TÔN GIÁO TỪ NHÃN QUAN XÃ HỘI HỌC (I):
Auguste Comte và Karl Marx
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Dưới nhãn quan xã hội học, chúng ta sẽ sơ lược qua
năm học thuyết giải thích tôn giáo như chức năng xã hội, đóng góp một khía cạnh
nào đó trong sự cấu kết của đời sống tập thể. Bài này sẽ tìm hiểu hai quan điểm
xem tôn giáo là ảo tưởng của Auguste Comte và Karl Marx. Bài kế tiếp sẽ lược
qua ba tác giả xem tôn giáo là thực lực xã hội của Durkheim, Weber và Berger. Đối
với Comte, tôn giáo là ảo tưởng thiết yếu và cung cấp một sức mạnh thiêng liêng
để xã hội hoạt động; vì thế, nếu muốn tránh khủng hoảng thì cần phải thiết lập
một tôn giáo tôn thờ Đấng Siêu Việt, thích ứng với xã hội tân thời. Trái lại, Marx
lên án tôn giáo là một ảo tưởng tiêu cực và cản trở sự tiến bộ của xã hội, được
dùng như một công cụ để biện minh cho cơ chế thống trị và bóc lột giới lao động.
Một khi cơ cấu đó bị sụp đổ thì tôn giáo sẽ tự đào thải, và không cần phải tốn
công sức tiêu diệt nó.
AUGUSTE COMTE:
TÔN GIÁO LÀ ẢO TƯỞNG CẦN THIẾT

Auguste
Comte (1798–1857) là người đầu tiên nâng tôn giáo học lên mức độ nghiên cứu hàn
lâm. Ông là một trong những người sáng tạo ngành xã hội học và để lại nhiều ảnh
hưởng lên các học giả hậu thời. Tuy đồng
ý với Hume và truyền thống Anh Quốc - vốn cho rằng tôn giáo là một loại khoa học
“dởm,” Comte vẫn không hoàn toàn loại trừ niềm tin tôn giáo qua nhãn quan khoa
học thực chứng. Trái lại, Comte nghiên cứu khía cạnh xã hội của tôn giáo và nhận
ra tôn giáo có chức năng củng cố sự gắn bó trong xã hội qua cách nó lôi cuốn các
cá nhân lại với nhau bằng nghi thức. Comte lo lắng rằng một khi khoa học càng
tiến bộ thì khả năng hữu dụng của tôn giáo sẽ bị phai mờ, và từ từ chức năng đặc
thù này sẽ bị đánh mất. Như thế, Comte không chỉ mô tả về tôn giáo mà còn đã phác
họa ra một loại tôn giáo phù hợp hơn cho não trạng khoa học tân thời.
Trường phái thực chứng trong bối cảnh
xã hội Pháp
Comte
sinh ra dưới thời cách mạng công nghệ và khủng hoảng tôn giáo ở Âu châu. Học
thuyết duy nghiệm của Hume thống trị lối suy tư của giới tri thức, trong khi niềm
tin tôn giáo thì càng ngày càng suy tàn. Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật
làm xói mòn giá trị của những lý giải mang tính siêu hình. Cách mạng Pháp hạ bệ
sự thống trị của Giáo Hội và nhượng bộ cho những làn sóng lý luận chính trị mới
mang tính thế tục và cách mạng triệt để.
Tuy
lớn lên trong một gia đình Công giáo, nhưng ở tuổi dậy thì Comte đã từ bỏ niềm
tin vào Giáo Hội. Trong khi đi học, ông theo đuổi các phong trào cách mạng ý thức
hệ thời đó, có tên là “Ideologues.” Comte chính thức kết hôn với một cô gái
hành nghề “ăn sương.” Cùng với người phụ nữ này, Comte đã trải nghiệm những cuộc
hoang tưởng và rối loạn tâm thần. Ông đã dùng những cuộc trải nghiệm này như
nguồn tri liệu để phân tích các nghiên cứu về tôn giáo của ông. Cuối cùng, ông
đâm lòng thù ghét người phụ nữ này; và khoảng năm 1845, cô ta đã rời bỏ ông.
Sau đó, Comte theo đuổi Nữ bá tước Clotilde de Vaux, nhưng duyên không thành.
Clotilde mất sau đó một năm vì ăn chơi quá độ. Quá đau buồn vì sự cố này, Comte
rơi vào vực sâu khủng hoảng, không còn khả năng sáng tác nữa vì mất trí, và qua
đời vào năm 1857.
