
Sinh
viên Giuse Đỗ Văn Tuấn, O.M.I. hoàn tất tiểu luận này dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Doãn Chính.
Giáo sư hướng dẫn
GS.TS. Doãn
Chính
Bàn về
việc học, Khổng Tử quan niệm rằng: “Ngã
phi sinh nhi tri chi giả”, nghĩa là ta chẳng phải người đẻ ra mà biết được
liền.[1] Không
những thế “Tiên học lễ, hậu học văn” chính
là phương châm giáo dục của Nho giáo từ thời xa xưa. Chúng ta khỏi cần nói đến tầm quan trọng của “Lễ giáo” ở mọi
thời. Trong công cuộc phát triển của thế giới ngày nay, người ta đã coi ‘lễ
giáo gia phong’ là một phần không thể thiếu của sự phát triển của toàn cầu; thậm
chí trong những lãnh vực mũi nhọn nó còn là thước đo những biểu hiện của một xã
hội văn minh và có trật tự. Hay nói cách khác, Nho giáo luôn xây dựng con
người theo ‘lễ’, người được biết như là “bất học lễ vô dĩ lập” (không
học lễ không biết cách đi đứng ở đời hoặc có thể hiểu là không học lễ thì không
biết lập thân.)[2] Có thể nói, lễ giáo là nền tảng cho sự phát triển đi lên của
xã hội loài người. Tuy nhiên không thể khẳng định xuông như vậy, bởi lẽ ngày nay
người ta luôn tự đặt ra những câu hỏi có liên hệ khăng khít với nhau mà liên
quan đến chữ lễ này: chẳng hạn như ‘lễ giáo là gì? Vai trò của lễ giáo như thế
nào? Và tầm ảnh hưởng chữ Lễ của Nho giáo trong giáo dục nhân bản ngày nay ra
sao?... đó mới là những điều chúng ta cần tìm kiếm.
Một trong những mối bận tâm nhất trong cuộc đời của mỗi con
người là “sống để làm gì, và sống như thế nào? Khổng Tử nói: “Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không
biết dùng đức nhân để giữ dân, thì mất dân. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng
nhân nghĩa giữ dân, mà đối đãi với dân không trang nghiêm thì dân không kính.
Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, biết trang nghiêm đối đãi với
dân, mà không biết dùng lễ cổ vũ dân theo thì chưa hoàn toàn tốt.”[3]
Thế nhưng trong thực tế, việc đạo đức – lễ giáo của con người
ngày nay dần đi vào tàn lụi, sự phát triển khoa học ngày càng nhiều, từ đó phát
sinh nhiều yếu tố làm cho đạo đức con người càng suy đồi. Những bất cập này được
nhận thấy rất rõ trong ngành giáo dục cả ở nhà trường đến giáo dục nhân bản. Sự
suy đồi đạo đức đã len lỏi vào tận nơi học đường và nó ngày một lớn dần. Vì thế
trong bài tiểu luận này, tôi muốn đào sâu hơn nữa và tìm ra đâu là ý nghĩa đích
thực của chữ ‘Lễ’ đối với xã hội ngày nay để rồi phần nào giúp con người biết sống
thế nào cho phát huy hết căn tính của chính mình. Hơn nữa, cũng theo Khổng Tử: Quân tử học rộng về thi thư, tự ước thúc
mình bằng lễ (quy tắc, nghi thức, kỷ luật tinh thần) như vậy có thể không trái
với đạo lý. Tức là người quan tử phải vừa học văn hóa, lại phải vừa phải biết lễ.[4] Khổng Tử cho rằng: Người
quân tử muốn học cho rộng, nên về văn chương thời cổ đại (thi thư, lục nghệ)
không cái gì không xét đến, nhưng nếu học rộng về văn chương mà chẳng dùng lễ để chế ước ràng buộc mình thì dễ hư xấu,
lãng mạn; còn biết giữ lễ làm chuẩn mực
để noi theo thì có thể không trái với đạo lý. Vì vậy, Khổng Tử mới nói: học tập
văn hóa truyền thống, thông hiểu lịch sử nước nhà, lại biết giữ mình theo lễ
nghĩa đạo đức thì sẽ không bao giờ xa Kinh phản Đạo.[5] Qua đó, chúng ta thấy được tầm quan trọng của Lễ giáo qua
quan điểm của Nho giáo trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người.
Từ đó, tôi
cũng muốn góp một phần nào nhỏ bé của mình vào việc làm mờ đi những hình ảnh
không đẹp mà người ta đã gán cho công tác giáo dục.
