Chú giải Tin Mừng CN III MC A (Ga 4,4-43)
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, S.V.D.
Xin xem toàn bộ bài chú giải tại đây:
Bản văn Ga 4,4-43
4 Nhưng Người phải băng
qua Samari.
5 Vậy Người đến một
thành Samari, gọi là Sykha, Gần thửa đất mà Jacob đã cho Giuse, con của ông ấy.
6 Ơ đó có giếng Jacob. Đức
Giêsu vất vả đi đường nên ngồi xuống bờ giếng. Lúc đó khoảng giờ thứ sáu.
7 Có một người phụ nữ
Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với chi ấy: “Cho tôi uống với.”
8 Vì các môn đệ của Người
đã đi vào thành để mua thức ăn.
9 Người phụ nữ Samari
nói với Người: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một
phụ nữ Samari?” Vì người Do Thái không giao thiệp với người Samari.
10 Đức Giêsu trả lời và
nói với chị ấy: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với
chị: ‘Cho tôi uống với, Hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước
sự sống.”
11 [Chị ấy] nói với Người:
“Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy Ông có nước sự sống từ đâu?
12 Chẳng lẽ Ông lớn hơn
cha của chúng tôi là Jacob, người đã cho chúng tôi giếng này, chính người đã uống
nơi giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của người nữa?”
13 Đức Giêsu trả lời và
nói với chị ấy: “Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát.
14 Nhưng ai uống nước mà chính
tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà tôi sẽ ban cho người
ấy, sẽ trở nên nơi người ấy một mặch nước vọt lên sự sống đời đời.”
15 Người phụ nữ nói với
Người: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến
đây múc nước.”
16 Người nói với chị ấy:
“Chị hãy đi gọi chồng của chị rồi trở lại đây.”
17 Người phụ nữ trả lời
và nói với Người: “Tôi không có chồng.” Đức Giêsu nói với chị ấy: “Chị nói:
‘Tôi không có chồng’ là phải,
18 vì chị đã có năm đời
chồng và người hiện nay chị có, không phải là chồng của chị. Điều này chị đã
nói đúng.”
19 Người phụ nữ nói với Người:
“Thưa Ông, tôi thấy rằng chính Ông là một ngôn sứ.
20 Cha ông chúng tôi đã
thờ phượng ở núi này; Còn các ông, các ông nói rằng: Ở Jêrusalem mới là nơi phải
thờ phượng.”
21 Đức Giêsu nói với chị ấy:
“Này chị hãy tin Tôi, giờ đến, không phải trên núi này cũng chẳng phải ở
Jêrusalem, các người thờ phượng Cha.
22 Các người, các người
thờ phượng điều các người không biết; Chúng tôi, chúng tôi thờ phượng điều
chúng tôi biết vì ơn cứu độ đến từ người Do Thái.
23 Nhưng giờ đến – và là
bây giờ - , khi mà những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong thần
khí và sự thật. Vì Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế.
24 Thiên Chúa là Thần
Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”
25 Người phụ nữ nói với
Người: “Tôi biết rằng Đấng Mêsia sẽ đến – Đấng được gọi là Kitô. Khi Đấng ấy đến,
Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”
26 Đức Giêsu nói với chị ấy:
“Chính là Tôi, người đang nói với chị.”
27 Vừa lúc đó các môn đệ
của Người trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế,
không ai nói: “Thầy cần gì?” hoặc “Thầy nói gì với chị ấy vậy?”
28 Vậy người phụ nữ để lại
vò nước của mình và đi vào thành và nói với mọi người:
29 “Hãy đến xem một người
đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”
30 Họ đi ra khỏi thành và
đến với Người.
31 Trong khi đó các môn đệ
xin với Người rằng: “Thưa Rápbi, mời Thầy ăn.”
32 Nhưng Người nói với
các các ông: “Chính Thầy có lương thực để ăn mà anh em không biết.”
33 Các môn đệ nói với
nhau: “Phải chăng ai đó đã mang đến cho Người ăn rồi sao?”
34 Đức Giêsu nói với các
ông: “Lương thực của Thầy thực hiện ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và Thầy hoàn tất
công việc của Người.
35 Chẳng phải anh em nói
rằng: ‘Còn bốn tháng nữa thì mùa gặt sẽ đến sao?’ Hãy ngước mắt anh em lên và
nhìn xem những cánh đồng, chúng chín vàng cho mùa gặt. Rồi kìa,
36 Người gặt lãnh nhận tiền
công và thu hoa lợi cho sự sống đời đời, để người gieo lẫn kẻ gặt đều vui mừng.