Siêu
hình học nghiên cứu về hữu thể và bản chất của mọi tồn tại, dùng phương pháp lý
luận biện chứng và tam đoạn luận để đạt đến các định đề về thực tại vô hình đứng
sau những gì có thể quan sát được. Trái lại, theo Comte, chủ thuyết thực chứng
chỉ nhắm vào thực tại có thể cảm nghiệm, quan sát và mô tả mà không cần phải thẩm
định về sự tồn tại của chúng. Chủ thuyết thực chứng xuất phát từ thuyết duy
nghiệm, phù hợp với sự trưởng thành của khoa học và tinh thần bài-giáo sĩ trị của
hậu cách mạng Pháp. Comte cho rằng
xã hội học là khoa học thực chứng về con người. Con người hành xử qua nhiều
cách thức có thể quan sát và mô tả, đồng thời tuân thủ theo một số quy ước xã hội
vốn có thể lý giải được. Comte khẳng định rằng xã hội chính là chủ thể tác động
trên sân khấu lịch sử, và ý nghĩa của sự tác động này không thể được giải thích
hoàn toàn qua hành vi hay động lực cá nhân riêng rẽ. Đây là môn khoa học quan
trọng bậc nhất; vì chỉ từ đó, kỹ thuật điều hành và thăng tiến xã hội mới có thể
được nghiên cứu. Quan điểm này mang tính cấp tiến vì nó cho rằng nhân loại luôn
luôn tìm cách thăng tiến chính mình qua các nỗ lực xã hội.
Comte
áp dụng quan điểm cấp tiến để giải thích ba giai đoạn phát triển của lịch sử
tôn giáo. Trước tiên, ở giai đoạn “tôn giáo” (thần học), mọi hiện tượng tự
nhiên đều được cho là hành vi của các bậc siêu nhiên. Các vị này được thể hiện
qua linh vật, thần thánh, cả đa thần lẫn độc thần. Giai đoạn “siêu hình” (triết
học) là thời gian chuyển tiếp khi thần thánh được thay thế bằng các nguyên tắc
siêu hình trừu tượng. Cuối cùng, giai đoạn “thực chứng” (khoa học) thay thế sự
tưởng tượng và tư biện trừu tượng bằng phương pháp quan sát, suy luận và quy nạp.
Comte thiết lập tôn giáo thờ Đấng Vĩ
Đại (Great Being)
Theo Comte, các thực hành tôn giáo cổ điển trước sau cũng
bị suy tàn vì sự tiến bộ của lịch sử xã hội. Thế nhưng, Comte cho rằng tôn giáo
rất quan trọng cho tiến trình này, vì sự tiến triển trong cách con người tiếp cận
tôn giáo đánh dấu giai đoạn thăng tiến trong lịch sử tri thức nhân loại. Tôn
giáo đã cung cấp những lễ nghi và phương thức gắn bó xã hội lại với nhau. Một
khi tôn giáo bị suy nhược và không còn hữu hiệu để giải thích các hiện tượng tự
nhiên, thì chức năng cấu kết xã hội của nó cũng yếu dần đi. Điều này được nhận
thấy khi khủng hoảng tôn giáo đưa đến khủng hoảng xã hội ở Âu Châu, vì quyền lực
trong tôn giáo bị suy sụp và mất hiệu lực kết hiệp của nó. Như thế, xã hội hiện
đại cần tái thiết một cơ cấu mới có chức năng tương tự như tôn giáo. Cơ cấu mới
này phải có sức lôi cuốn, quy tụ và thôi thúc năng lực tập thể, qua nghi thức
và luật lệ thiết yếu để tạo nền tảng mới cho xã hội.
Xã
hội cần một “sức mạnh thiêng liêng” để hoạt động. Nghi thức là phương tiện để
tháp nhập cá nhân lại thành một cơ cấu xã hội. Thế nhưng, xã hội ấy cần sự đồng
thuận về mặt luân lý để thúc đẩy mọi phần tử cùng thi hành trách nhiệm của mình,
và giúp cho xã hội hoạt động như một đơn vị thống nhất. Tôn giáo cổ xưa đã phục
vụ các chức năng này, nhưng với sự ra đời của khoa học tân thời thì khả năng
này bị đánh mất. Khoa học thực chứng cũng không thể hoàn thành chức năng này,
vì nó thiếu cảm thức và động lực tự nhiên của tôn giáo.