1. Lý do chọn đề tài
“Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân
tử dã; Bất tri lễ, vô dĩ lập dã; Bất tri tín, vô dĩ tri nhân dã.” Câu này có nghĩa là “Không
biết mệnh trời thì không thể làm người quân tử. Không biết lễ thì không thể tự
lập thân. Không biết chữ tín thì không hiểu được người” - 不知命,无以为君子也;不知礼,无以立也;不知信,无以知人也. Đây được xem như là một câu nói thời danh của người sáng lập
ra tư tưởng Nho giáo tên là Khổng Tử. Có thể thấy Nho giáo đã có một tác động
to lớn đến văn hóa Việt Nam bởi nó được truyền bá ở nước ta trong gần 1900 năm,
với hai giai đoạn chiếm địa vị độc tôn là Hậu Lê (1428 - 1527) và Nguyễn Sơ
(1802 - 1883). Một trong những giá trị
còn lại và ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam hiện nay
đó là Lễ và Nghĩa.
Đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân con người mà
còn ảnh hưởng đến cả một thiết chế xã hội Việt Nam – văn hóa và tập tục lễ
nghi. Chúng ta không thể phủ nhận những ảnh hưởng của nó, trong đó có cả tích cực
lẫn tiêu cực. Chẳng hạn về mặt tích cực: Nho giáo đề cao vai trò của gia đình
và các mối tương quan xã hội “tiên học lễ
- hậu học văn”, của chữ hiếu thảo và các chuẩn mực như tôn ti trật tự, của
nhân ái, thủy chung, trọng nghĩa tình... Về mặt tiêu cực, với những lối áp dụng
cổ hủ, kìm nén; phong tục Nho giáo trở thành sợi dây ràng buộc con người làm
cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép
cũ; lễ kìm hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Từ đó, tư tưởng
Nho giáo sẽ mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Vì thế, việc nhận diện
rõ những ảnh hưởng ấy là điều vô cùng quan trọng. Chẳng vậy mà, nhà nghiên cứu
Vũ Khiêu cho rằng: “nếu không đặt vấn đề
nghiên cứu Nho giáo một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ buông trôi cho sự phục
hồi những nhân tố tiêu cực của Nho giáo, đồng thời sẽ lãng phí những nhân tố
tích cực.”
Bên cạnh đó, việc đạo đức – lễ nghĩa của con người ngày nay
như một dần đi xuống, bởi nó đang chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với những tác động tích cực thì
cũng có những yếu tố làm văn hóa lễ nghi biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Sự
phát triển khoa học ngày càng nhiều, từ đó mặt trái của nó lại phát sinh nhiều
yếu tố làm cho đạo đức con người càng suy đồi. Những bất cập này được nhận thấy
rất rõ trong ngành giáo dục. Sự suy đồi đạo đức nơi học đường ngày một lớn dần.
Vấn đề được đặt ra là có hướng đi nào dành cho nghành giáo dục nhân bản để vẫn
gìn giữ những giá trị văn hóa lâu đời và tiếp nhận thêm những giá trị tốt đẹp mới
hay không?
Xuất phát từ những thực tế trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “chữ Lễ theo quan niệm của Khổng Tử và ảnh
hưởng của nó đến giáo dục nhân bản Kitô giáo” làm đề tài triết học để kết
thúc chương trình triết học theo yêu cầu của ban phân khoa triết thuộc Học Viện
Thánh Anphongsô.
2. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu chữ “Lễ” theo quan điểm của
Khổng Tử và ảnh hưởng của nó đến giáo dục nhân bản Kitô
giáo. Đối tượng chính mà tôi muốn nhắm đến là sự thực hiện “lễ” của học sinh,
sinh viên và những người làm công tác giáo dục. Họ là những người làm cho tôi
thao thức. Tương lai của một thế hệ phụ thuộc vào những người trẻ và những người
giáo dục – rèn luyện, nhất là những người làm công tác huấn luyện đạo đức và những
giá trị của nó trong cuộc sống.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian nghiên cứu: trong tiểu luận, tôi chủ yếu tập trung vào nghiên cứu những ảnh
hưởng trong tư tưởng của Khổng Tử về chữ ‘Lễ’ lên giáo dục nhân bản Kitô giáo.
Phạm vi nội dung nghiên cứu: tư tưởng của Khổng Tử về chữ ‘Lễ’có nội dung rất phong phú
nhưng trong tiểu luận này, tôi tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng cửa chữ ‘Lễ’
về lòng hiếu thảo và kính trọng, việc tu thân xử thế và những phép lịch sự căn
bản.