37 Về điều ấy, lời này là
đúng: ‘Kẻ này là người gieo, kẻ khác là người gặt.’
38 Chính Thầy sai anh em
đi gặt điều chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã vất vả, còn anh
em, anh em được hưởng sự vất vả của họ.”
39 Trong thành đó nhiều
người Samari đã tin vào Người, nhờ lời người phụ nữ làm chứng rằng: “Ông ấy nói
với tôi tất cả những gì tôi đã làm.”
40 Vậy khi người Samari đến
với Người, họ xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.
41 Và nhiều người hơn nữa đã
tin nhờ lời của Người.
42 Họ nói với người phụ nữ
rằng: “Không phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chúng tôi đã nghe và biết
rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.”
43 Sau hai ngày, Người ra
khỏi nơi đó đi Galilê.
Cấu trúc
I. 4,4-6. Dẫn
Nhập, Đức Giêsu đến giếng Jacob ở Xykha, Samari
II. 4,7-26. Đức
Giêsu đối thoại với người phụ nữ Samari
7-15: Đề
tài “Nước sự sống”
16-19:
Đề tài “Những đời chồng” với kết luận Đức Giêsu là ngôn sứ
20-26:
Đề tài “Nơi thờ phượng đích thực” với kết luận Đức Giêsu là “Đấng Mêsia”
III. 4,27-38. Người
phụ nữ vào thành loan tin, Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ
27:
Chuyển tiếp: Các môn đệ mua thức ăn trở về.
28-30:
Người phụ nữ vào thành và loan tin về Đấng Kitô.
31-38:
Đối thoại về lương thực đích thực và phận vụ của Đức Giêsu và môn đệ
IV. 4,39-42. “Nhiều
người” và “nhiều người hơn nữa” đã tin vào Đức Giêsu
39:
Người phụ nữ làm chứng, nhiều người Samari tin vào Đức Giêsu
40-42: Số
người tin gia tăng, tuyên xưng Người là Đấng cứu độ thế gian
V. 4,43. Sau hai ngày, Người rời khỏi đó đi Galilê
Bình luận tổng quát
Đức Giêsu mệt vì
trải qua cuộc hành trình băng qua biên giới Giuđê – Samari. Người dừng chân bên
bờ giếng, các môn đệ vào thành mua thức ăn. Chính trong bối cảnh ấy, Đức Giêsu
đã gặp gỡ người phụ nữ Samari và khởi đầu câu chuyện với chị.
Thoạt nghe qua,
người ta có thể lầm tưởng rằng, Đức Giêsu chỉ là một người bộ hành bình thường,
tình cờ đi qua vùng Samari, rồi mệt mỏi, dừng chân, khát nước và xin nước. Tuy
nhiên, câu chuyện không chỉ đơn giản như thế. Đoạn Tin Mừng hôm nay có một chi
tiết rất quan trọng. Đó là: Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại Galilê. Nhưng,
Người phải băng qua Samari. Động từ Hy Lạp “phải” (dei) diễn tả một sự bắt buộc
trong kế hoạch của Chúa. Việc Đức Giêsu đến vùng Samari là một sứ vụ nhất thiết
Người phải làm, chứ không phải là chuyện ngẫu nhiên, tình cờ.
Dĩ nhiên, khởi đầu,
Đức Giêsu cũng có mệt mỏi, và khát nước. Thế nhưng, có một cơn khát khác mãnh
liệt hơn trong lòng Người. Chính cơn khát đó đã thúc đẩy Người đến nơi này và gặp
người phụ nữ này. Cơn khát mãnh liệt ấy là gì? Thưa! Đó là cơn khát khao tình
yêu và đức tin của con người. Đó là niềm khát khao mang ơn cứu độ, ơn giải
thoát đến cho tất cả mọi người trong khu làng Samari ấy.
Tác giả Tin Mừng
Gioan đã khéo léo móc nối, để diễn tả sự kéo dài nỗi khát khao của Đức Giêsu khởi
đầu từ nơi đây, mãi cho đến lúc Người chịu đóng đinh trên thập giá. Câu chuyện
Đức Giêsu khát nước ở đây, diễn ra vào khoảng giờ thứ sáu (tức là khoảng 12 giờ
trưa). Đây cũng chính là khoảng thời gian Đức Giêsu chịu khổ hình trên thập giá
và trong khoảng thời gian ấy Người cũng đã kêu lên rằng “Ta khát” (Ga 19,28).
Rồi chúng ta sẽ
thấy, chính cơn khát khao mang ơn cứu độ ấy, khát khao đức tin và tình yêu của
nhân loại ấy, sẽ chi phối toàn bộ câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ
bên bờ giếng Samari, chứ không phải là chuyện khát nước bình thường.