Comte
đề nghị một tôn giáo thờ “Đấng Vĩ Đại” cho thời đại khoa học thực chứng. Thay
vì nhân cách hóa các năng lực tự nhiên, tôn giáo mới này sẽ hướng tính sùng mộ
của con người đến cùng đích chân thực của nó. Chân lý của tôn giáo này giải
thích rằng, nhân loại chính là ông chủ chân thực của vận mệnh con người, đồng
thời cũng là động lực thôi thúc mọi người cùng hợp tác với nhau trong cùng mục
đích tốt lành cho nhân loại. Đây phải là một tôn giáo hiện thực với giáo đường,
nghi lễ, hàng giáo sĩ và hệ thống tổ chức, để nhắc nhớ những gương sáng anh
hùng của nhân loại trong quá khứ. Comte tự gọi mình là “Thượng Tế” và giải tội
cho các tín đồ. Ngày nay, tôn giáo thờ “Đấng Vĩ Đại” vẫn còn một chi nhánh ở
Brazil.
Nhiều
học giả sau đó tiếp nhận và đề cao phương pháp phân tích lịch sử tôn giáo của
Comte, chẳng hạn như: Freud, Marx, đặc biệt là Durkheim. Comte không chỉ nhìn lịch
sử nhân loại tiến triển bằng các bước nhảy riêng biệt từ giai đoạn này qua giai
đoạn khác; nhưng ông còn tin rằng, mỗi giai đoạn của tiến trình phát triển vẫn
còn tản mạn trong tâm khảm con người, và nhiều khi chúng ta có thể đang lội ngược
dòng của sự phát triển đó nữa. Về sau, Durkheim chứng tỏ cho thấy không cần phải
thiết lập một tôn giáo tôn thờ “Đấng Vĩ Đại,” vì tôn giáo đó đang hiện diện
trong nhân loại ở mức độ vô thức bấy lâu nay.
KARL MARX:
TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN
VÀ CÔNG CỤ THỐNG
TRỊ

Không
có học thuyết xã hội nào có thái độ thù nghịch một cách mãnh liệt đối với tôn
giáo như học thuyết của Karl Marx (1818–1883). Điểm đặc thù trong tư tưởng của
Marx là sự ưu tiên của thực tại vật chất trên thực tại tâm linh hay tri thức.
Điều này có nghĩa là: Trong thế giới con người, nhu cầu ăn uống, áo quần và nơi
ở thì cần thiết hơn và phải được thỏa mãn trước tiên so với những theo đuổi
khác như nghệ thuật, chính trị và tôn giáo. Khi phân tích lịch sử tranh chấp giữa
giai cấp giàu và nghèo, chủ và thợ, Marx đi đến kết luận rằng tôn giáo chính là
công cụ được dùng để đàn áp và thống trị giới lao động. Marx kêu gọi một cuộc
cách mạng, không tấn công vào tôn giáo mà vào thể chế chính trị với động lực
kinh tế, vốn bảo trì tôn giáo như một điều kiện thiết yếu. Một số học giả Marxít
sau này không còn tiếp cận tôn giáo theo cách thù nghịch nhưng chỉ ra cách niềm
tin tôn giáo có khả năng trở thành động lực kinh tế và giải phóng giới lao động
khỏi trạng thái bị lạm dụng.
“Tôn giáo là thuốc phiện của quần
chúng”
Câu
nói trên đây xuất phát từ bài luận văn Phê bình Triết Học Pháp Quyền của
Hegel (Zur Kritik der Hegelschen Rechtsphilosophie,1843). Nguyên văn của nó
như sau: “Tôn giáo là tiếng than của quần
chúng đang bị thống trị, là trái tim của một thế giới vô tâm, và là thần khí của
một bối cảnh vô hồn. Nó chính là liều thuốc phiện của quần chúng.” Câu nói
này nói lên thái độ tiêu cực và thù nghịch của Marx đối với tôn giáo. Marx chưa
bao giờ đề nghị một học thuyết đầy đủ về tôn giáo, bởi vì ông ta không nghĩ tôn
giáo đáng là một chủ đề của suy tư triết học. Đối với Marx, tôn giáo tồn tại
trên nền tảng của cái không phải là nó. Một khi nền tảng bên dưới này bị phá đổ,
thì tôn giáo tự nó cũng bị tiêu tan mà không cần một nỗ lực gì từ bên ngoài.
Lúc
khởi đầu nghiên cứu, Marx theo đuổi triết lý của Hegel, nhưng sau đó chống lại
chủ thuyết duy tâm tuyệt đối này. Triết học duy tâm khẳng định rằng, ý tưởng
thì căn bản hơn là thực tại vật chất. Vật chất chưa thành hình cho đến khi được
thêm vào các yếu tố khác như: tinh thần, tư tưởng hay ý niệm. Hegel tin rằng thực
tại vật chất của lịch sử loài người chỉ là biểu hiện bên ngoài của Tinh Thần
phi-vật chất của thế giới. Là một triết gia duy vật, Marx khẳng định chỉ có vật
chất và năng lực thể lý mới có thực, còn tư tưởng hay tinh thần chỉ là biểu hiện
của thực tại vật chất. Một nhà duy tâm có thể nói: Tư tưởng xuất phát từ não
con người, nhưng không tạo nên bởi cơ cấu vật chất của não. Một nhà duy vật sẽ
cho rằng, các ý tưởng không là gì ngoài những tia điện xảy ra bên trong não.
Nhà duy tâm sẽ lý luận rằng, thần khí và tư tưởng của Thượng Đế đem thực tại
vào hiện hữu; trong khi đó, nhà duy vật sẽ chối bỏ mọi phạm vi tinh thần bên
ngoài của thế giới vật chất, và lý giải Thượng Đế như là một khái niệm xảy ra
bên trong cấu trúc thể lý của não.
Qua
lý luận biện chứng, Marx đảo ngược lôgic “ý niệm có trước thực tại vật chất” của
Hegel. Marx giải thích rằng, nếu một não bộ không được trang bị đầy đủ, thì
cũng sẽ không có bất kỳ một ý tưởng nào cả. Từ nhãn quan duy vật này, Marx tìm đến
những yếu tố vật chất, vốn là cơ sở hạ tầng cho điều kiện kinh tế và xã hội của
giới lao động trong giai đoạn cách mạng công nghệ ở Âu Châu vào cuối thế kỷ XIX.
Tiến trình phân phối sản phẩm vật chất
Từ
viễn tượng duy vật, Marx phân tích chức năng xã hội của giai cấp lao động hạ tầng
và giai cấp trưởng giả thượng tầng. Ở hạ tầng, chức năng xã hội hướng về thực
phẩm, áo quần, nơi ăn và chốn ở. Những sự vật này được đánh giá là quan trọng
nhất bởi vì xã hội không thể hoạt động nếu thiếu chúng. Triết lý của Marx chống
lại ý tưởng cho rằng sự sống tinh thần mới là cần thiết và nhu cầu thể lý thì chỉ
có giá trị hạ cấp vì thuộc về loài vật. Marx xem những chức năng xã hội của
giai cấp trưởng giả là thiếu thực tại độc lập, không thiết yếu cho đời sống, và
chỉ được thêm vào sau khi những nhu cầu hạ tầng đã được đáp ứng đầy đủ.
Marx
rất cay cú về chức năng xã hội của giai cấp trưởng giả. Ông nhìn lịch sử nhân
loại như một quá trình tranh đấu giai cấp liên tục giữa giới lao động và giới
chủ nhân. Giới chủ nhân thao túng và biến các yếu tố cơ cấu xã hội của giai cấp
trưởng giả thành ý thức hệ để đàn áp giới lao động. Tôn giáo cũng là một bộ phận
trong guồng máy ý thức hệ này. Chức năng của tôn giáo là biện minh cho sự kiện
giá trị sản xuất của giới lao động (giá trị thặng dư của sản phẩm) đang bị đánh
cướp bằng những lời hứa hẹn bù đắp về ơn cứu rỗi tương lai. Tôn giáo giúp cho
giới lao động trở nên ngoan ngoãn và dễ thống trị hơn. Như thế, tôn giáo là công
cụ để củng cố trật tự chính trị và cơ cấu giai cấp trong xã hội.
