CHỊU CHỨC THÁNH VỚI UỶ NHIỆM THƯ GIẢ MẠO
CÓ THÀNH SỰ KHÔNG?
Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
Có người cho rằng một
người dùng uỷ nhiệm thư giả mạo để chịu chức thánh thì chịu chức thánh là vô
hiệu, do lừa gạt. Tuy nhiên, chiếu theo Giáo luật, hành vi phong chức này là
bất hợp luật (illicit), bị phạt theo luật hình sự, nhưng chức thánh đã nhận
lãnh vẫn được hữu hiệu (valid).
1.
Phong chức thánh do man trá vẫn hữu hiệu
Để kết
luận một hành vi pháp lý là vô hiệu hay bất thành cần có sự minh nhiên ấn định
rõ ràng của Giáo luật. Nguyên tắc căn bản này được quy định ở quyển I của Bộ
Giáo luật:
Điều
10. Chỉ
những luật nào minh nhiên ấn định rằng một hành vi không có hiệu lực hoặc một
người không có khả năng, thì mới được xem là luật bãi hiệu hoặc luật bãi năng.
Ngược
lại, nếu điều luật mà không minh nhiên ấn định một hành vi là
vô hiệu hay bất thành, hoặc người không có khả năng thì không được phép xác
nhận hành vi đó là vô hiệu hay một người không có khả năng.
Ví dụ
vài luật sau đây là luật bãi hiệu, vì có những xác định minh nhiên: “bất
thành,” “để được hữu hiệu”:
Điều 977. Giải tội phạm điều răn thứ sáu cho người đồng
loã thì bất thành, trừ trường hợp nguy tử.
Điều 1085, §1. Người đang bị ràng buộc bởi dây hôn
nhân trước, dù chưa hoàn hợp, thì kết hôn cũng bất thành.
Điều 656. Để được hữu hiệu, việc
khấn tạm đòi buộc:
10 Người
sắp tuyên khấn tối thiểu phải được mười tám tuổi trọn;
20 Việc
tập tu đã được thực hiện hữu hiệu;
30 Việc
nhận cho khấn phải được tự do thực hiện do bề trên có thẩm quyền với sự biểu
quyết của ban cố vấn chiếu theo quy tắc của luật;
40 Lời
tuyên khấn phải được phát biểu cách minh nhiên và không do bạo lực, sợ hãi
nghiêm trọng hoặc man trá;
50 việc
nhận lời khấn phải được thực hiện do chính bề trên hợp pháp, hoặc nhờ một người
khác.
Tuy nhiên, không có một
điều luật nào quy định tổng quát rằng một hành vi thực hiện do man trá, hoặc
quy định riêng cho phong chức thánh do man trá thì hành vi bị vô hiệu.
Đối với ứng viên thánh
chức, Giáo luật chỉ có quy định là người nam đã được Rửa tội:
Điều 1024. Chỉ có người nam đã được Rửa Tội
mới nhận lãnh thành sự bí tích truyền chức thánh.
Ngoài quyền phong chức
thánh cách hữu hiệu thuộc về vị có chức thánh Giám mục và việc cử hành phong
chức hữu hiệu theo thể thức giáo luật (forma canonica), Giáo luật chỉ kể
ra những trường hợp bất hợp luật để chịu chức (đ. 1041) và bất hợp luật để thi
hành chức thánh nếu đã chịu chức (đ. 1044), chứ không kể ra những trường hợp
phong chức vô hiệu.
Ví dụ: Đ. 1041,40 quy
định “Người
đã phạm tội sát nhân hoặc phá thai có hiệu quả và mọi người cộng tác tích cực
vào các tội đó” thì bị ngăn trở bất hợp
luật để chịu chức, nghĩa là, tự động bị cấm được truyền chức, và nếu đã được
truyền chức thì tự động bị cấm thi hành chức thánh. Quyền giải ngăn trở bất hợp
luật này (đ. 1041,40) thuộc về Toà Thánh dù tội còn trong bí
mật hay công khai (đ. 1047).
Quyền phong chức thánh
cách thành sự hệ tại ở thánh chức Giám mục. Do đó, những Giám mục trong những
ly giáo vẫn phong chức cách thành sự các thánh chức giám mục, linh mục, phó tế,
mặc dù Giám mục đó đang mắc vạ tuyệt thông.
Trong khi về Bí tích hôn
phối có quy định 12 ngăn trở làm cho hôn nhân vô hiệu, về khấn dòng có những
quy định những điều kiện để thành sự, còn đối với chức thánh, lại chỉ có một
vài quy định bất thành. Tại sao có sự khác biệt như vậy?
Có thể giải thích rằng,
khi kết hôn hay tuyên khấn thì hai bên kết ước với nhau. Theo lẽ tự nhiên sự
kết ước phải được thực hiện trong sự hoàn toàn tự do ưng thuận, không bị áp lực
hay man trá... Trong các Bí tích này, Giáo luật quy định bất thành khi có sự
khiếm khuyết tự do, bị áp lực hay man trá...
Còn đối với Bí tích
Truyền chức thánh, thụ nhân nhận lãnh một ân ban, một chức vị từ trên ban
xuống, qua thẩm quyền của Giáo hội. Do đó Giáo luật không quy định sự truyền
chức bất thành cho dù được thực hiện trong sự thiếu tự do hay sự bị nhầm lẫn,
lừa gạt...
Trong
những trường hợp truyền chức bị khiếm khuyết về ý chí tự do, bị nhầm lẫn, do
lừa gạt, Giáo hội không tuyên bố chức thánh bất thành nhưng lại có thể ban ơn
cho phép ra khỏi hàng giáo sĩ nếu giáo sĩ đó xin, hoặc Giáo hội trục xuất một
người ra khỏi hàng giáo sĩ do phạm tội nghiêm trọng.
Khi một người ra khỏi hàng giáo sĩ, chức thánh vẫn còn nhưng không được thi
hành thánh chức, trừ việc giải tội cho người nguy tử (đ. 986§2).
2. Bị
phạt vạ
Khi
truyền chức với uỷ nhiệm thư là giả mạo thì được kể là sự truyền chức này không
có uỷ nhiệm thư hợp pháp. Vì vậy, người thụ phong bị vạ huyền chức tự động do
chính sự kiện (đ. 1388§1).
Vị Giám mục phong chức, nếu không có quyền phong
chức theo luật quy định hoặc không có văn thư uỷ nhiệm hợp pháp thì bị cấm
truyền chức một năm.
Điều
1388. §1. Giám mục nào vi phạm quy định của điều 1015,
phong chức cho một người thuộc quyền một Giám mục khác mà không có uỷ nhiệm thư
hợp pháp, thì bị cấm truyền chức trong hạn một năm. Còn người được thụ phong tự
động bị huyền chức do chính sự kiện lãnh nhận chức thánh.
Tuy
nhiên, nếu vị Giám mục phong chức vô tình không biết là uỷ nhiệm thư giả mạo
thì không bị cấm truyền chức.
3. Tạo ra, sử dụng uỷ nhiệm thư giả mạo
Người
làm ra văn thư uỷ nhiệm giả và người sử dụng văn thư uỷ nhiệm giả sẽ bị
phạt theo điều 1391.
Điều
1391
Những
người sau đây phải bị phạt với những hình phạt dự liệu ở điều 1336 §§2-4, tuỳ
theo mức nghiêm trọng của tội phạm:
10 Người
giả mạo một tài liệu công thuộc Giáo hội, hoặc sửa đổi, huỷ bỏ, cất giấu bản
chính thức, hoặc sử dụng bản giả mạo hay đã bị sửa đổi;
20
Người sử dụng một tài liệu nào khác, giả mạo hay bị sửa đổi trong một sự việc
thuộc Giáo hội,
30
Người khẳng định một điều nào đó là sai lạc trong một tài liệu công thuộc Giáo
hội.
Thông
thường, thuộc thẩm quyền Giám mục giáo phận ra hình phạt, hoặc bằng sắc lệnh
hành pháp hoặc bằng phán quyết tư pháp, tức là trao cho toà án giáo phận xét xử
và ra bản án.
Trục
xuất ra khỏi hàng giáo sĩ
Tuy
nhiên, hình phạt trục xuất ra khỏi hàng giáo sĩ, là hình phạt có tính chung
thân, Giám mục giáo phận hay thẩm phán không có quyền tuyên phạt (đ. 1342,§2; đ. 1349).
Những
cơ quan của Toà Thánh có thẩm quyền:
- Bộ Giáo
Lý Đức Tin có thẩm quyền xét xử những tội phạm chống lại đức tin, cũng như
những tội nghiêm trọng hơn phạm đến luân lý và trong việc cử hành các bí
tích (x. Norms on delicta
graviora).
- Bộ Giáo sĩ do được ban những năng quyền đặt
biệt (facoltà speciali) (Xem RELAZIONE SULLA PRASSI INTERNA PER LA
TRATTAZIONE DEI CASI PRESENTATI A NORMA DELLE FACOLTÀ SPECIALI CONCESSE ALLA
CONGREGAZIONE PER IL CLERO, thấy ở http://www.clerus.va/content/dam/clerus/Plenaria%202017/03%20-%20Facolta%CC%80%20Speciali.pdf).
- Bộ Truyền giáo, cũng
tương tự như bộ Giáo sĩ, được ban năng quyền xét xử các tội nghiêm trọng của
hàng giáo sĩ (Xem thư của Đức Hồng Y Ivan Dias Bộ Trưởng Bộ Truyền
Giáo, 31 -3- 2009, Prot. N. 0579/09).
PHỤ LỤC
1. Hồ Hữu Hoà nhập tịch
vào Giáo phận Maasin có hữu hiệu không?
Khi chịu chức phó tế,
một người buộc phải nhập tịch vào một Giáo hội địa phương hay một hội dòng hay
một Tu đoàn ĐSTĐ (đ. 256). Như vậy, khi chịu chức phó tế ngày 7-9-2022, thầy Hồ
Hữu Hoà nhập tịch vào Giáo phận Vinh. Sau đó, khi được phong chức linh mục, vào
ngày 7-12-2022, Hồ Hữu Hoà vẫn thuộc Giáo phận Vinh.
Theo như thư của Giám
mục Giáo phận Maasin viết, ngày 17-2-2023, Hoà được ngài nhận cho nhập tịch vào
Giáo phận Maasin vào ngày 15-1-2023, sau khi Hoà chịu chức linh mục.
Giáo luật điều 267 có
quy định những điều kiện để việc nhập tịch được hữu hiệu, nghĩa là, nếu không
đủ điều kiện thì việc nhập tịch bị vô hiệu.
Điều 267
§1. Để được nhập
tịch hữu hiệu vào một Giáo Hội địa phương khác, một giáo sĩ đã nhập tịch
rồi cần phải có văn thư xuất tịch của Giám Mục Giáo Phận do chính ngài ký tên;
và cũng phải được Giám Mục Giáo Phận của Giáo Hội địa phương tại nơi giáo sĩ
ước muốn nhập tịch ban văn thư nhập tịch do chính ngài ký tên.
§2. Như vậy, việc xuất
tịch được cấp chỉ có hiệu lực sau khi đã được nhập tịch vào một Giáo Hội địa
phương khác.
Dựa theo điều 267 nói
trên, sự nhập tịch của linh mục Hoà vào Giáo phận Maasin là vô hiệu, vì
thiếu văn thư xuất tịch của Giám Mục Giáo Phận Vinh do chính ngài ký tên.
Giả sử là linh mục Hoà
có trình văn thư xuất tịch của Giám Mục Giáo Phận Vinh ký, thì có thể kết luận
rằng văn thư ấy là giả tạo, được suy đoán cách hữu lý do những sự kiện đã diễn
ra.
Như vậy, linh mục Hồ Hữu
Hoà vẫn thuộc Giáo phận Vinh.
Trái lại, nếu như các
văn thư uỷ nhiệm truyền chức phó tế, linh mục và văn thư cho phép xuất tịch đều
do Đức Cha Gp Vinh ký một cách thực sự, thì Hồ Hữu Hoà và cha Chưởng ấn đã đem
các văn thư này ra để biện minh cho mình và chống lại Đức Cha. Cho nên văn thư
minh định của Đức Cha Gp Vinh là đúng sự thật.