Đức Giêsu đến
đây để trao ban “nước hằng sống,” là chính Người, cùng với giáo huấn của Người,
cho người phụ nữ. Nhưng trước khi trao ban “nước hằng sống” cho người phụ nữ,
thì Đức Giêsu lại phải gợi lên trong lòng chị một niềm khao khát và chính chị
phải xin được “uống thứ nước ấy.”
Tuy nhiên, muốn
gợi lên trong lòng người phụ nữ một niềm khao khát “nước hằng sống” thì Đức
Giêsu lại phải chứng tỏ cho chị thấy rằng Người là một vị ngôn sứ và hơn nữa là
Đấng Mêsia. Đức Giêsu đã làm được điều đó, khi Người chạm được vào tâm hồn của
chị. Người chạm được vào quá khứ đau thương, tủi nhục mà không một ai có thể cảm
thông, chia sẻ cùng chị được.
Sự thật bẽ bàng
về một đời sống thiếu thủy chung. Sự tủi nhục của một phận gái lênh đênh, bèo bọt,
kiếp chồng tạm, vợ hờ. Chính sự thật ấy đã đẩy chị ra xa khỏi dân làng, để một
mình đi lấy nước, giữa lúc trời nắng gắt nhất. Sự thật ấy không ai có thể chạm
vào được và chính bản thân chị cũng không muốn chạm vào. Chỉ có Đức Giêsu với sự
tinh tế, nhạy cảm, đồng cảm, của một vị ngôn sứ mới giúp chị tìm lại chính
mình.
Quả thế, sau cuộc
nói chuyện với Đức Giêsu, người phụ nữ chợt bừng tỉnh cách diệu kỳ, niềm vui
dâng trào, chị quên mất mục đích mình đến giếng nước để làm gì. Chị đến để lấy
nước nhưng cuối cùng chị để vò nước lại, để chạy vào làng, loan tin cho dân
làng: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy
không phải là Đấng Kitô sao?” Quả vậy. Chỉ có Đấng Kitô mới chạm vào được cõi
lòng u uất của chị và ban cho chị một nguồn nước trường sinh tuyệt diệu như thế.
Nhờ niềm tin vào
Đức Giêsu, chị đã thật sự cảm nếm “nước hằng sống,” nguồn nước đem lại cho chị
sự hy vọng, lạc quan, và niềm vui sau những ngày đen tối. Không phải một mình
chị, mà có rất nhiều người Samari đã tin vào Đức Giêsu và làm chứng rằng: “Quả
thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần
gian."
Câu chuyện có một
kết thúc hết sức lạ lùng nhưng lại rất hợp với ý định yêu thương của Thiên
Chúa. Chúng ta thấy, câu chuyện khởi đầu bằng việc người phụ nữ Samari đi lấy
nước, rồi Đức Giêsu xin uống nước, nhưng đoạn kết câu chuyện thì chẳng liên
quan gì đến nước uống nữa. Đó là đoạn kết của niềm vui vỡ òa của những người
tin khi họ đón nhận Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống, Đấng cứu độ trần gian. Đấng
đã đến và ở lại với ngôi làng của họ.
Điều này chứng tỏ
rằng, Đức Giêsu đến Samari với một niềm khát khao mãnh liệt là mang Tin Mừng cứu
độ cho người phụ nữ Samari và cả dân làng Samari. Người dừng chân ở bờ giếng
Giacóp không phải chỉ là vì cơm ăn, nước uống nhưng là để: “thi hành ý muốn của
Đấng đã sai Người, và hoàn tất công trình của Người.” Thánh ý của Chúa Cha là
gì? Thưa là: tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống
muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Thánh Phaolô dạy
rằng: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng
của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm
hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”
Hành trình của Mùa Chay và cũng hành trình của cả đời người chúng ta là cuộc hành trình tìm về với Chúa và tìm đến với tha nhân. Đức Giêsu vẫn miệt mài rong ruổi tìm kiếm, để trao ban tình yêu, bình an và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta. Chỉ có một niềm khao khát “nước hằng sống” thể hiện bằng một niềm tin và tình yêu vào Đức Kitô mới mang lại cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy mau đến với Chúa, hãy để cho Chúa chạm vào những vết thương lòng của quá khứ tội lỗi, để chúng ta được hòa giải với mình với Chúa và với tha nhân nữa. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta bắt chước Đức Giêsu luôn khát khao chia sẻ niềm đau, nỗi buồn và mang niềm vui, bình an đến với những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày.