn học này giúp sinh viên có
được cái nhìn và hiểu biết xuyên suốt từ việc Thiên Chúa tạo thành thế giới,
muôn loài muôn vật và con người, đến sự sa ngã trong mầu nhiệm sự tội, đến sự
tràn đầy và viên mãn của ân sủng được trao ban trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.
Sinh viên sẽ được học hỏi và nghiên cứu trên nền tảng Kinh Thánh, Giáo phụ,
Giáo lý và các trường phái thần học Trung - Cận - Hiện đại, nhất là cuộc tranh
luận giữa anh em Cải cách và Công giáo. Trung tâm của mọi suy tư và tranh luận
thần học vẫn là con người trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa. Sinh viên
sẽ có cái nhìn tích cực về thế giới và con người trong niềm hy vọng cứu độ.
3.
Kitô
học
Phụ trách: Cha Giuse Lê Quang Tuấn, C.Ss.R.
Trong
ánh sáng đức tin, đời sống và thờ phượng của Kitô giáo, Kitô học là việc “tìm
kiếm sự hiểu biết” về Đức Giêsu Nadarét – Đấng Cứu Độ – Tin mừng cho muôn dân.
Đến với Mặc Khải, việc tìm kiếm sự hiểu biết này cố gắng tìm hiểu về con người,
việc làm, giáo huấn, đặc biệt là cái chết và sự phục sinh của Người, “vì loài
người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta.” Theo đó, Kitô học dẫn đến việc tìm hiểu
để nhận biết Đức Giêsu: Đấng Kitô-Con Thiên Chúa; Con Người; Trung Gian Ơn Cứu
Độ. Trong những sự nhận biết này, việc tìm hiểu sẽ đến với Đức Giêsu: Thiên
Chúa thật và người thật, hoạt động mặc khải và cứu độ trong lịch sử, hiện diện
và hoạt động cứu độ trong Hội Thánh và giữa thế giới. Với những gì về Giêsu
Kitô, Kitô học có thể nói với người tìm hiểu: “Cứ đến mà xem!” (Ga
1,46), dẫn họ “đến gặp Đức Giêsu” (Ga 1,42) và giúp họ đích thân trả lời
câu hỏi của Đức Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15) bằng chính
đời sống đức tin của họ.
4.
Thánh Mẫu học
Phụ trách: Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R.
Bên
cạnh Đức Kitô, có thể nói, Đức Trinh Nữ Maria có một vị trí quan trọng trong đời sống đức
tin và việc thực hành đạo đức, thiêng liêng của các Kitô hữu. Khoá học về Thánh
Mẫu học này sẽ giúp các sinh viên có được những hiểu biết cần thiết về nền tảng
Kinh Thánh và Truyền thống cũng như Giáo huấn chính thức của Giáo hội về vị trí và vai trò
của Đức Trinh Nữ Maria trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Các chủ đề căn
bản được trình bày trong khoá học bao gồm: Đức Maria trong Kinh Thánh; Đức
Maria trong truyền thống suy tư thần học của Giáo hội; Đức Maria qua các tín
điều được Huấn quyền Giáo hội xác
quyết và tuyên tín; và cuối cùng là việc tôn sùng Đức Trinh
Nữ Maria trong đời sống của Giáo hội.
5.
Thánh Thần học
Phụ trách: Cha Giuse Lê Quang Tuấn, C.Ss.R.
Thần
học về Chúa Thánh Thần (Pneumatology: Thần Khí học/Thánh Thần học) chủ
yếu tìm hiểu về chính Chúa Thánh Thần. Việc tìm hiểu này đi liền với và là phần
bổ sung cần thiết cho Kitô học, và đặc biệt, cho Giáo hội học. Đến với Truyền
Thống, Thánh Kinh và xem xét truyền thống thần học, Thánh Thần học tìm kiếm sự
hiểu biết về Chúa Thánh Thần, Đấng là “Thần Khí Đức Kitô” (x. LG, # 8,1).
Trong việc làm này, Thánh Thần học bao gồm việc tìm hiểu để nhận biết Chúa
Thánh Thần: Thiên Chúa-Đấng ban sự sống, Đấng hiện thực hoạt động cứu độ của
Đức Kitô, Đấng xây dựng Thân Thể của Đức Kitô, và Đấng là nguyên lý sự sống của
Thân Thể. Theo đó, Thánh Thần học giúp người tin vào Đức Giêsu Kitô có thể biện
phân thần khí trong đời sống đức tin và đi vào đời sống “nhờ Thần Khí” (x. Gl
5,16-25) trong Thân Thể của Đức Kitô.
6.
Cánh chung học
Phụ trách: Cha Phaolô Vũ Chí Hỷ, S.S.S.
Khoá
học này tìm hiểu và bàn luận về cứu cánh chung cuộc của lịch sử nhân loại và vũ
trụ. Trước đây, Cánh chung học được nhận định như là giáo thuyết về “Những điều
cuối cùng” (De novissimis: sự chết, phán xét, thiên đàng, luyện ngục-hoả
ngục, ngày tận thế, sự sống lại, thời đại trị vì của Đức Kitô, thẩm phán chung).
Với sự bừng dậy của tâm thức lịch sử và các biến động văn hoá từ đầu thế kỷ XX,
cánh chung học được phục hưng như một chuyên đề chính yếu trong toàn bộ Thần học
Tín lý, là trung tâm của sứ điệp Kitô giáo, khi thảo luận về Nước Thiên Chúa,
chứ không chỉ nói đến sự kết thúc của lịch sử. Với mầu nhiệm Nhập Thể và Phục
Sinh của Đức Kitô, thời đại cánh chung đã khai mào, công cuộc canh tân, đổi mới
vũ trụ đã bắt đầu và Kitô hữu sống trong hy vọng, chờ mong sự viên mãn, hoàn
tất các hoạt động sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Điều này dẫn đến những suy
tư thần học về niềm hy vọng Kitô giáo trên bình diện Kinh Thánh, các trào lưu
thần học, những biểu tượng cánh chung truyền thống, tài liệu và văn kiện Huấn quyền của Giáo
hội, hệ luận và nguyên lý diễn giải trong thần học hiện đại, hướng tới cùng
đích và tương lai vinh phúc mà Thiên Chúa hứa ban cho mọi thụ tạo: “trời mới và đất mới” (Kh 21,1) trong sự hiệp
thông trọn vẹn và hằng cửu với Người.
7.
