Đạo
đức học Nhân đức của Aristote
(Ethics
of virtues)
Joseph
Tân Nguyễn, OFM
Tại
một bệnh viện kia, có một bệnh nhân bị tổn thương não, rơi vào trạng thái hôn
mê, và phải dùng máy trợ thở oxy. Sau một thời gian dài thất vọng vì không hồi
phục, cha mẹ ra tòa xin được rút ống oxy để con mình được ra đi bình an. Một
soeur y tá biết ý định của cha mẹ, bèn tự mình thử rút ống thở ra nhiều lần, và
tập cho bệnh nhân tự thở. Đến ngày tòa án quyết định rút ống oxy, thì bệnh nhân
không chết mà tự thở được. Soeur y tá đã liều lĩnh giúp một bệnh nhân mà sự sống
sắp bị chấm dứt, cho dù phải làm một việc trái với pháp luật. Ý định tốt lành của
Soeur có thể biện minh cho sự nguy hiểm đối với bệnh nhân hay việc làm trái luật
pháp không? Soeur y tá đã hành động dựa trên nhân đức gì? Đạo đức học nhân đức
sẽ nói gì đây?
I.
ĐẠO ĐỨC HỌC NHÂN ĐỨC LÀ GÌ?
Ba
đạo đức học mà chúng ta đã lược qua trước đây, vị lợi, luật tự nhiên và bổn phận,
đều phán đoán dựa trên hiệu quả, hình thức hay ý định đứng sau một hành vi. Đạo
đức học vị lợi tìm cách gia tăng lợi ích nhiều nhất cho nhiều người nhất khi chọn
lựa hành vi nào nên theo đuổi. Đạo đức học luật tự nhiên đòi hỏi mọi hành vi phải
phù hợp với những hình thức luân lý vốn dựa trên các khuynh hướng tự nhiên của
con người. Đạo đức học bổn phận tìm kiếm sự thiện hảo phổ quát của hành vi căn
cứ trên bổn phận phải luôn đối xử với tha nhân trong sự công bằng và tôn trọng tự
do như là một chủ thể luân lý. Nhưng Đạo đức học nhân đức nhìn sự thiện qua
nhãn quan rèn luyện tư cách của con người. Phương pháp này bỏ qua tính luân lý
phổ quát hay tính hiệu quả của hành vi. Hơn nữa, luật tự nhiên hay chủ nghĩa vị
lợi không phải lúc nào cũng mang lại công bằng cho một tình huống, và tính phổ
quát và lý tưởng của bổn phận còn nhiều vấn đề trong áp dụng cụ thể. Cả cuộc đời,
có thể bạn đã làm nhiều việc thiện nhưng không đương nhiên biến bạn thành một
người đức hạnh, và hậu quả tốt cũng không khiến bạn trở nên một người tốt. Do
đó, đạo đức học nhân đức tiếp cận vấn đề đạo đức từ quan điểm của cá tính của
con người. Nếu bạn có những cá tính tốt, bạn sẽ chọn những hành động tốt vào
đúng thời gian thuận lợi. Nhân đức là những nét cá tính đáng được ca tụng và ao
ước, làm cho con người trở nên thiện hảo.
Liệu
nhân đức có phải là bản năng tự nhiên là vấn đề được tranh luận xuyên suốt lịch
sử triết đạo đức, nhưng chúng ta phải công nhận nhân đức có thể tập luyện được,
qua một tiến trình lâu dài có thể trở thành cá tính “thứ hai” mà chúng ta ao ước
có được. Trong thời Cổ Đại, truyện thần thoại Hy lạp thường dùng hình ảnh người
kỵ mã điều khiển hai con chiến mã “lý trí” và “dục vọng” để minh họa cho việc tập
luyện nhân đức. Platô xem các nhân đức như là sự thiện tồn tại trong mối tương
quan hoà hợp giữa ba phần của hồn: Lý trí, Tinh thần và Dục Vọng. Muốn đạt đến
sự thiện, con người cần tập thói quen dùng lý trí điều khiển tinh thần và dục vọng.
Aristote cho rằng hoạt động tuân theo nhân đức của lý trí là thể hiện sự sung
mãn hay sức mạnh của nhân tính, vốn đạt được từ thói quen xử sự khôn khéo trong
cách phán đoán, chọn sự trung dung giữa hai thái cực bất cập và thái quá.
Thời
Trung Cổ, với sự hỗ trợ của đức tin Kitô giáo, người ta nhận ra lý
trí con người bị băng hoại bởi tội lỗi, do đó phán đoán đạo đức mà chỉ dựa trên
lý trí có thể đưa đến sự tự mãn, kiêu hãnh (khoái lạc, khắc kỷ, hoài nghi) hoặc
rơi vào não trạng bi quan và tiền định. Thiên Chúa là sự thiện Tuyệt Đối và là
Đấng ban Lề Luật cho con người, cho nên nhân đức thì đồng nghĩa với việc vâng
phục Luật Thiên Chúa. Ngoài các nhân đức luân lý (khôn ngoan, tiết độ, can đảm,
công bằng) thì còn có các nhân đức đối thần (tin, cậy, mến). Từ nhu cầu tìm sự
hài hòa giữa lý trí và đức tin, tự do chọn lựa và ân sủng hỗ trợ, thần học Kitô
giáo đã khai triển đạo đức học Luật Tự Nhiên dựa trên những khuynh hướng tự
nhiên, tìm kiếm hạnh phúc của con người và luật vĩnh cửu được Thiên Chúa được mạc
khải qua thiên nhiên.
Đạo
đức học thời cận đại và hiện đại hướng về trách nhiệm và bổn phận trong cách
con người cư xử với nhau và tìm những nền tảng luân lý phổ quát bên ngoài lãnh
vực tôn giáo để phán đoán các hành vi nhân bản. Hai nền tảng phán đoán được
dùng: phán đoán dựa trên mô hình tốt/xấu và phán đoán dựa trên mô hình đúng/sai.
Từ đó hai truyền thống lớn được thành hình là đạo đức học vị lợi
(utilitarianism) và đạo đức học bổn phận (deontology) phán đoán quy tắc luân lý
giả định bởi một hành vi theo tiêu chuẩn tự do và bình đẳng. Ngược lại, đạo đức
học nhân đức thì không cung cấp qui luật để phán đoán hành vi mà chỉ nhắm vào
cá tính hay nhân cách của chủ thể. Thay vì hỏi, “tôi nên làm gì?,” thì đạo đức
học nhân đức sẽ hỏi, “Tôi nên trở thành loại người như thế nào?” Câu trả lời của
Aristote sẽ là “tôi nên trở thành một người có nhân đức,” vì nếu nhân đức trở
thành cá tính của bạn, thì trong mọi hoàn cảnh bạn sẽ chọn làm điều tốt lành.
Điều
này có nghĩa là việc tính toán hậu quả tốt của một hành vi thì không quan trọng
cho bằng việc bồi đắp tư cách của con người. Một người đã thể hiện các cá tính
đức hạnh suốt cuộc đời mình thì sẽ chọn điều đúng và tốt trong hoàn cảnh nào họ
sẽ gặp phải. Muốn biết điều gì đúng nên làm trong một tình huống thì hãy xem
cách một người nhân đức sẽ làm. Nhân đức là thói quen chọn sự trung dung giữa
hai thái cực không tốt cho con người. Nhưng không phải thói quen nào cũng là
nhân đức, mà chỉ có những cá tính tích cực như tử tế, nhân từ, chân thành,
trung thực, rộng lượng, v.v. Cá tính xấu là những thói quen mang giá trị tiêu cực
như độc ác, côn đồ, gian dối, và ích kỷ. Chúng ta không nên chỉ hành động như một
người nhân đức nhưng tốt hơn nên trở thành một người nhân đức.
II.
PHÁT TRIỂN NHÂN ĐỨC
Nhân
đức phải là “thói quen,” tức là những nét tiêu biểu không chỉ dừng lại ở sự quảng
đại hoặc can đảm trong cách cư xử với bạn bè và người thân. Một tật xấu cũng là
thói quen, nhưng nhân đức thì cần phải được nối kết với sự thiện, là một điều tốt
mà mỗi người nên có. Những cá tính tốt lành đáng được ao ước đều có một nhân đức
phía sau đó. Hầu hết các nhân đức đều là sự “trung dung” giữa hai thái cực thái
quá và bất cập. Con người là những hữu thể có lý tính và sống trong cộng đoàn
nên cần phải tập những cá tính tốt để chống lại các nguy hiểm và cám dỗ.
Can
đảm là cần thiết cho người lính, vốn là sự trung dung giữa hèn nhát và liều
lĩnh. Đôi khi sự can đảm đòi buộc chúng ta phải hành động ngược lại với những
đòi hỏi của nghề nghiệp. Can đảm là một điều tốt bởi vì cuộc sống này đầy dẫy
những hiểm nguy và cám dỗ. Quảng đại là sự sẵn lòng chia sẻ nguồn lợi của mình
với tha nhân, nằm giữa tính bủn xỉn và hoang phí. Sự quảng đại có thể đi ngược
lại với giá trị xã hội như lòng nhân từ của Đức Giêsu đối với người lao động.
Quảng đại là điều đáng được ao ước vì cuộc sống này không hoàn hảo và chúng ta
cần đến lòng trắc ẩn. Trung thực là sự trung dung giữa sự dối trá và quá đơn
sơ. Trung thực giúp xây dựng tình đoàn kết, nương tựa vào nhau vốn cần thiết
cho hoạt động công ích và xã hội, không vì tư lợi mà chà đạp lên người khác.
Nhân đức trung thành nuôi dưỡng tất cả các nhân đức khác và giúp ta chống lại
các cám dỗ ích kỷ. Tình bạn đích thực sẽ xây dựng lòng tha thứ, tính quảng đại,
sự kiên nhẫn vượt qua những thành kiến, để đạt tới sự tự trọng và lòng trung
tín, can đảm và lương thiện.
Thói
quen chọn cái trung dung không phải là chọn sự trung bình, nhưng là thể hiện sự
chọn lựa tốt nhất cho mỗi hoàn cảnh. Tập thói quen chọn cái trung dung sẽ tạo
nên nhiều cơ hội dùng lý trí để phân biệt cách thực tế giữa mục đích công cụ và
mục đích nội tại, hay sự thiện tiềm thể và sự thiện hiện thể. Qua thực hành và
rèn luyện, sự thiện hảo nơi những hành vi đúng đắn sẽ trở thành bản tính thứ
hai của chúng ta; ý chí theo đuổi và cởi mở để học hỏi sự thiện; kiên nhẫn,
không quá độc đoán về kết luận của mình; tử tế để tha thứ những lỗi lầm cho bản
thân và cho người khác.
Môi
trường bạn hữu thì cần để phát triển các nhân đức; vì đó là nơi chúng ta có thể
học cách trao ban và tha thứ, đón nhận và bỏ qua tính kiêu căng, cho phép bản
tính đích thực của mình được tỏ lộ và được huấn luyện. Đây là môi trường an toàn
giúp ta trở nên quảng đại, trung thành, trung thực, can đảm, không sợ hãi khi bị
chỉ trích hay chống đối. Một con rùa chỉ thò cổ ra ngoài và bắt đầu di chuyển một
khi nó cảm thấy an toàn. Sống giữa kẻ thù thì khó tập nhân đức cách trọn vẹn và
tự do, vì ta phải luôn luôn phải giữ tư thế phòng thủ.
Nhân
đức là kết quả của một tiến trình thường xuyên. Dù là lớn tuổi hay xuất thân từ
một hoàn cảnh kém may mắn, chúng ta vẫn có thể trưởng thành về nhân đức. Không
bao giờ là quá trễ để cải tiến và hoàn chỉnh một đức tính tốt. Tập nhân đức là
động cơ luân lý cho suốt cuộc đời vì ai cũng muốn thể hiện cuộc sống của mình
hơn chỉ là làm theo bổn phận hoặc trách nhiệm. Chúng ta nhìn nhận giá trị tốt
lành của tình bạn, tình yêu và sự tôn trọng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Một
nhân đức luôn có thể bổ sung cho một nhân đức khác và tránh được sự thiếu công
bằng tiềm tàng trong các đạo đức học khác, như tình yêu và lòng nhân từ; sự
công bằng và lòng khoan dung. Vì mỗi hoàn cảnh đòi hỏi sự phán đoán khôn ngoan
và uyển chuyển khác nhau,
cho nên khó tìm một định nghĩa chính xác cho nhân đức, hay xác định nhân đức
nào quan trọng nhất để làm chuẩn mực cho các nhân đức khác.