4. Sự đóng góp của đề tài
Đây là một đề tài khá rộng, và đã có rất nhiều người quan tâm
và nghiên cứu một cách sâu sắc về nó, họ đã đem lại những đóng góp to lớn trong
việc tìm hiểu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Trong bài viết này, việc
nghiên cứu đề tài của tôi không gì khác hơn chính là tăng thêm sự hiểu biết về
chữ ‘Lễ’ cho các học sinh, sinh viên
và cho những người đang làm công tác giáo dục. Bài viết có thể góp phần làm tiền
đề cho những ai muốn tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của đức ‘Lễ’ trong quan niệm của Khổng Tử, các mối tương quan giữa ‘Lễ’ và
các nhân đức khác, làm rõ sự ảnh hưởng của nó trong nền giáo dục nhân bản Kitô
giáo. Với những thao thức đó, tôi cố gắng khái quát và mô tả một phần nào đó về
tư tưởng này, đồng thời muốn đưa ra một cái nhìn mới cũng như đề xuất những giải
pháp nhằm đóng góp thêm cho nền giáo dục nhân bản Kitô giáo.
Thế nhưng, với sự hạn hẹp của bản thân, tôi không mong muốn
mình sẽ làm được tất cả các vấn đề trong đề tài này, nhưng ít nhiều tôi cũng hy
vọng, qua đề tài, nhiều người làm công tác giáo dục sẽ để ý hơn về cách truyền
đạt kiến thức, nhận thức và đạo đức cho lớp trẻ ngày hôm nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử và lôgic
- Phương pháp văn bản đọc
Những phương pháp này được sử dụng một cách linh hoạt trong
bài viết này.
5. Bố cục Tiểu luận
Nội dung đề tài gồm ba phần như sau:
DẪN NHẬP
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC ĐÔI NÉT VỀ
TIỂU SỬ VÀ NHỮNG TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA KHỔNG TỬ
Trong chương này, tôi sẽ trình bày sơ lược về Khổng Tử và những
cuốn sách kinh điển của ông.
CHƯƠNG II: CHỮ “LỄ” THEO
QUAN NIỆM CỦA KHỔNG TỬ
Đây là chương trọng tâm của bài luận này. Trong phần này, tôi
sẽ trình bày ý nghĩa chữ ‘Lễ’ theo
quan niệm của Khổng Tử. Ở phần này tôi sẽ nhấn mạnh đến việc tìm hiểu ý nghĩa
sâu xa của chữ ‘Lễ’, đặc tính của chữ ‘Lễ’,
vai trò của chữ ‘Lễ’ và tương quan giữa đức chữ ‘Lễ’ với các nhân đức khác.
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ
“LỄ” TRONG TƯ TƯỞNG CUAT KHỔNG TỬ ĐẾN GIÁO DỤC NHÂN BẢN KITÔ GIÁO
Ở chương này tôi sẽ triển khai những ảnh hưởng chữ “Lễ” của
Khổng Tử trong giáo dục nhân bản Kitô giáo hiện nay. Ở đây, tôi tập trung triển
khai ba điểm chính. Thứ nhất, chữ “Lễ” trong lòng hiếu thảo và kính trọng. Thứ
đến, chữ “Lễ” trong việc tu thân xử thế. Thứ ba, chữ “Lễ” trong phép lịch sự
căn bản.
Phần cuối cùng tôi muốn trình bày đó là những ý kiến cá nhân
sau những gì đã trình bày trên thay cho lời kết. Trong phần này, trước nói lên
quan điểm chung, sau rút ra những bài học và những ưu tư cho việc giáo hóa con
người ngày hôm nay.
KẾT LUẬN
DÀN BÀI CHI TIẾT
DẪN NHẬP
1.
Lý do chọn đề tài
2.
Đối tượng nghiên cứu
3.
Sự đóng góp của đề tài
4.
Phương pháp nghiên cứu
5.
Bố cục Tiểu luận
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC ĐÔI NÉT VỀ
TIỂU SỬ VÀ NHỮNG TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA KHỔNG TỬ
1.
Sơ lược về Khổng Tử
1.1 Tiểu sử của Khổng Tử
1.2 Địa vị của Khổng Tử trong xã hội và tư tưởng văn hóa Trung
Hoa
2.
Những tác phẩm, quan điểm và
tư tưởng chính của Khổng Tử
2.1 Tác phẩm của Khổng Tử
2.2 Tư tưởng của Khổng Tử
CHƯƠNG II: CHỮ “LỄ” THEO
QUAN NIỆM CỦA KHỔNG TỬ
1.
Khái quát chữ Lễ
2.