Chúa Ba Ngôi
Phụ trách: Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh, C.Ss.R.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi là môn học được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh, Giáo phụ, và các trường
phái thần học chính thống của Hội Thánh thời Trung cổ, Cận và Hiện đại. Mục
đích của môn học là giúp sinh viên nắm chắc và hiểu rõ đức tin của Hội Thánh vào
Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi: khởi đi từ xác tín đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất hoạt
động với Lời và Thần Khí của Ngài trong Cựu Ước, đến sự mặc khải trọn vẹn của
Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần được tuyên xưng trong Tân Ước; Hội
Thánh qua các Giáo Phụ Latin và Hy Lạp đã suy tư và kiến tạo hai dòng thần học
Đông và Tây; giai đoạn Trung cổ với các trường phái thần học lớn của Thomas Aquinas
và Bonaventure đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn sâu sắc trên giáo lý và linh đạo
Kitô giáo, đến thời Cận - Hiện đại gặp gỡ các thần học gia như Karl Barth, Karl
Rahner, Hans Urs von Balthasar, F.X. Durrwell, John Zizioulas, trình bày mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cách sống động trong lăng kính Mầu nhiệm Cứu độ - Nhập
thể, Thương khó, Chết và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Sinh viên sẽ được học
hỏi và có dịp nghiên cứu mầu nhiệm đức tin căn bản này trong khoá học.
8.
Giáo phụ
Phụ trách: Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh, C.Ss.R.
Giáo phụ học là khởi
điểm và nền tảng suy tư của Thánh Truyền. Môn học này giúp giúp sinh viên hiểu
về nguồn gốc hình thành các hạn từ và công thức đức tin, ý nghĩa thần học căn
bản của các lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, những tư tưởng của các Giáo
phụ từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mặc khải nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa Hằng Sống, Đấng Cứu Độ, đến mầu nhiệm con người được tạo dựng theo hình
ảnh của Thiên Chúa và được cứu độ, đến mầu nhiệm Hội Thánh với năng quyền Chúa
ban, đời sống bí tích, phụng vụ và đạo đức. Sinh viên sẽ có dịp đọc và phân
tích các bản văn của các giáo phụ từ thời các Tông đồ, đến Tiền và Hậu Công
đồng Nicea. Điểm độc đáo của môn học này là sinh viên sẽ nhận ra tính toàn vẹn
và vẻ đẹp của thần học Kitô giáo trong ngôn ngữ và suy tư của các Giáo phụ.
9.
Giáo hội học
Phụ trách: Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R.
Khoá
học giúp sinh viên có được những hiểu biết cần thiết về bản chất và sứ mạng của
Giáo hội trong nhãn giới thần học Công giáo. Trình tự các bài của khoá học được
sắp xếp thành ba phần căn bản để giúp sinh viên nắm vững môn thần học về Giáo
hội. Cụ thể, phần I, sinh viên sẽ tìm hiểu về nền tảng mặc khải về Giáo hội.
Phần thứ II, sinh viên sẽ tìm hiểu Giáo hội nhận thức về chính mình theo dòng
lịch sử kể từ thời các Giáo phụ cho tới Công đồng Vaticanô II. Ở cuối của phần II, khoá học giúp sinh viên
đào sâu
tư tưởng Giáo hội học của Công đồng Vaticanô II. Phần III là những suy tư thần
học đương đại về mầu nhiệm Giáo hội. Ở phần này, sinh viên được tiếp cận những suy
tư thần học về nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến bản chất và sứ mạng của
Giáo hội trong bối cảnh hiện nay.
10. Công đồng Vaticanô II
Phụ trách: Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh, C.Ss.R.
Công
đồng Vaticanô II là Lễ Hiện Xuống của Hội Thánh cho thế giới hôm nay. Các văn kiện
của Công đồng – Hiến chế, Sắc lệnh, Tuyên ngôn – cho đến hôm nay vẫn đang là
nền tảng và hướng dẫn cho các văn kiện của Hội Thánh trong suy tư học thuyết
đức tin, phụng vụ, bí tích, luân lý, sứ vụ, tôn giáo, thế giới và con người hôm
nay. Môn học này nhằm giúp sinh viên tìm hiểu bối cảnh diễn ra Công đồng, đi
vào các tranh luận của các nghị phụ và phân tích ý nghĩa thần học các văn kiện Công
đồng. Nhờ đó, sinh viên có được một nền tảng tín lý vững chắc, hiểu được ngôn
ngữ đức tin Hội Thánh đang dùng, cùng suy tư thao thức với Hội Thánh, nhất là
thấy được sức sống và lực đẩy sứ vụ của Hội Thánh trong việc phục vụ ơn cứu độ
cho thế giới hôm nay. Công đồng Vaticanô II còn là Công đồng của Đại Kết, hướng đến sự hiệp
nhất của một Hội Thánh Chúa Kitô như là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Sinh
viên sẽ được hiểu và nuôi dưỡng tinh thần hiệp nhất Kitô giáo.
-
Thần học Luân lý
1.
Luân lý Căn bản
Phụ trách: Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Môn học này giúp cho các học
viên có được những ý niệm căn bản, những nguyên tắc cần phải lưu tâm khi tiếp
cận về luân lý. Đồng thời, cũng nhấn mạnh đến tính đa nguyên của vấn đề đạo đức
(éthique) trong thế giới hôm nay để xác định Chúa Kitô, lời dạy Giáo hội
về luân lý là nền tảng cho luân lý Công giáo.
2.
Luân
lý Kinh tế - Xã hội
Phụ trách: Cha Giuse Bùi Công Trác, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Môn Luân lý Kinh tế - Xã hội trang bị cho sinh
viên kiến thức nền tảng liên quan đến tương quan con người với con người trong
xã hội dưới ánh sáng của Giáo huấn Hội Thánh Công giáo. Môn học giúp sinh viên
nắm bắt một số ý niệm căn bản về nhân phẩm, quyền lợi, nghĩa vụ, sự bình đẳng
và liên đới trong đời sống kinh tế - xã hội. Qua khoá học này, sinh viên có khả
năng phân định, lý giải những vấn đề kinh tế - xã hội từ quan điểm luân lý của
Giáo hội. Nội dung môn học chủ yếu dựa trên Học thuyết Xã hội của Hội Thánh
Công giáo gắn liền với các Thông điệp xã hội của các Đức Giáo hoàng.
3.
Luân lý theo thánh Anphongsô
Phụ trách: Cha G.B. Lê Đình Phương, C.Ss.R.
Môn Luân lý theo thánh Anphongsô giúp cho học viên có cái nhìn chung về cách Giáo hội suy tư về luân lý
trong Giáo hội Công giáo. Qua việc nghiên cứu cách thánh Anphongsô đối diện với vấn nạn luân
lý quan trọng vào thời của ngài mà học viên có thể hiểu hơn và có thái độ đúng
đắn khi đối diện với vấn đề luân lý hiện nay trong Giáo hội.
4.
Luân
lý Phái tính
Phụ trách: Cha Phêrô Vũ Văn Hài, ĐCV thánh Quý - Cần Thơ
Luân lý Phái tính là môn học
về giới tính hay tính dục con người, trong nỗ lực giúp mỗi cá nhân nên người và
nên thánh trong ơn gọi của mình. Giới tính không phải là cái gì đó tuỳ phụ, theo nghĩa có thể tùy nghi sử dụng hay không, nhưng là điều cốt lõi
làm nên bản chất, sự hiện hữu của mỗi người là nam hay nữ. Dù là ai, dù sống
theo ơn gọi nào (độc thân, tu trì, kết hôn…) con người luôn suy nghĩ, mơ ước,
biểu hiện và hành động theo giới tính cụ thể của mình.
Phần thứ nhất bàn về giới tính con người trong
chiều kích nhân học, lịch sử và thần học. Đây là phần căn bản lý thuyết giúp
học viên có sự hiểu biết đúng đắn về giới tính, về chính mình, để biết chấp
nhận mình (x. GLCG, # 2333), chấp nhận người, trong nỗ lực mở
ra với tha nhân để trở nên con người thành toàn, đạt “tới tình trạng con người
trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13).
Phần thứ
hai sẽ đề cập tới một số vấn
đề chuyên biệt như tính dục đồng giới, thủ dâm, chuyển giới, tính dục trong đời
sống tu trì,... Trong phần này, bên cạnh việc tìm hiểu
giáo huấn chính thức của Hội Thánh, người học cần xem xét các quan điểm thần
học và mục vụ khác nhau, trong nỗ lực giúp mỗi cá nhân hoàn thành ơn gọi trong
hoàn cảnh cụ thể của mình.
5.
Luân
lý Giải nố
Phụ trách: Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Sau
khi đã học xong về luân lý, học viên thường lúng túng khi phải đối diện với những vấn đề cụ thể về
luân lý trong mục vụ. Môn
Luân lý Giải nố giúp học viên dựa trên những kiến thức về
luân lý Công giáo, về tâm lý, về mục vụ, về sự tiệm tiến trong đời sống luân
lý… để đưa ra sự hướng dẫn tốt nhất trong khi thi hành mục vụ.
6.
Đạo
đức Sinh học
Phụ trách: Cha G.B. Lê Đình Phương, C.Ss.R.
Đạo đức Sinh học là một môn học liên hệ đến những hiện tượng của sự sống: khởi đầu của sự sống, ý nghĩa và việc chăm sóc sức khoẻ
và người bệnh, kết thúc của sự sống, sự thí nghiệm trên con người,
vấn đề di truyền, sự cấy ghép các cơ phận...; ngoài ra còn mở rộng đến đạo đức
về môi trường và động vật học nữa.
Như
vậy, Đạo đức Sinh học mời gọi con
người có một thái độ “trách nhiệm” đứng trước hiện tượng của sự sống. Bởi
vì Đạo đức Sinh học không chỉ đơn
thuần là “đạo đức” dành cho khoa “sinh học” nữa, mà là một nền “đạo đức của sự
sống,” ảnh hưởng trên toàn bộ sự sống của con người.
Môn học này nhằm giúp ứng sinh linh mục học hỏi
Giáo huấn của Giáo hội về vấn đề Đạo đức Sinh học, để tìm thấy những hướng dẫn giúp soi sáng lương tâm và có những quyết
định luân lý đúng đắn, không chỉ cho bản thân mà còn giúp cho người giáo dân có
thể đón nhận được những Giáo huấn của Giáo hội về vấn đề mới mẻ này.
1.
Bí tích Tổng quát
Phụ trách: Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R.
Môn Bí tích Tổng quát trình bày lịch sử của thần học bí tích
qua các thời: trước Tân Ước, Tân Ước, Giáo phụ, thời Trung cổ, các bí tích Công giáo và Tin Lành, và nhất là các bí
tích hiện nay. Cách đặc biệt, môn học này nhấn mạnh đến kinh nghiệm sống là nền
tảng của mọi bí tích; đến các biểu tượng, việc mừng lễ và nghi lễ, đồng thời
cũng đưa ra một số chìa khoá để phân biệt nền thần học bí tích thời Kinh viện và nền thần học bí tích hiện nay.
2.
Bí
tích Thánh tẩy
Phụ trách: Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R.
Môn Bí tích Thánh
tẩy trình bày nguồn gốc và lịch sử của
bí tích Thánh tẩy Kitô giáo qua các thời đại, nhấn mạnh đến nền thần học bí
tích này thời Tân Ước, và việc cử hành bí tích Thánh tẩy thời Giáo phụ, để rút ra định nghĩa về Kitô hữu. Cuối
cùng, môn học cũng đưa ra một so sánh nhỏ giữa nền thần học bí tích Thánh tẩy của
thánh Tôma Aquinô với thần học của bí tích này
của Vaticanô II. Điểm nhấn của môn học này là
phải sống bí tích này ra sao, hay nói khác đi, phải sống ơn gọi Kitô hữu thế
nào.
3.
Bí tích Thêm sức
Phụ trách: Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R.
Môn Bí tích Thêm sức
trình bày nguồn gốc của bí tích Thêm sức, và mối liên hệ giữa bí tích này với
bí tích Thánh tẩy, những khó khăn của nền thần học bí tích này hiện nay, khi bị
tách khỏi Thánh tẩy thành một bí tích riêng. Điểm nhấn của môn học này là làm
sao để phát huy ơn Chúa Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận khi chịu Thánh tẩy
và Thêm sức.
4.
Bí tích Thánh Thể
Phụ trách: Phaolô Vũ Chí Hỷ, S.S.S. & Cha Giuse Nguyễn Đức Thắng,
S.S.S.
Thần học Thánh
Thể là một bộ môn của thánh khoa Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Bộ môn Thần học Thánh Thể trình bày các đạo lý liên quan đến bí tích cực
thánh, tức là Thánh Thể – Bữa Tiệc của Chúa. Cụ thể, khoá học về Thần học Thánh Thể tại Học viện thánh Anphongsô giới thiệu lịch sử và
thần học về Thánh Thể trong đời sống Giáo hội, giúp học viên có một kiến thức
cơ bản về đạo lý và các suy tư thần học Công giáo về Thánh Thể và về thực hành
phụng vụ, đào sâu linh đạo phụng vụ Thánh Thể, đồng thời định hình các lối diễn
tả thần học Thánh Thể cho một Giáo hội đa văn hoá với cảm thức đại kết.