2. Hồ Hữu Hoà không nhập
tịch vào giáo phận Vinh, do Giám mục giáo phận Vinh không uỷ nhiệm, cũng không
biết việc truyền chức?
Giáo luật, hoàn toàn
không thừa nhận giáo sĩ lang thang hoặc không có cấp trên (clerici acephali
seu vagi minime admittantur) (đ. 265). Do đó, Giáo luật quy định việc nhập
tịch của giáo sĩ vào một giáo hội địa phương (đ. 368) hoặc một hạt giám chức
tòng nhân (đ. 294), hoặc một dòng tu là một điều bắt buộc, phát sinh tự
động do luật, bởi sự việc lãnh nhận chức phó tế.
Điều 266, §1. Do việc lãnh chức phó tế, một người
trở thành giáo sĩ và được nhập tịch vào một Giáo Hội địa phương hoặc một hạt
giám chức tòng nhân mà họ được tiến chức để phục vụ.
Điều luật nói trên xác
định hai hệ quả phát sinh cách tự động do luật bởi việc lãnh nhận chức phó tế:
- Trở thành giáo sĩ;
- Nhập tịch vào một Giáo
hội địa phương.
Vậy, giáo sĩ Hoà đã nhập
vào Giáo hội địa phương nào?
Đó là Giáo hội đã được
định để tiến chức phục vụ trước khi lãnh nhận chức phó tế. Việc định trước này
tuy Giám mục giáo phận Vinh không biết nhưng sự việc được suy đoán theo những
yếu tố bên ngoài (đ. 124§2). Đó là Giám mục của Maasin xác nhận là đã
truyền chức thánh cho Hoà với thư uỷ nhiệm của Giám mục Vinh và cho giáo phận
Vinh.
Sự kiện tiếp theo sau là
Hoà chịu chức linh mục rồi thì Hoà mới xin được nhập tịch vào giáo phận Maasin
và được chấp nhận.
Thư uỷ nhiệm là giả và
sự không biết của Giám Mục giáo phận, là yếu tố bên trong, không ngăn cản hay
vô hiệu hóa sự nhập tịch tự động do luật của Hoà vào giáo phận Vinh.
Theo nguyên tắc của luật
bãi hiệu (đ. 10), chỉ có thể khẳng định sự nhập tịch do chịu chức phó tế bị vô
hiệu do sự không biết của Giám mục có quyền phong chức khi có một điều luật nào
đó xác định nó là vô hiệu. Trong Bộ Giáo luật không có một điều luật nào khẳng
định sự bãi hiệu này.
Trái lại, nếu ta xác
nhận Hoà không nhập tịch vào giáo phận Vinh thì ta đã xác nhận Hoà là giáo sĩ
lang thang. Điều này lại trái với quy định của điều 265. Như đã nói ở trên,
Giáo luật, hoàn toàn không thừa nhận giáo sĩ lang thang hoặc không có
cấp trên (clerici acephali seu vagi minime admittantur), (đ.
265).
Mặt khác, nếu xác nhận
linh mục Hồ Hữu Hoà không nhập tịch vào nơi nào cả, nghĩa là không dưới quyền
một cấp trên nào và tự do thi hành thánh chức linh mục thì quả là điều nguy hại
cho Giáo hội. Những hành vi thuộc quyền thánh chức như cử hành Thánh Lễ, Giải
tội... đều là những hành vi công thuộc phụng vụ của Giáo hội, không được phép
tự do thực hiện trái luật, gây nhiễu loại trật tự trong Giáo hội, như những
nhóm lạc giáo.
3. Tại sao Toà Giám Mục
Vinh cấm Hoà thực hành chức thánh trong phạm vi giáo phận Vinh?
Thực ra, Toà Giám mục
Vinh đang chờ Bộ Truyền Giáo điều tra, ra những chỉ dẫn và giải quyết. Việc cấm
Hoà thực hành chức thánh trong phạm vi giáo phận Vinh, chỉ là một hình phạt tạm
thời, vì còn hồ nghi là Hoà có thể đã được nhập vào giáo phận Maasin và đã
không cần dùng uỷ nhiệm thư của Giám mục Vinh để được chịu chức thánh.