III.
NHÂN ĐỨC THEO ARISTOTE
Trong
tác phẩm Nicomachean Ethics, Quyển I, Aristote khảo sát nhiều cách hiểu khác
nhau về “hạnh phúc” như thỏa mãn, danh vọng, hay sự giàu sang, nhưng nhận thấy
mỗi khái niệm trên đây chỉ là phương tiện để cùng đạt đến một đích khác. Hạnh
phúc chân chính phải là một loại nhân đức hoàn hảo và sung mãn trong tự chính
nó. Trong khi Socrates đồng nghĩa đức hạnh với tri thức--biết điều đúng thì phải
làm điều đúng--thì Aristote nhấn mạnh vào nhu cầu xây dựng một nền giáo dục tốt
và một sự gắn bó cá nhân trong việc tập luyện các thói quen cần phải có cho cuộc
sống thật sự hạnh phúc. Đạo đức học của Aristote nhắm vào mục đích, xem bản
năng tự nhiên của con người là tìm kiếm hay hướng về cùng đích nào đó hầu mang
lại hạnh phúc cho chính mình. Aristote đặt đạo đức học vào phạm vi nghiên cứu rộng
hơn của chính trị học, qua đó, con người được định nghĩa là “con vật có lý trí”
và sống trong xã hội. Do đó, nhân đức và hạnh phúc con người phải được hiểu
trong phạm vi triết học thực dụng và sự thiện chung cho cộng đồng.
Mục
đích của con người là hạnh phúc
Aristote
cho rằng mục tiêu mà mọi người tìm kiếm chính là hạnh phúc hay “sự thiện hoàn hảo”
mà Platô thường nói đến, và hướng cuộc tra cứu của ông về những gì thích ứng
cho “sự thiện hảo đối với con người.” Nếu sự thiện hảo là mục đích cuối cùng của
con người thì đó phải là một sự thiện hảo vì chính nó chứ không phải là công cụ
để tiến tới cái gì khác hơn nó. Có những sự thiện như giàu sang, quý phái và danh vọng thì thấp
kém hơn một số sự thiện khác. Do đó, cùng đích tối hậu của con người phải kết
thúc trong chính nó, chứ không phải là phương tiện để đạt đến cái gì khác nữa.
Aristote cố nhận diện những hành vi đặc thù giúp con người đạt đến sự sung mãn
thật sự. Sau khi phân tích nhiều ví dụ về các phương thức mà loài động vật dùng
các công cụ để đạt đến mục tiêu của chúng, Aristote nhận thấy điểm đặc biệt nơi
bản tính con người chính là lý tính. Lý tính bao gồm mọi khía cạnh của hiểu biết
và khả năng chọn lựa, không chỉ về chức năng của trí tuệ như khả năng diễn giải
hay tính toán, nhưng cả về sự hiểu biết thực tiễn như trong nghề nghiệp, cách dạy
trẻ, nghệ thuật, và nhiều phạm vi khác nữa. Trong lãnh vực luân lý, lý tính
giúp con người chọn lựa từ những ước muốn, nhu cầu nhục dục và cảm xúc cho đến
những điều chúng ta ưa thích hay muốn tránh xa. Đây là tiềm năng tự nhiên đối với
con người nhưng cũng cần phải được phát huy.
Từ
đó, Aristote đề nghị rằng hạnh phúc con người bao gồm cả sức khỏe, giàu sang
phú túc, bạn bè, danh vọng, sự kính nể. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là
chúng ta cần dùng lý trí để phát huy các chức năng tự nhiên đến mức độ cao nhất
có thể đối với con người. Cần phải có một sự phát triển thích ứng và biết dùng
lý trí phù hợp thì con người mới đạt đến sự sung mãn và hạnh phúc chân thực.
Phương pháp suy tư này đã để lại nhiều ảnh hưởng trong lịch sử đạo đức học vì
nó làm nổi bật lên tính khách quan, phổ quát và tính hiển hiện của các mệnh lệnh
đạo đức. Sau này Thánh Tôma cũng áp dụng tư tưởng này vào đạo đức học luật tự
nhiên của ngài.
Cuối
cùng, cho dù hạnh phúc là cùng đích mà mọi người tìm kiếm, chứ không phải sự
gia tăng tối đa các thỏa mãn, danh vọng hay phú túc của con người, nhưng tự
mình một cá nhân có thể tập luyện nhân đức để mang lại hạnh phúc không? Liệu
các phương tiện vật chất có giúp một cá nhân phát huy tối đa các chức năng tự
nhiên hầu để đạt đến hạnh phúc tối hậu không? Câu hỏi này đưa suy tư về hạnh
phúc của con người vào bối cảnh luân lý rộng hơn của đời sống cộng đồng. Theo
Aristote, đạo đức học như là một phần của chính trị học vì bản tính xã hội của
con người chỉ có thể phát huy trọn vẹn trong các bối cảnh chính trị cụ thể.
Các
nhân đức luân lý
Aristote
dùng từ “nhân đức” để diễn tả trạng thái hoàn hảo (thiện hảo, tốt lành, đúng đắn)
của con người. Sự hoàn hảo này có thể đến một cách tự nhiên đối với vài người,
nhưng đa số chúng ta thì đó là một tính cách cần phải được thao luyện qua một
thời gian lâu dài. Chúng ta nhận diện “nhân đức” thể hiện nơi hành động, thái độ
và tư cách qua cách con người xử lý công việc hoặc cư xử với tha nhân. Trong
Quyển II, Aristote định nghĩa “nhân đức” là tính cách mà một cá nhân có thói
quen chọn cái trung dung giữa hai thái cực bất cập và thái quá. Theo định nghĩa
này, “trung dung” không có nghĩa chỉ là trung bình nhưng là cao điểm của một sự
hoàn hảo, một chọn lựa ăn khớp và thích hợp, đúng thời đúng lúc cho mọi bối cảnh.
Một hành vi phù hợp luân lý không nhất thiết phải là biểu hiện hoàn hảo của
nhân đức.
Aristote
cho rằng trong con người có khả năng tự nhiên giúp tập luyện để đạt đến mức độ
hoàn hảo, cả về lý trí lẫn luân lý. Trong tiếng Latin, từ “virtues” có gốc là
“vir,” nghĩa là người nam, hay nam tính. Trong tiếng Hylạp, từ “arisleia” có
nghĩa là sự “hoàn hảo” nơi con người. Socrates xem nhân đức là sự kết nối “tri”
với “hành,” biết điều đúng mà không thực hành điều đúng tức là chưa biết (ngu dốt).
Nhưng Aristote nghĩ rằng biết điều đúng không bảo đảm sẽ thực hành điều đúng.
Vì thế nhân đức cần phải trở thành thói quen cần phải tập luyện để giúp ta chọn
lựa đúng đắn, qua khả năng suy tư và sự tập trung của lý trí. Qua sự kiên trì
rèn luyện, các thói quen chọn sự trung dung sẽ trở thành “bản tính thứ nhì” và
đưa đến sự mãn nguyện cho chúng ta. Theo Kant nếu một hành vi quá dễ dàng hoặc
đem lại khoái lạc thì không còn là nhân đức nữa, vì nhân đức phải là một nỗ lực
tận dụng ý chí, chống lại cám dỗ tránh né những việc khó khăn để thi hành điều
đúng chỉ vì ta có thể và bổn phận theo đuổi sự thiện vì chính nó, chứ không phải
vì lợi ích nào khác. Nhưng Aristote thì không “khắc kỷ” như thế, nhân đức cuối
cùng phải giúp cho nỗ lực sống tốt của chúng ta ngày càng thoải mái, nhẹ nhàng
và sung mãn hơn. Sự rèn luyện nhân đức sẽ giúp cho con người sống bình thản, chấp
nhận mọi mâu thuẫn trong cuộc sống và tìm cách xử lý chúng cách tốt
nhất và đúng nhất theo cá tính thứ hai của mình.
Nhân
đức và lý trí thực hành
Nhân
đức luân lý là thói quen chọn sự trung dung giữa các thái cực của một hành vi,
khao khát hay cảm xúc nào đó, sao cho đúng và hợp lý của một người khôn ngoan.
Điểm trung dung này không phải là sự trung bình hay mức độ tầm thường đòi hỏi về
khả năng, nhưng là sự chọn lựa khôn khéo giữa thái quá và bất cập. Người chưa
quen chọn các phán đoán như thế này cần phải học hỏi nơi những gương sáng của
những mẫu người nhân đức hơn, cho đến khi chúng trở thành thói quen cho mình.
Do đó, tập nhân đức cần cả hai khía cạnh tri thức và sự kiềm chế chính mình.
Nhân
đức khôn ngoan (một trong bốn nhân đức căn bản) là tất yếu để đạt đến các nhân
đức khác. Aristote khai triển nhân đức khôn ngoan sâu rộng hơn trong Cuốn VI,
Nicomachean Ethics. Ông cẩn thận vạch ra rằng điểm trung dung nơi mỗi người sẽ
khác nhau, nhưng không phải là tùy tiện. Lấy ví dụ, về nhân đức tiết độ hay chừng
mực về ăn uống bao nhiêu là tốt cho sức khỏe đòi hỏi một tiêu chuẩn khách quan,
nhưng tiêu chuẩn này thì sẽ lại khác nhau cho mỗi người. Cũng như thế, tìm điểm
trung dung cho can đảm sẽ khác nhau cho mỗi hoàn cảnh và mỗi người vì phải xét
theo mức độ nguy hiểm cá nhân đang đối đầu và khả năng của người ấy trong khi
chọn lựa giữa các hành vi. Điểm chung của mọi nhân đức chính là sự thích ứng và
sao cho “hợp tình hợp lý” với hoàn cảnh. Điều này bao gồm việc cân nhắc mọi
khía cạnh của một tình huống để có thể mang lại sự phán đoán đúng đắn, hay chọn lựa khôn ngoan.
Nhân đức không phải là bản năng tự nhiên có sẵn nơi con người, nhưng cũng không
trái ngược với bản tính con người. Tập nhân đức giúp chúng ta có một động lực
chân thành cùng phương tiện chính chắn để chọn hành vi cách đúng đắn, thích ứng
cho hoàn cảnh và đối tượng.
Thói
quen chọn hành vi đúng đắn có thể mang lại cho ta niềm vui và sự khoái lạc.
Aristote phân tích sự phức tạp liên quan đến cách tìm điểm trung dung, nhưng
không phải trong mọi hoạt động của con người đều có thể tìm ra điểm trung dung.
Có những thái độ như đam mê, ác ý, ganh tỵ, lì lợm, hay các hành vi như trộm cướp,
giết người, ngoại tình, tự nó là độc ác rồi, chứ không phải là vì nó bất cập
hay thái quá. Không ai có thể thi hành các hành vi trên này cách đúng đắn, hoặc
cho thích ứng với hoàn cảnh, cho dù nó có mang lại bao nhiêu khoái lạc cho người
thi hành nó. Tóm lại, nhân đức phải là hành trình theo đuổi sự thiện vì chính
nó.
VI. THỰC
HÀNH
Nhân
đức là sự trung dung giữa hai thái cực đối lập. Hãy liệt kê các sự chọn lựa mà
Soeur Y tá có thể làm được trong trường hợp nêu ra ở đầu bài. Nếu bạn đồng ý với
hành vi “rút ống thở” của Soeur y tá ở trên thì bạn đang chọn nhân đức gì? Hai
thái cực đối lập của nó là gì? Nếu bạn không đồng ý với hành vi này, thì hãy
tìm một nhân đức khác, vốn là sự trung dung của hai thái cực đối lập nào khác? Hãy
tiếp tục nhận diện nhân đức và hai thái cực đối lập trong mỗi chọn lựa mà bạn đề
nghị.
Tài
liệu tham khảo
Aristotle.
Nicomachean Ethics (sáng tác 350 B.C.E). Bản địch của W. D. Ross. Massachusetts
Institute of Technology. (http://classics.mit.edu/Aristotle/nicomachaen.html)
Aristotle’s
Ethics. Richard Kraut. Stanford Encyclopedia of Philosophy; 2002,
(https://plato.stanford.edu/entries/aristotle-ethics/)
Đạo đức học tổng quát. Joseph Tân Nguyễn. Đồng Nai: NXB. Đồng Nai, 2021.