5.
Bí
tích Hôn phối & Bí
tích Thống hối
Phụ trách: Cha Giuse Đỗ Xuân Vinh, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Mô tả: Môn học có mục tiêu giúp cho sinh viên xác
tín về ý nghĩa thần học của Bí tích Hôn phối và Bí tích Thống hối nơi giáo huấn
hôm nay của Hội Thánh. Để làm được điều đó, môn học đã khởi đi từ nền tảng
Thánh Kinh, và đồng thời tiếp nối với nền tảng Thánh Truyền là những gì Hội
Thánh đã sống, đã suy tư, đã cử hành hai ngàn năm qua. Ngoài ra, từ giáo huấn
hôm nay, môn học cũng gợi mở những suy tư để làm sáng tỏ hơn giáo huấn ấy trong
góc nhìn đối thoại với người không cùng niềm tin; và cuối cùng môn học cũng gợi
mở hướng mục vụ Bí tích này.
Nội dung:
Bí tích Hôn Phối
Chương I: Nền tảng Thánh Kinh, đặc biệt với St 1, 26-28; 2, 18-24; Mt
19,3-9; Ep 5,21-33.
Chương II: Nền tảng
Thánh Truyền: sự hình thành, phát triển của thần học Bí tích Hôn phối
Chương III: Triển
khai thần học với các chủ đề: hôn nhân tự nhiên, cấu trúc Bí tích, thừa tác
viên, sự ưng thuận, tính bất khả phân ly, sự duy nhất, mục đích của hôn nhân,
ân sủng...
Chương IV: Gợi ý mục vụ
Bí tích Thống Hối
Chương I và II: Nền tảng Thánh Kinh và Thánh Truyền của Bí tích Thống hối
Chương III: Triển khai thần học với các chủ đề: tội lỗi, sám hối, xưng thú,
đền tội, giao hòa, cấu trúc, chiều kích Hội Thánh, thừa tác viên, năng quyền,
việc cử hành…
Chương IV: Gợi ý mục vụ
6.
Bí tích Xức dầu
Phụ trách: Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R.
Môn Bí tích Xức
dầu trình bày nguồn gốc và lịch sử của bí tích này, nhấn mạnh đến tên gọi đã
được Công đồng Vatican II sử dụng lại để đặt cho bí tích này. Vì là một bí tích
dành cho bệnh nhân, chứ không còn là bí tích của người sắp về bên kia thế giới,
nên môn học này cũng gợi lên yêu cầu mục vụ cần đáp ứng cho con người hôm nay.
7.
Bí
tích Truyền chức
Phụ trách: Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R.
Môn Bí tích
Truyền Chức trình bày nguồn gốc và lịch sử của thừa tác vụ tư tế qua các thời
đại, nhấn mạnh đến vai trò là trung gian cho thế giới thánh thiêng, cho Thiên
Chúa giữa con người. Chính vai trò quan yếu này đòi hỏi những người lãnh nhận
thừa tác vụ một đời sống xứng hợp. Điểm nhấn của môn học này là tạo cho sinh
viên một ý thức về vai trò sắp lãnh nhận đã được cha Rey-Mermet diễn tả cách cô
đọng: linh mục không có học, thì cũng giống như chiến sĩ không có khí giới, linh
mục có học mà không sống và hành động như thể đang trông thấy Thiên Chúa, thì
cũng chẳng có lợi gì cho nhân loại hôm nay.
1.
Thần
học Mục vụ
Phụ trách: Cha Giuse Phạm Văn Bình, O.F.M.
Việc
phục vụ Dân Chúa luôn đặt các mục tử ở mọi thời và mọi nơi trước nhiều thách
đố. Các mục tử luôn được chờ đợi có nhiều suy tư, sáng kiến, và chọn lựa, sao
cho Dân Chúa thuộc mọi môi trường sống có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của
Đức Kitô qua Hội Thánh và nơi con người của mục tử.
Môn
Thần học Mục vụ giúp học viên tiếp cận với sứ vụ tương lai bằng cách tìm hiểu nền
tảng thần
học của việc phục vụ trong Hội Thánh. Đồng thời, giáo trình cũng đem học viên
đến với Đấng là Mục Tử duy nhất và học với Người – Đấng hiền lành và khiêm
nhường trong lòng. Bài học từ Đức Giêsu sẽ giúp học viên thủ đắc mô hình phục
vụ của Người-lãnh-đạo-tôi-tớ, để Dân Chúa được sống và được sống dồi dào đúng
như Chúa muốn.
2.
Đối
thoại Liên tôn
Phụ trách: Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm, C.Ss.R.
Hội Thánh kêu gọi các Kitô hữu dấn thân vào con đường đối thoại tôn
giáo vì đó là một phần thiết yếu của toàn thể công việc loan báo Tin mừng của
Hội Thánh ngày nay. Để đáp lại lời kêu gọi này trong cuộc sống hôm nay, chúng
ta cần phải tìm hiểu và học hỏi về việc đối thoại liên tôn trong Kinh Thánh,
các giáo huấn và truyền thống của Hội Thánh và đem ra thực hành cụ thể trong
đời sống Kitô hữu của mình tại các Hội Thánh địa phương.
3.
Sứ vụ học
Phụ trách: Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm, C.Ss.R.
Môn Sứ vụ học (Truyền giáo học) nhắm giới thiệu với các học viên những chủ đề chính của thần học sứ
mạng đương thời, đưa ra suy tư thần học dựa trên bản tính sứ mạng (God’
mission, Christ’ mission) và trên sứ mạng của Hội Thánh ngày nay. Như vậy,
sự quan tâm thông thường của chúng ta trong và cho sứ mạng loan báo Tin mừng,
nhắm giúp chúng ta dấn thân hơn cho Nước Thiên Chúa.
4.
Giảng thuyết & Mục vụ Lời Chúa Chúa nhật
Phụ trách: Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh, C.Ss.R. & Cha Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Giảng
thuyết
là một môn học giúp sinh viên chuyển tải những gì đã học được trong các môn học
thánh thành những bài giảng hữu ích và thánh hoá đời sống đức tin của giáo dân.