Chữ Lễ trong Nho giáo
2.1 Quá trình hình thành chữ Lễ
2.2 Ý nghĩa của chữ Lễ trong quan niệm Nho giáo
2.3 Nội dung chữ “Lễ” trong tư tưởng triết học của Khổng Tử
3.
Tóm kết Chữ “Lễ” theo quan
điểm của Khổng Tử
4. Mối tương quan của chữ “Lễ”
với các nhân đức khác
4.1 Tương quan chữ Lễ với chữ Nhân.
4.2 Tương quan chữ Lễ với chữ Nghĩa
4.3 Tương quan chữ Lễ với chữ Trí
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ
“LỄ” TRONG TƯ TƯỞNG CUAT KHỔNG TỬ ĐẾN GIÁO DỤC NHÂN BẢN KITÔ GIÁO
1.
Nho giáo tại Việt Nam
1.1 Sơ lược về sự phát triển Nho giáo tại Việt Nam
1.2 Tư tưởng Tống Nho tại Việt Nam
1.3 Lời răn dạy của thánh hiền
2.
Một số
tư tưởng triết học của Nho giáo ảnh hưởng trong đời sống văn hóa, tinh thần
của người Việt Nam
2.1 Quan điểm của Khổng Tử về Thiên mệnh
2.2 Quan niệm của Khổng Tử về luân lý đạo đức
2.3 Quan điểm về chính trị xã hội
3.
Nhân bản Kitô giáo và chữ “Lễ”
của Khổng Tử trong giáo dục nhân bản Kitô giáo
3.1 Khái niệm Nhân Bản – Nhân Cách
3.2 Vai trò của giáo dục nhân bản
3.3 Nhân bản dưới các góc nhìn
4.
Nội dung giáo dục chữ “Lễ”
trong nhân bản Kitô giáo
4.1 Chữ “Lễ” trong lòng hiếu thảo và kính trọng
4.2 Chữ “Lễ” trong việc tu thân - xử thế
4.3 Chữ “Lễ” trong phép lịch sự căn bản
5.
Bài học về chữ “Lễ”
4.1 Bài học cho xã hội
4.2 Bài học cho bản thân
4.3 Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành
trong nhân bản?
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
Sách
Trần Trọng Kim, Nho
Giáo, quyển thượng, thiên III.
Nguyễn Hiến Lê, Luận
Ngữ, Nghiêu Viết, thiên XX.
Nguyễn Hiến Lê, Luận Ngữ,
Hiến Vấn, thiên XVI.
Nguyễn Hiến Lê, Luận Ngữ
Và Khổng Tử, Nxb: Văn Học, 2003.
Phùng Hữu Lan, Lịch Sử
Triết Học Trung Quốc, tập 1: Thời Đại Tử Học.
Phùng Hữu Lan, dịch giả: Nguyễn Văn Dương, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Hà Nội,
NXB Khoa Học Xã Hội, 1999.
Lý Minh Tuấn, Đông
Phương Triết Học Cương Yếu.
Doãn Chính, Lịch Sử Triết
Học Trung Quốc.
Phùng Hữu Lan, Lịch Sử
Triết Học Trung Quốc, tập 1: Thời Đại Tử Học, Hà Nội, NXB Khoa Học Xã Hội,
2006
Lê Phục Thiên, Luận Ngữ,
Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Học, 1995.
Doãn Chỉnh (chủ Biên), Lịch
Sử Triết Học Phương Đông, Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia – sự thật, 2012.
Lm. GB Trần Thái Huân, Giáo
dục Nhân bản Kitô giáo, NXB Tôn giáo 2011.
Lm. FX Nguyễn Hữu Tấn, Giáo
dục Nhân Bản, NXB Tôn giáo.
Lm. Vincent Nguyễn Cao Dũng, Nhân bản Kitô giáo, NXB Tôn giáo.
Trần Ngọc Thêm, Cở sở
Văn háo Việt Nam NXB TPHCM: Giáo Dục 2000
Lê Văn Chưởng, Cơ sở
văn hoá Việt Nam (TPHCM: Trẻ, 1999)
Hạng Cửu Vũ, Chiêm Dật Thiên, Sách Tham Khảo – Lễ, NXB Chính Trị Quốc Gia
Nhữ Nguyên, Lễ ký , NXB Đồng Nai 1996
Chu Hy Tạp Chú, Luận ngữ,
Lê Phục Thiện dịch, NXB Văn Học.
Trần Trọng Kim, Đại cương triết học Trung Quốc – Nho gia,
NXB Văn Hóa Thông Tin
Lê Văn Chưởng, Cơ sở
văn hoá Việt Nam (TPHCM: Trẻ, 1999)
Sào Nam Phan Bội Châu, Khổng
Học Đăng, NXB Dân Trí.