Quan
điểm duy vật của Marx sẽ không bao giờ chấp nhận các chân lý tôn giáo. “Thượng Đế”
chỉ là sự phóng đại của các phẩm tính lý tưởng mà con người khao khát có được
như khôn ngoan, công bằng, bác ái, v.v. Như thế, tôn giáo căn bản chỉ là sự nhận
thức sai lầm hay hoang tưởng về thực tại không có trong hiện tại. Nhưng Marx cảm
thấy không cần phải tấn công tôn giáo một cách trực tiếp, vì nó chỉ là một hiện
tượng “trưởng giả,” thuộc cơ cấu thượng tầng, mà sự tồn tại của nó dựa trên nền
tảng vật chất nào đó. Một khi nền tảng đó được thay đổi, giới công nhân được giải
phóng, thì tôn giáo tự nó sẽ bị đào thải mà không cần phải tốn năng lực để loại
trừ nó.
Đánh giá quan điểm tôn giáo của Marx
Phê
bình tôn giáo của Marx có vấn đề cả khía cạnh lý thuyết lẫn lịch sử. Friedrich
Engels (The Condition of the Working Class in England, 1845) nhận ra nơi
sách Tông Đồ Công Vụ một mô hình tích cực cho cải tiến xã hội, khi mọi phần tử
trong cộng đoàn cùng sống và chia sẻ của cải riêng với nhau. Như thế, tôn giáo
đại diện cho giai đoạn chuyển tiếp trong hành trình tiến về Thiên Đàng của giới
lao động. Mặt khác, một khi mọi tôn giáo bị đàn áp thì chúng ta sẽ vô tình tạo
ra tôn giáo mới. Khi Marx chối bỏ giá trị cánh chung của Kitô giáo, thì chính
ông cũng phải nhận ra lịch sử đang hướng về một viễn tượng cánh chung khác,
trong đó giới lao động sẽ bị thống trị bởi bàn tay độc tài của những nhà lãnh đạo
cách mạng. Marx chưa bao giờ dám nhìn nhận thực tại của sức mạnh cánh chung, vốn
sẽ đưa đẩy lịch sử đến cùng đích tiêu cực này.
Theo Antonio Gramsci (Prison Notebooks, 1926), Marx cho ta ý thức về chiều kích ngôn sứ của tôn giáo trong sự thành hình của lý tưởng xã hội. Gramsci nhận thấy động lực thôi thúc các cuộc nổi dậy tranh đấu cho quyền lợi của giới bần cố nông thì cũng giống như tiếng nói ngôn sứ trong Kinh Thánh. Như thế, tôn giáo vừa là liều thuốc phiện ru ngủ, vửa là liều thuốc kích động quần chúng. Hơn nữa, James Boon (Affinities and Extremes, 1990) cho thấy sai lầm của Marx khi xem tôn giáo chỉ là nhu cầu thượng tầng, có tinh thần mà thiếu nền tảng vật chất. Trái lại, nền tảng đích thực của tôn giáo thì luôn gắn liền với sự kiện vật chất như nghi thức tôn giáo, hoặc kết nối với hoàn cảnh kinh tế cụ thể, tình trạng sức khỏe, công ăn việc làm của dân chúng tại các địa phương.
Cuối cùng, Rodney Stark (A Theory of Religion, 1987) chỉ ra rằng các thực hành tôn giáo hay nghi thức thờ phượng không nhất thiết phải là “thuốc phiện” của quần chúng lao động hay giới nô lệ, mà còn là sản phẩm của giới trung lưu và thượng lưu của xã hội Rôma. Động lực kinh tế cũng là liều “thuốc phiện” của giới lãnh đạo Marxít vì mỗi khi cách mạng thành công thì chế độ tư bản sẽ được thay thế bằng chế độ “tư bản đỏ.” Sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu cho thấy cho dù tôn giáo bị giản lược thành chức năng kinh tế, thì tôn giáo vẫn tồn tại trong mọi chế độ kinh tế và chính trị. Thành công trái chiều của Marx là đã vô tình gây ý thức về sức mạnh kinh tế của tôn giáo, vốn đang âm thầm hiện diện và hoạt động trong mọi tầng lớp hay cơ cấu xã hội.
(còn tiếp)
Tài liệu tham khảo
The
Positive Philosophy of Auguste Comte do Harriet Martineau dịch
và tóm tắc từ tác phẩm gốc của Auguste Comte: Cours de philosophie positive
(1830–42). Cambridge University Press 2009.
Karl Marx, Critique of Hegel’s Philosophy of Right (Zur Kritik der Hegelschen Rechtsphilosophie: 1843). Bản dịch và giới thiệu của O’Malley, Cambridge University Press, 1970.