Tuy nhiên, một khi đã
xác định được giáo sĩ Hoà thuộc Vinh và đã dùng uỷ nhiệm thư giả mạo thì giáo
quyền cần thiết phải tuyên bố vạ huyền chức của Hoà.
4. Luận bàn về hình phạt
Như trên đã nói, Hoà
thuộc giáo phận Vinh dưới quyền của Giám mục giáo phận vinh. Ngài hầu như có
toàn quyền để phạt Hoà nặng hay nhẹ theo quy định Giáo luật, trừ hình phạt có
tính cách chung thân như là loại trừ ra khỏi hàng giáo sĩ.
Nhờ qua thư của Giám mục
của Maasin, và sự thú nhận của cha chưởng ấn Việt, chúng ta xác định cách chắc
chắn là Hoà đã dùng uỷ nhiệm thư giả mạo để được truyền chức cho giáo phận
Vinh. Chiếu theo điều 1383 Hoà bị phạt huyền chức do chính sự kiện (ipso
facto) chịu chức thánh mà không có thư uỷ nhiệm hợp pháp.
Sự kiện đã trải qua cho
thấy Hoà cần phải bị phạt nặng nhất, tức là bị loại ra khỏi hàng giáo sĩ. Vì
vậy, việc đưa vụ việc lên Toà Thánh xét xử là điều hợp lý.
5. Nên “tuyên bố” hình
phạt huyền chức
Hiện nay, sau khi xác
định được cách chắc chắn là Hoà đã dùng uỷ nhiệm thư giả mạo và Hoà đã không
nhập tịch hữu hiệu vào giáo phận Maasin, nhưng nhập tịch vào giáo phận Vinh,
Giám mục giáo phận Vinh cần phải “tuyên bố” (declare) hình phạt huyền
chức theo quy định của điều 1383 và nên xác định thêm lệnh cấm: Không
được thi hành tất cả những hành vi thuộc quyền thánh chức (đ. 1333§1,10).
Cần phải tuyên bố vạ huyền chức để Hoà không thể thực hiện được những hành vi
thuộc quyền thánh chức, ngay cả khi đi ra nước ngoài.
Tại sao lại “tuyên bố”
và xác định phạm vi vạ huyền chức?
Theo Giáo luật, hình
phạt có hai loại: tiền kết và hậu kết. Hình phạt là hậu kết (ferendae
sententiae) khi hình phạt do giáo quyền giáng phạt sau khi phạm nhân đã
phạm tội; còn hình phạt là tiền kết (latae sententiae), nếu được luật và
mệnh lệnh minh nhiên ấn định phạm nhận bị phạt cách tự động do chính sự kiện
phạm tội, ví dụ như người phạm tội cố ý phá thai có hiệu quả bị vạ tuyệt thông
tiền kết.
Thông thường hành vi
phạm tội được thực hiện trong kín ẩn, hình phạt hay vạ tiền kết cũng nằm trong
kín ẩn. Đôi khi một số hình phạt tiền kết cần được giáo quyền tuyên bố ra vì
công ích.
Mặt khác, khi công bố
ra, hình phạt có thể bị thay đổi. Ví dụ, trong vạ tuyệt thông tiền kết, phạm
nhân bị “cấm” thực hiện hành vi lãnh đạo (ví dụ bị cấm bổ nhiệm cha sở, nhưng
nếu có bổ nhiệm thì vẫn hữu hiệu), nhưng sau khi vạ này được tuyên bố phạm nhân
không những bị cấm mà còn thực hiện “vô hiệu” hành vi lãnh đạo (ví dụ bị cấm bổ
nhiệm cha sở, nếu bổ nhiệm thì cũng bị vô hiệu).
Mức độ cấm của vạ huyền
chức thì khác nhau, ví dụ như cấm “tất cả hoặc một vài hành vi thuộc quyền
thánh chức” (đ. 1333). Vì vậy, đối với vạ huyền chức tiền
kết, cùng với việc tuyên bố vạ, giáo quyền cũng phải xác định phạm vi hay mức
độ cấm.
Vạ huyền chức cấm gì?
Giáo luật không định
nghĩa vạ huyền chức, chỉ nêu ra những điều cấm của vạ.
Điều 1333
§1. Vạ huyền chức cấm:
10 Tất
cả hoặc một vài hành vi thuộc quyền thánh chức;
20 Tất
cả hoặc một vài hành vi thuộc quyền lãnh đạo;
30 Thi
hành tất cả hoặc một số quyền lợi hay nghĩa vụ gắn liền với giáo vụ.
§2. Trong luật hay trong
mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án lệnh hay sắc lệnh đã được áp đặt hay
đã được tuyên bố, người bị vạ huyền chức không thể thực hiện cách thành sự
những hành vi lãnh đạo.
§3. Lệnh cấm không bao
giờ chi phối:
10 Những
giáo vụ hay quyền lãnh đạo nào không thuộc quyền bính của vị Bề trên thiết lập
hình phạt;
20 Quyền
cư trú, nếu phạm nhân có quyền ấy do bởi giáo vụ;
30 Quyền
quản trị những tài sản nào thuộc giáo vụ của chính người bị vạ huyền chức, nếu
hình phạt là tiền kết.
§4. Vạ huyền chức cấm
nhận lợi lộc, lương bổng, trợ cấp hay những thứ khác tương tự, bao gồm bó buộc
phải trả lại bất cứ những gì đã nhận cách bất hợp pháp, cả khi
vì ngay tình.
5. Hình phạt của tội làm
ra hoặc sử dụng tài liệu công giả mạo
Điều 1391 quy định những
người làm ra hay sử dụng tài liệu công giả mạo bị phạt với những hình phạt dự liệu
ở điều 1336 §§2-4, tuỳ theo mức nghiêm trọng của tội phạm.
Điều 1336
§1. Thục hình có thể chi
phối một phạm nhân hoặc suốt đời hoặc trong một thời gian được ấn định trước,
hoặc trong một thời gian vô hạn, ngoài những hình phạt mà luật có thể đặt ra; thục
hình gồm những loại liệt kê trong những §2-5.
§2. Buộc:
10 Phải
cư ngụ tại một nơi hay một địa hạt nhất định;
20 Phải
nộp phạt hay nộp một số tiền cho các mục đích của Giáo hội, theo như những quy
định được Hội đồng Giám mục ấn định.
§3. Cấm:
10 Không
được cư ngụ tại một nơi hay một địa hạt nhất định;
20 Không
được thi hành, ở khắp mọi nơi, hay trong một nơi hay một địa hạt nhất định hay
bên ngoài địa hạt, tất cả các hay một số giáo vụ, công việc, thừa tác vụ hay
nhiệm vụ hay chỉ một bổn phận gắn liền với giáo vụ hay một số công việc.
30 Không
được thi hành tất cả hay một số hành vi thuộc thánh chức;
40 Không
được thi hành tất cả hay một số hành vi thuộc quyền lãnh đạo;
50 Không
được áp dụng một số quyền lợi hay đặc ân hay sử dụng phù hiệu hay tước vị;
60 Không
được hưởng quyền ứng cử hoặc bầu cử theo giáo luật và tham dự với quyền bỏ
phiếu trong các ban cố vấn hay trong các hiệp đoàn thuộc Giáo hội;
70 Không
được mang áo giáo sĩ hay tu sĩ.
§4. Tước bỏ:
10 Tất
cả hay một số giáo vụ, công việc, thừa tác vụ hoặc nhiệm vụ hay chỉ một vài bổn
phận gắn liền với giáo vụ hoặc công việc;
20 Năng
quyền giải tội hay năng quyền thuyết giảng;
30 Quyền
lãnh đạo thụ uỷ;
40 Một
số quyền lợi hay đặc ân hay phù hiệu hay tước vị;
50 Toàn
bộ lương bổng hay một phần, tuỳ theo quy luật do Hội đồng Giám mục ấn định, trừ
những gì quy định ở điều 1350, §1.
§5. Sa thải khỏi hàng
giáo sĩ.