Sinh viên sẽ được học hỏi về tinh thần, tâm hồn và thái độ cần phải có của một
người môn đệ Chúa Kitô khi loan báo Tin mừng. Sinh viên sẽ được làm chắc lại
các điểm cốt lõi của mầu nhiệm đức tin, cách nối kết các bài đọc và Tin mừng theo
hướng dẫn giảng thuyết của Hội Thánh, và các phương pháp trình bày sao cho hiệu
quả nhất. Hơn nữa, sinh viên sẽ có dịp thực tập giảng Lời Chúa ngày thường và Chúa
nhật, qua đó được chỉnh sửa và rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho việc
giảng dạy sau này.
5.
Tư
vấn Mục vụ & Linh hướng
Phụ trách: Cha Phaolô Nguyễn Đình Vịnh, O.F.M.
Môn
học gồm hai phần.
Phần I: Chú trọng đến lý thuyết, nền tảng
Kinh Thánh và Truyền Thống của Giáo hội trong việc chăm sóc mục vụ; Tìm hiểu những thay
đổi trong công việc chăm sóc mục vụ sau Công đồng Vaticanô II; Những nỗ lực tìm kiếm
một mô hình tư vấn mục vụ trong thế giới ngày nay; Phân biệt giữa Tư vấn Mục vụ và Tư
vấn tâm lý ngày nay; Phân biệt giữa Tư vấn mục vụ và Linh hướng; Những nguyên tắc
cơ bản, nền tảng, và đặc biệt của Tư vấn Mục vụ và Linh hướng.
Phần
II: Nhắm đến việc thực hành, học và áp dụng một số kỹ năng cơ bản của các trường
phái Tham vấn Tâm lý ngày nay áp dụng cho công việc Tư vấn mục vụ. Môn học đòi hỏi sinh
viên nắm vững phần lý thuyết, thay đổi thái độ cũng như hành vi trong công tác tư vấn và
nhuần nhuyễn một số kỹ năng tư vấn. Cuối khoá sinh viên có thể tiến hành một ca tư vấn mục vụ một
cách chuyên nghiệp và đầy đủ.
6.
Mục vụ Hôn nhân
Phụ trách: Cha Phaolô Nguyễn Hữu Thuận, C.Ss.R.
Khoá học Mục vụ Hôn nhân Gia đình là khoá học nhằm đưa ra những định hướng,
những phương pháp mục vụ cho đời sống hôn nhân gia đình, dưới ánh sáng của Tin mừng và những giáo huấn của Giáo hội. Qua việc trình bày, đối thoại, và chia sẻ
những kinh nghiệm thực tế về mục vụ hôn nhân gia đình, học viên được mời gọi
nhìn lại và canh tân những phương pháp chuẩn bị và chăm lo cho đời sống hôn
nhân gia đình nhằm đưa ra những hướng mục vụ thích hợp cho hoàn cảnh đời sống
hôn nhân gia đình hôm nay.
7.
Mục
vụ Di dân
Phụ trách: Cha P.X. Nguyễn Minh Thiệu, S.D.B.
Môn
học giới thiệu cho học viên những ý niệm căn bản về di dân và mục vụ di dân.
Đồng thời, môn học cung cấp cho học viên những nét chính yếu và nền tảng dưới
ánh sáng của Thánh Kinh và những văn kiện của Giáo hội về di dân.Từ đó, các học
viên sẽ chia sẻ, thảo luận về những thách đố về mục vụ di dân tại Việt Nam hầu
đưa ra một kế hoạch mục vụ di dân noi gương Chúa Giêsu – Vị Mục Tử Nhân Lành – và theo tinh
thần của Huấn thị Erga migrantes (2004).
8.
Mục vụ Truyền thông
Phụ trách: Cha P.X. Nguyễn Minh Thiệu, S.D.B.
Môn
học Mục
vụ Truyền
thông cống hiến cho các học viên kiến thức về những khía cạnh thần học truyền
thông, đặc biệt noi gương Chúa Giêsu – nhà truyền thông tuyệt hảo – trong sứ vụ
rao giảng Lời của Thiên Chúa. Đồng
thời, môn học trang bị cho các học viên những kiến thức cơ bản về truyền thông hầu
giúp họ có khả năng đánh giá có phê phán “văn hoá mới” của truyền thông và biết sử dụng các phương tiện
truyền thông cách khôn ngoan và sáng tạo theo những hướng dẫn của Giáo Hội cho
việc mục vụ của mình. Cuối cùng, môn học cung cấp cho các học viên những yếu tố
và các bước quan trọng để lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch mục vụ truyền
thông trong bối cảnh ngày nay.
9.
Đại kết
Phụ trách: Cha Giuse Lê Quang Tuấn, C.Ss.R.
Đối
thoại đại kết, hoạt động đối thoại vì sự hiệp nhất của các tín hữu, là dấu chỉ
về sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. Là thành phần của Giáo hội
học, môn Đối thoại Đại kết giúp tìm hiểu bản chất của đối thoại đại kết: nguyên
do và nền tảng của sự hiệp thông-hiệp nhất; những nền tảng triết học và thần
học của đối thoại. Việc tìm hiểu này giúp người tiếp cận xác định: mục đích,
những chiều kích, câu trúc và phương pháp của đối thoại đại kết. Trong khi tìm
hiểu, họ sẽ học biết những khó khăn và trở ngại trong công cuộc đối thoại đại
kết giữa các Giáo hội. Với nội dung như thế, môn Đối thoại Đại kết muốn giúp
các tín hữu nhận biết chính mình trong lời của Đức Giêsu với Chúa Cha: “để họ
nên một như chúng ta” (Ga 17,11) và trở nên khí cụ của Chúa Thánh Thần
trong công cuộc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
10. Học thuyết Xã hội của Hội Thánh Công giáo
Phụ trách: Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm,
C.Ss.R.
Học
thuyết Xã hội của Hội Thánh Công giáo gồm có các suy tư và giáo huấn của Hội
Thánh về những vấn đề: văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, sinh thái,... đã
trình bày trong nhiều thế kỷ để trả lời cho những thách đố mà Hội Thánh đã phải
đối mặt. Học thuyết này đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo cho con người và các
cộng đoàn Kitô hữu cách thức làm thế nào để sống Tin mừng của Đức Giêsu trong
bối cảnh của những vấn đề xã hội phức tạp ngày nay. Các giáo huấn ấy còn đưa ra
những nguyên lý cho suy tư, những tiêu chuẩn để đánh giá và hướng dẫn cho hành
động của con người về những vấn đề xã hội hôm nay.
1.
Giáo luật Tổng tắc
Phụ trách: Cha Phêrô Nguyễn Hùng Hải, M.F.
Phần
nhập môn của Bộ Giáo luật nhằm giới thiệu và cung cấp cho sinh viên những kiến
thức nền tảng và những nguyên tắc pháp lý để từng bước đi sâu vào tìm hiểu,
phân tích và áp dụng những điều luật khác nhau mà Giáo hội đã ban hành.
Ở
phần này, chúng ta tìm hiểu Quyển I của Bộ Giáo luật 1983 chia ra làm
hai mục:
Mục I: Đề cập đến bản chất, lịch sử, lý do, nguyên tắc của việc cải cách,
những đường lối chung về tiến trình soạn thảo, các thuật ngữ và khái niệm cơ
bản của Bộ Giáo luật. Nghiên cứu cụ thể các điều 1–95 bao gồm: 6 điều
luật dẫn nhập: Tục lệ, Các Sắc luật và Huấn thị; các văn bản hành chánh; cuối
cùng, các Quy chế và Điều lệ.
Mục II: Đào sâu các nguyên tắc căn bản từ điều 96–203 bao gồm: các thể nhân
và pháp nhân; các hành vi pháp lý, quyền cai trị; các chức vụ trong Giáo hội; thời
hiệu - cách tính giờ.
2.
Giáo luật các Bí tích
& Hôn phối
Phụ trách: Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích,
C.Ss.R.
Phần nhiệm
vụ thánh
hoá của Giáo hội cung cấp cho sinh viên kiến thức và khả năng hiểu biết về
các điều luật liên quan đến các bí tích đã được ấn định trong Bộ Giáo luật
1983, nhờ đó các sinh viên có thể để áp dụng vào trong sứ mạng tương lai
của họ. Khi phân tích từng điều luật, ngoài việc giải thích và đưa ra từng ví
dụ cụ thể đã xảy ra, về phía các sinh viên cần phải cố gắng tìm kiếm thêm những
tài liệu quan trọng khác của Giáo hội như Lịch sử, Kinh Thánh, Tín lý, Giáo lý, Giáo huấn, Luân lý và Phụng vụ... để có thể hiểu
biết cách rộng hơn và đồng thời để áp dụng thực tế hơn vào trong từng trường
hợp cụ thể.
Bài
học của phần này tập trung vào quyển IV, Nhiệm vụ Thánh hoá của Giáo hội được
chia ra thành ba phần chính:
Phần
I: Các bí tích (điều 840–1165)
Phần
II: Các việc phụng tự khác (điều 1165–1204)
Phần III:
Các nơi và thời gian thánh (điều 1205–1253).
3.
Giáo luật Phẩm trật
Phụ trách: Cha Phêrô Nguyễn Hùng Hải, M.F.
Bộ
môn Cơ cấu
Phẩm trật
của Giáo hội, thuộc phần II của Quyển II, Dân Thiên Chúa (từ điều 330–572), Bộ
Giáo luật 1983, nhằm cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản và nguyên tắc
pháp lý liên quan đến thẩm quyền, vai trò, trách nhiệm, quyền hành pháp, lập
pháp, tư pháp và quản trị của từng chức vụ và tập đoàn theo cơ cấu phẩm trật
của Giáo hội.
Nội
dung của môn học đề cập đến: quyền tối cao của Giáo hội bao gồm Đức Giáo hoàng và Giám mục đoàn, Thượng Hội đồng
Giám mục, các Hồng y Giáo hội Rôma, Giáo triều Rôma, các Đặc sứ của Đức Giáo hoàng, các Giáo hội địa phương và các Hợp đoàn Giáo hội địa phương, các Giám mục Giáo phận, Giám mục phó, Phụ tá, sự Cản toà và Khuyết vị, các Hợp đoàn Giáo hội địa phương và tổ chức
nội bộ của các Giáo hội địa phương.
4.
Giáo luật Đời sống Thánh hiến
Phụ trách: Cha Giuse
Nguyễn Ngọc Bích, C.Ss.R.
Nhằm
giúp cho sinh viên có được kiến thức tổng quát về nguyên tắc pháp lý áp dụng
cho các Tu hội Thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ dựa trên nền tảng Thần học, Kinh Thánh, Lịch cử, Tín lý, Huấn quyền và Giáo luật đã được Toà
Thánh ban hành.
Nội
dung bài học tập trung vào Quyển II, Dân Thiên Chúa, Phần III: Các Tu hội Thánh
hiến và Tu
đoàn
Tông đồ.
Bố cục được phân chia ra như sau:
Thiên I: Các Tu hội Thánh hiến (Dòng tu, Tu hội đời, các Ẩn tu và Trinh nữ Thánh hiến) (từ điều 573–730). Trình bày những yếu tố cốt yếu của đời thánh
hiến; Pháp chế tổ chức đời sống thánh hiến gồm: Việc thành lập; kết nạp; sáp
nhập; phân chia; giải thể; việc quản trị; thâu nhận và huấn luyện; nghĩa vụ và
quyền lợi của các Dòng tu và các phần tử; Hoạt động tông đồ; Rời bỏ Dòng và Các Tu hội đời.
Thiên II: Các Tu đoàn Tông đồ (từ điều 731–746). Trình bày khái niệm, tiếp đến ấn định những nguyên
tắc pháp lý về việc thiết lập, giải tán và phân chia, đồng thời đưa ra những
hình thức quản trị, việc thâu nhận và đào tạo phần tử. Cuối cùng đề cập đến
quyền lợi, nghĩa vụ, việc quản trị tài sản và nguyên tắc rời bỏ Tu đoàn.
Phần
cuối cùng trình bày cho chúng ta hiểu biết về những hình thức tận hiến khác.
-
Giáo sử
1.
Lịch sử Giáo hội Hoàn vũ
Phụ trách: Cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Lịch
sử Giáo hội là bộ môn thuộc hệ thống thần học tại các Đại học Công giáo, các Học
viện và Chủng viện. Đối tượng nghiên cứu là Giáo hội, được học hỏi và khám phá
theo nguyên tắc: “Lịch sử là quá khứ, nhưng là bài học cho hiện tại và hướng mở
đến tương lai.” Về mục đích và phương pháp, chúng tôi không chỉ trình bày những
sự kiện của quá khứ, nhưng trong cái nhìn đức tin, các sinh viên cần phải nhận
ra được ý nghĩa hay bài học cho cuộc sống hiện tại, để mở ra một hướng đi cho
tương lai để sống và để yêu mến Giáo hội hơn. Trong môn học này, chúng ta cũng
đề cập đến phương diện Thần học Lịch sử (Théologie de l'histoire).
Tuy
rằng không là môn học chính, nhưng là cần thiết và quan trọng có tính bắt buộc
trong chương trình thần học. Bộ môn lịch sử Giáo hội giúp hiểu biết về Giáo
hội, nhằm gia tăng lòng yêu mến và tích cực góp phần xây dựng Giáo hội. Bộ môn
Lịch sử Giáo hội còn góp phần giúp cho việc nghiên cứu học hỏi các môn thần học
khác cách hiệu quả hơn, bởi vì, nhìn cách toàn diện, những bộ môn khác như Kitô
học, Ba Ngôi, phụng vụ, bí tích... trong chương trình thần học đều có nền tảng
và nguồn gốc theo dòng lịch sử Giáo hội.
2.
Lịch sử Giáo hội Việt Nam
Phụ trách: Cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, ĐCV thánh Giuse - Sài Gòn
Là
công dân của một đất nước, là thành viên của Giáo hội, cách riêng của quốc gia
dân tộc và của Giáo hội Việt Nam, người tín hữu, đặc biệt, với người linh mục,
tu sĩ… để hiểu, để yêu mến, để sống và để cho sứ vụ loan truyền, chúng ta không
thể không hiểu biết, không nghiên cứu, trau dồi một số những kiến thức
cơ bản về lịch sử dân tộc và Giáo hội của mình, bởi vì: “Vô tri, bất mộ.” Thiếu lòng mến,
người ta khó năng động và tích cực góp phần cách hiệu quả vào việc xây dựng và
phát triển Giáo hội. Môn lịch sử Giáo hội Việt Nam cung cấp cho các sinh viên
không chỉ những dữ kiện lịch sử, nhưng còn đó nhiều bài học quý giá cho hành
trình ơn gọi, cho các hoạt động truyền giáo và mục vụ.
MỤC III:
THỜI KHOÁ BIỂU NIÊN KHOÁ 2022–2023
1. Thời khoá biểu học kỳ I, niên
khoá 2022–2023
X LỚP TRIẾT I (42 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Tr |
1 |
Triết Nhập môn |
3 |
Cha Giuse Trương Văn
Tính |
06 |
|
2 |
Triết Thượng cổ |
3 |
Cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn |
06 |
|
3 |
Luận lý học |
4 |
Thầy Phêrô Nguyễn Anh Thường |
06 |
|
4 |
Triết học về Tự nhiên |
3 |
Cha Giuse Vũ Đức Nghĩa |
06 |
|
5 |
Triết học Con người |
4 |
Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải |
06 |
|
6 |
Tiếng Latin (1) |
3/6 |
Thầy Giuse Trần Quốc
Việt |
06 |
|
7 |
PP.
Nghiên cứu & Biên soạn |
3 |
Thầy Giuse Phạm Vũ Phi Hổ & Cha Giuse Quách Minh Đức |
06 |
|
8 |
Nhập môn Phụng vụ |
3 |
Cha Giuse Đỗ Đình Tư |
06 |
|
|
|
|
|
|
|
X LỚP TRIẾT II (29 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Tr |
1 |
Triết sử Cận đại |
3 |
Cha G. Bosco Nguyễn Hữu Thy |
05 |
|
2 |
Đạo đức học |
3 |
Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải |
05 |
|
3 |
Tri thức luận |
4 |
Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải |
05 |
|
4 |
Siêu hình học |
6 |
Cha Gioan Nguyễn Ngọc Hải |
05 |
|
5 |
Triết học Tôn giáo |
3 |
Cha Giuse Bùi Quang Minh |
05 |
|
6 |
Triết học Ấn Độ |
3 |
Thầy Trịnh Doãn
Chính |
05 |
|
7 |
Tâm lý Tư vấn |
4 |
Soeur M. Thécla Trần Thị
Giồng |
05 |
|
|
|
|
|
|
|
X LỚP THẦN I (35 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Th |
1 |
Các sách Lịch sử |
3 |
Cha Giuse Nguyễn Tiến Dũng |
01 |
|
2 |
Ngũ thư |
6 |
Cha Giuse
Phạm Đình Trí |
01 |
|
3 |
Thánh vịnh |
3 |
Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện |
01 |
|
4 |
Thần học Căn bản & PP. Thần học |
4 |
Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng & Cha Phanxicô X. Nguyễn Hai Tính |
01 |
|
5 |
Bí tích Tổng quát |
3 |
Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông |
01 |
|
6 |
Luân lý Căn bản (1) |
3/6 |
Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng |
01 |
|
7 |
Lịch sử Giáo Hội Hoàn vũ |
6 |
Cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng |
01 |
|
|
|
|
|
|
|
X LỚP THẦN II (29 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Th |
1 |
Công đồng Vaticanô II |
6 |
Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh |
03 |
|
2 |
Giáo luật về các Bí tích [& Hôn phối] |
4 |
Cha Giuse
Nguyễn Ngọc Bích |
03 |
|
3 |
Bí tích Thánh tẩy - Thêm sức |
3 |
Cha Đa Minh Nguyễn Đức Thông |
03 |
|
4 |
Kitô học (1) |
3/7 |
Cha Giuse Lê Quang Tuấn |
03 |
|
5 |
Văn chương Khôn ngoan |
3 |
Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện |
03 |
|
6 |
P.vụ B.tích - Á B.tích - Thánh Lễ |
3 |
Cha Giuse Phạm Đình Ái |
03 |
|
7 |
Tư vấn - Linh hướng |
4 |
Cha Phaolô
Nguyễn Đình Vịnh |
03 |
|
|
|
|
|
|
|
X LỚP THẦN
III (29 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Th |
1 |
Bí tích Hoà giải - Hôn phối |
4 |
Cha Giuse Đỗ Xuân Vinh |
02 |
|
2 |
Luân lý Kinh tế - Xã hội |
3 |
Cha Giuse Bùi Công Trác |
02 |
|
3 |
Chúa Ba Ngôi |
3 |
Cha Phaolô Lưu Quang Bảo Vinh |
02 |
|
4 |
Luân lý thánh Anphongsô |
3 |
Cha Gioan B. Lê Đình Phương |
02 |
|
5 |
Sứ vụ học |
3 |
Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm |
02 |
|
6 |
Các thư Phaolô |
6 |
Cha Vinh Sơn
Phạm Cao Quý |
02 |
|
7 |
Tin mừng Luca |
3 |
Cha Giuse Ngô Đức Tài |
02 |
|
8 |
Mục vụ Di dân |
1 |
Cha P.X. Nguyễn Minh Thiệu |
02 |
|
|
|
|
|
|
|
X LỚP THẦN IV (23 SV)
STT |
Môn học |
Tín chỉ |
Giáo sư |
Ph. |
Th |
1 |
Thần học về
Chúa Thánh Thần |
3 |
Cha Giuse Lê Quang Tuấn |
04 |
|
2 |
Thần học Kinh Thánh |
4 |
Cha Giuse Nguyễn Văn Hội |
04 |
|
3 |
Tin mừng Gioan |
4 |
Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện |
04 |
|
4 |
Luân lý Giải nố |
3 |
Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng |
04 |
|
5 |
Giáo Hội học |
6 |
Cha Antôn Nguyễn Văn Dũng |
04 |
|
6 |
Giáo luật về
Phẩm trật |
3 |
Cha Phêrô Nguyễn Hùng Hải |
04 |
|
7 |
Mục vụ Hôn nhân Gia đình |
1 |
Cha Phaolô Nguyễn Hữu
Thuận |
04 |
|
|
|
|
|
|
|
& Các tiết học trong ngày được phân bổ như
sau:
Sáng |
Chiều |
Tiết 1: 7:30–8:15 |
Tiết 5: 14:15–15:00 |
Tiết 2: 8:20–9:05 |
Tiết 6: 15:10–15:55 |
Tiết 3: 9:20–10:05 |
|
Tiết 4: 10:10–10:55 |
|
TUẦN 1 - HỌC KỲ I - NĂM HỌC 2022–2023
Triết I |
Triết II |
Thần I |
Thần II |
Thần III |
Thần IV |
||
Thứ Hai 05/9 |
1 |
LuậnLýHọc |
Thư viện |
Ngũ
Thư |
|
Thư viện |
TM. Gioan |
2 |
LuậnLýHọc |
Thư viện |
Ngũ
Thư |
GL: Bí Tích |
Thư viện |
TM. Gioan |
|
3 |
LuậnLýHọc |
ĐạoĐức
Học |
Ngũ
Thư |
GL: Bí Tích |
TM.
Luca |
TM. Gioan |
|
4 |
LuậnLýHọc |
ĐạoĐức
Học |
Ngũ
Thư |
GL: Bí Tích |
TM.
Luca |
TM. Gioan |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
Thứ Ba 06/9 |
1 |
Tr.ConNgười |
Tr.
Ấn Độ |
Ngũ
Thư |
VC. KN |
MV.
Di Dân |
GL: PTrật |
2 |
Tr.ConNgười |
Tr.
Ấn Độ |
Ngũ
Thư |
VC. KN |
MV.
Di Dân |
GL: PTrật |
|
3 |
Triết
NM. |
TriThứcLuận |
Thánh Vịnh |
PV. BT-TL |
MV.
Di Dân |
TH.K.Thánh |
|
4 |
Triết
NM. |
TriThứcLuận |
Thánh Vịnh |
PV. BT-TL |
MV.
Di Dân |
TH.K.Thánh |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
Thứ Tư 07/9 |
1 |
Latin |
Siêu
Hình Học |
LL.CănBản |
BT.TT.TS |
LL.KT.XH |
TH.CTThần |
2 |
Latin |
Siêu
Hình Học |
LL.CănBản |
BT.TT.TS |
LL.KT.XH |
TH.CTThần |
|
3 |
Nhập môn
PV |
Siêu
Hình Học |
BT.TQuát |
Kitô Học |
Sứ Vụ Học |
LL. Giải Nố |
|
4 |
Nhập môn
PV |
Siêu
Hình Học |
BT.TQuát |
Kitô Học |
Sứ Vụ Học |
LL. Giải Nố |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
Thứ Năm 08/9 |
1 |
Tr.ConNgười |
Triết
TônGiáo |
LS.GHHV |
|
Ba Ngôi |
TH.K.Thánh |
2 |
Tr.ConNgười |
Triết
TônGiáo |
LS.GHHV |
MV.TVLH. |
Ba Ngôi |
TH.K.Thánh |
|
3 |
Tr.ThượngCổ |
TriThứcLuận |
LS.GHHV |
MV.TVLH. |
TM.
Luca |
TH.K.Thánh |
|
4 |
Tr.ThượngCổ |
TriThứcLuận |
LS.GHHV |
MV.TVLH. |
TM.
Luca |
TH.K.Thánh |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
Thứ Sáu 09/9 |
1 |
PP.NCBS |
TLý
Tư Vấn |
SáchLịchSử |
CĐ Va. II |
BT.HG-HP |
TH.K.Thánh |
2 |
PP.NCBS |
TLý
Tư Vấn |
SáchLịchSử |
CĐ Va. II |
BT.HG-HP |
TH.K.Thánh |
|
3 |
PP.NCBS |
TLý
Tư Vấn |
Ngũ
Thư |
CĐ Va. II |
BT.HG-HP |
TH.K.Thánh |
|
4 |
PP.NCBS |
TLý
Tư Vấn |
Ngũ
Thư |
CĐ Va. II |
BT.HG-HP |
TH.K.Thánh |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
TUẦN 2 - HỌC KỲ I - NĂM HỌC 2022–2023
2 |
Triết I |
Triết II |
Thần I |
Thần II |
Thần III |
Thần IV |
|
Thứ Hai 12/9 |
1 |
LuậnLýHọc |
Thư viện |
Ngũ
Thư |
PV. BT-TL |
Thư viện |
TM. Gioan |
2 |
LuậnLýHọc |
Thư viện |
Ngũ
Thư |
PV. BT-TL |
Thư viện |
TM. Gioan |
|
3 |
LuậnLýHọc |
ĐạoĐức
Học |
Ngũ
Thư |
PV. BT-TL |
TM.
Luca |
TM. Gioan |
|
4 |
LuậnLýHọc |
ĐạoĐức
Học |
Ngũ
Thư |
PV. BT-TL |
TM.
Luca |
TM. Gioan |
|
5 |
|
|
|
|
|
|
|
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
Thứ Ba 13/9 |
1 |
Tr.ConNgười |
Tr.
Ấn Độ |
Ngũ
Thư |
VC. KN |
MV.
Di Dân |
GL: PTrật |
2 |
Tr.ConNgười |
Tr.
Ấn Độ |
Ngũ
Thư |
VC. KN |
MV.
Di Dân |
GL: PTrật |
|
3 |
Triết
NM. |
TriThứcLuận |
Thánh Vịnh |
PV. BT-TL |
MV.
Di Dân |
TH.K.Thánh |
|
4 |
Triết
NM. |
|