Nguyễn Hiến Lê, Luận Ngữ
Và Khổng Tử, Nxb: Văn Học, 2003.
Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử,
NXB Văn Hóa Thông Tin.
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Chân
dung Khổng Tử, NXB Hồng Đức.
Mạnh Tường (Hoàng Phê), Từ
Điển Tiếng Việt
Trần Văn Chánh, Từ Điển
Tiếng Hán Việt ngữ cổ và hiện đại
Nhóm phiên dịch các giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh ấn bản 2011, NXB Tôn giáo.
Vinh Sơn Nguyễn SCJ, Bản
Lề - Giáo Dục Nhân Bản, NXB ĐH Quôc Gia TP HCM.
Vinh Sơn Nguyễn SCJ, Lễ
- Giáo Dục Nhân Bản, NXB ĐH Quôc Gia TP HCM.
Vinh Sơn Nguyễn SCJ, Nhân
- Giáo Dục Nhân Bản, NXB ĐH Quôc Gia TP HCM.
Vinh Sơn Nguyễn SCJ, Nghĩa
- Giáo Dục Nhân Bản, NXB ĐH Quôc Gia TP HCM.
Vinh Sơn Nguyễn SCJ, Trí
- Giáo Dục Nhân Bản, NXB ĐH Quôc Gia TP HCM.
Tài liệu điện tử
Nguyễn Thị Thanh Mai, “Tư
tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay”. Ngày đăng
21-02-2013. http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/342-Tu-tuong-dao-duc-Nho-giao-va-anh-huong-cua-no-o-nuoc-ta-hien-nay/.
Nguyễn Thị Thanh Mai, “Tư
tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay”. Ngày đăng
21-02-2013. http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/342-Tu-tuong-dao-duc-Nho-giao-va-anh-huong-cua-no-o-nuoc-ta-hien-nay/.
Vũ Thiên, Thơ về lòng
hiếu thảo, cập nhật ngày 14.1.18,
https://vfo.vn/r/nhung-bai-tho-hay-ve-long-hieu-thao-biet-on-thay-co-cha-me.121575/.
Từ Điển Hán Nôm, “Nhi”,
mục số 8, https://hvdic.thivien.net/whv/%E8%80%8C. Truy cập ngày10/02/
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Trung
dung bình dịch – quyển II, https://nhantu.net/TonGiao/TrungDungTanKhao/TD202.htm
JM Lam
Thy Đinh Văn Diệm, Nhân bản Kito giáo,
cập nhật 4/2008, https://giaophanvinhlong.net/Nhan-Ban-Kito-Giao.html.
Huỳnh
Minh Đức, ý nghĩa câu “tiên học lễ - hậu học văn” trong đời thường và
trong y học, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập
40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN), truy cập ngày 30.4.2015, http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5396%3Ay-ngha-cau-tien-hc-l-hu-hc-vn-trong-i-thng-va-trong-y-hc&Itemid=153&lang=vi
Giáo phận Vĩnh Long, Lòng
hiếu thảo, https://giaophanvinhlong.net/Long-Hieu-Thao.html.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J, Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta,
http://www.donggioanthienchua.net/ai-muon-theo-ta-hay-bo-minh-vac-thap-gia-minh-hang-ngay-ma-theo-ta.html
Tổng giáo phận TP.HCM, Tông
thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người Thánh hiến nhân dịp cử hành
Năm của Đời sống Thánh hiến – ĐGH Phanxicô, truy cập ngày 1.12.2014, http://tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20141201/28604
Công Thượng, Tập san
chia sẻ số 62 – người tu sĩ trưởng thành nhân bản thế nào?, http://www.providenceportieux.com/bai-i-via-i-t/s-u-ta-i-m/i-i-tu/423-ngu-i-tu-si-tr-tru-ng-thanh-nhan-b-n-nhu-th-nao.html
[1] x. Sào Nam Phan Bội Châu, Khổng học đăng (Sài Gòn: NXB. Dân trí, 21.
[2] x. Nguyễn Hiến Lê, Luận ngữ, Quý Thị – Thiên XVI (Hà Nội: NXB. Văn học), 482.
[3] x. Nguyễn Hiến Lê, Luận ngữ và Khổng Tử (Hà Nội: NXB. Văn học), 470.
[4] x. Nguyễn Hiến Lê, Luận ngữ và Khổng Tử, 343.
[5] x. Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện, Lưu Phong (chú dịch), Tứ thư, Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận dịch (Hà Nội: NXB. Quân đội nhân dân, 2003), 227-228.