Trường hợp phạt nặng hơn
Giáo luật điều 1326 cũng
có quy định là “phải” (debet) phạt nặng hơn hình phạt mà luật đã quy
định:
Điều 1326
§1. Thẩm phán phải
(debet) trừng phạt bằng một hình phạt nặng hơn hình phạt mà luật hay mệnh lệnh
đã thiết lập:
10 Người
sau khi bị kết án hay sau khi hình phạt đã được tuyên bố mà vẫn tiếp tục phạm
tội, đến nỗi hoàn cảnh cho phép suy đoán cách khôn ngoan rằng người ấy ngoan cố
trong ý xấu;
20 Người
có phẩm chức, hay người đã lạm dụng quyền hành hoặc chức vụ của mình để phạm
tội;
30 Người,
mà sau khi hình phạt đã được thiết lập cho tội tắc trách (delictum culposum),
dù tiên liệu được sự việc, đã bỏ qua các biện pháp phòng ngừa để tránh nó như
bất cứ một người cẩn thận nào cũng phải làm.
4º Người đã phạm tội
trong tình trạng say rượu hay một rối loạn tâm trí nào khác, nhưng cố ý làm như
vậy để phạm tội hay để bào chữa, hoặc cố ý để cho đam mê được kích thích hay
được nuôi dưỡng.
§2. Trong những trường
hợp được nói đến ở §1 nếu hình phạt được ấn định là tiền kết, thì có thể thêm
vào hình phạt ấy một hình phạt khác hay một việc sám hối.
§3. Trong những trường
hợp như vậy, nếu hình phạt được ấn định là tùy nghi, thì trở thành bắt buộc.
6. Có quyền
không thừa thận việc truyền chức thánh thành sự?
Bản Việt ngữ Giáo luật
điều 1708 hiện hành có ghi:
Điều 1708
Chính giáo sĩ, hoặc Đấng
Bản Quyền mà giáo sĩ lệ thuộc, hoặc Đấng Bản Quyền của Giáo Phận nơi giáo sĩ đã
được truyền chức, có quyền không thừa nhận việc truyền chức thánh thành
sự.
Điều 1708 thuộc tiết mục
“Các vụ án tuyên bố việc phong chức thánh bất thành,” nói đến quyền tố cáo lên toà
án Giáo hội việc phong chức thánh bất thành.
Bản dịch này rõ ràng bị
sai. Chỉ một chút suy xét cũng thấy nó sai, vì đâu có dễ dàng mà “không
thừa nhận” việc truyền chức thánh thành sự.
Cần xem lại bản gốc La
tinh để chuyển dịch cho đúng như sau:
Điều 1708
Những người có
quyền khiếu tố về sự hữu hiệu của việc truyền chức thánh là chính giáo sĩ,
hoặc Đấng Bản quyền mà giáo sĩ tùy thuộc, hoặc Đấng Bản quyền của Giáo phận
nơi giáo sĩ đã được truyền chức.
Nguyên bản La tinh:
Can. 1708
- Validitatem sacrae ordinationis ius habent accusandi sive ipse
clericus sive Ordinarius, cui clericus subest vel in cuius dioecesi ordinatus
est.
Điều 1709 tiếp theo sau
đó xác định thẩm quyền xử vụ án này thuộc về Toà Thánh. Một khi đã gởi đơn,
giáo sĩ bị cấm thi hành chức vụ thánh do chính luật.
Khi toà án tuyên bố sự
bất thành của việc phong chức thánh, toà cũng phải dựa trên một bãi hiệu
hay bãi năng, chứ không được tùy ý tuyên bố.
Điều 1709 là một trong những trường hợp sai lạc của bản dịch Việt ngữ của Bộ Giáo Luật. Cần phải thận trọng để tránh hiểu và áp dụng sai lầm.
7. Chịu chức thánh do mại thánh có vô hiệu không?
Theo nguyên tắc của luật bãi hiệu bãi năng (đ.10), việc mại thánh để được chịu chức thánh vẫn hữu hiệu.
Tuy nhiên, nếu bổ nhiệm một chức vụ như bổ nhiệm cha sở vào một giáo xứ do mại thánh thì bị vô hiệu:
Điều 149. §3. Việc bổ nhiệm vào một giáo vụ do mại thánh, đương nhiên là vô hiệu.
Khi chức vụ cha sở bị vô hiệu, thì những năng quyền gắn liền với chức vụ cha sở cũng bị vô hiệu. Ví dụ, nếu cha sở đó chứng hôn với năng quyền cha sở thì chứng hôn vô hiệu (đ. 1109).