QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC GIÊSU
VÀ CÁC TÔNG ĐỒ VỀ CỰU ƯỚC
Joseph Tân Nguyễn, ofm
Trong
Thánh lễ, mỗi lần nghe câu: “Đó là Lời Chúa” sau bài Kinh Thánh, thì chúng ta
đáp “Tạ ơn Chúa” để nói lên sự kính trọng cho Kinh Thánh như là Lời Chúa được mặc
khải bởi Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn biết có sự khác biệt giữa “Lời Chúa” và
“Lời Chúa Nhập thể” (Ngôi Lời), hay giữa bản văn Kinh Thánh và mầu nhiệm Thiên
Chúa trở thành người. Chúng ta không chỉ đọc nhưng còn phải hiểu và sống “Lời
Chúa” như thế nào để có thể tháp nhập vào mầu nhiệm “Ngôi Lời.” Trong Do Thái
giáo cũng thế, các Kinh Sư phải chú giải Torah (lề luật) như thế nào để các tín
đồ nắm bắt được bản chất chân thật của Torah, chính là sự hiện diện của Yaweh
giữa lòng dân. Họ dùng phương pháp Aggadah để khai triển khía cạnh luân lý và lề
luật, (Mitzvot) để giúp tín đồ vươn lên đến Torah, và phương pháp Kabbalah để
suy diễn trật tự thánh thiêng của vũ trụ tiềm tàng trong các ẩn dụ và ý nghĩa
thần bí của Torah. Đức Giêsu và các tông đồ, sinh ra và trưởng thành trong Do
Thái giáo, nên rất quen thuộc với các lối chú giải này. Đến khi phải giảng dạy,
các ngài đã thêm vào đó những nguyên tắc chú giải mới cho phù hợp hơn với bối cảnh
và nhu cầu sứ vụ của mình. Trong bài này, chúng ta sẽ lược qua một số đặc điểm
về cách Đức Giêsu trích dẫn Cựu Ước trong khi thực hiện sứ vụ rao giảng Nước Trời.
Sau đó, chúng ta sẽ phân tích cách Phaolô và các tác giả Tin Mừng dùng Cựu Ước
để giải thích về biến cố Kitô. Cho dù khác nhau về phương pháp, nhưng tất cả
các tác giả này đều muốn chứng tỏ rằng biến cố Kitô chính là thực tại của những
hình bóng mà Cựu Ước đã nói đến.
Đức
Giêsu chú giải Cựu Ước
Các
Kinh Sư Do Thái giáo cho rằng toàn thể Torah xuất phát từ thẩm quyền của Thiên
Chúa và được mặc khải qua lời của Môisen. Chúa Giêsu phân biệt giữa luật Thiên
Chúa và luật của Môisen đặt ra cho đám dân cứng lòng trong sa mạc (Mk 10:2).
Đôi khi Thần Khí Thiên Chúa nói qua con người, như trong trường hợp Môisen cho
phép dân ly dị hoặc Vua David ăn bánh thánh dâng trong đền thờ. Đức Giêsu tố
cáo các Kinh sư đã lạm dụng và coi thường luật Thiên Chúa. Họ chỉ lo giữ truyền
thống (Mk 7:9), qui luật phụng vụ (Mk 2:25), và nghi thức thanh tẩy (Mk 7) của
họ.
Nhưng
làm sao phân biệt được khi nào thì chú giải Kinh Thánh được soi sáng bởi Thần
Khí Thiên Chúa và khi nào thì lề luật bị lạm dụng? Cách trả lời của Đức Giêsu
thường nhắm vào lòng thương xót của Thiên Chúa (Mt 9:13), nhu cầu hoán cải tâm
hồn của tội nhân (Isa 29:13), và phục hồi nền tảng luân lý của lề luật. Đức
Giêsu phản đối sự lạm dụng các nơi thờ phượng để kinh doanh (Mk 11:17). Người đặt
lòng nhân từ của Thiên Chúa trên lề luật, nhu cầu chữa lành trên ngày Sabbath
(Jn 7:22), và truyền thống ngôn sứ trên truyền thống tư tế. Người tóm tắc sách
Đệ Nhị Luật vào điều răn “Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (Mk 9:29) và thêm
vào đó đòi hỏi của Liviticus “yêu tha nhân như chính mình” (Mk 12:31). Người
dùng thẩm quyền của chính mình khi tuyên bố, “Không có quy luật nào cao cả hơn
các quy luật này,” và tất cả luật lệ và ngôn sứ đều bao gồm trong hai qui luật
này (Mt 22:40).
Một
nguyên tắc khác nữa là tính độc lập trong cách Đức Giêsu chú giải Kinh Thánh.
Người thường nói. “Anh em đã nghe… nhưng tôi nói.” Cho dù Đức Giêsu phê bình
thái độ khắc khe về lề luật của nhóm Phariseu nhưng Người không coi thường luật
lệ, trái lại đã củng cố và phục hồi ý nghĩa chân chính của lề luật và lời ngôn
sứ, vì các lời đó đang nói về Người. Chính Người là sự ứng nghiệm của lời tiên
tri của các ngôn sứ, “Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần kề” (Mk 1:15).
Đây không phải là điều gì bí ẩn vì ai cũng biết Kinh Thánh nói Elijah phải đến
trước, và Đấng Messiah phải chịu đau khổ và bị loại trừ. Người giải thích các
phép lạ làm cho người mù được thấy, người què được đi như là sự ứng nghiệm lời
của các Tiên tri trong Cựu Ước (Mt 11:5, Lk 7:22). Lúc biết mình sắp ra đi, Đức
Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể như lời giao ước mới mà tiên tri Jeremiah đã báo
trước. Người cẩn thận nhắc nhở người phong hủi mới được chửa lành phải đi báo
cho các kỳ mục biết như luật Môisen buộc phải làm (Mk 1:44).
Đức
Giêsu chú giải Cựu Ước từ kinh nghiệm riêng của Người về “Abba và Nước Trời.”
Ngài khẳng định rằng, với sự hiện diện của Người thì lề luật được thay thế bằng
tình yêu của Thiên Chúa. Ai tin vào luật Môisen mà không tin vào Đức Giêsu là
đã sai lầm rồi vì Môisen nói về Người (Jn 5:46). Chúng ta hiểu sai lề luật nếu
không tuân theo thần khí ngôn sứ đã đến để dạy cho chúng ta (Jn 8:17). Người
nói về vai trò “ứng nghiệm” của mình qua cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực.
Lối chú giải dựa trên lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Cha bị các Kinh Sư lên
án và chống đối. Nói chung, nguyên tắc chú giải của Đức Giêsu có thể được tóm tắc
qua câu nói của chính Người: “Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi từ Nước Trời,
thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái
cũ” (Mt 13:52).
Thánh
Phaolô chú giải Cựu Ước
Thánh
Phaolô rất quen thuộc với cả truyền thống Torah cùng với các bản văn ghi lại lời
giảng của Đức Giêsu. Cả Phaolô và Đức Giêsu đều chống lại lối chú giải theo chủ
nghĩa lề luật của nhóm Phariseu. Phaolô tóm tắc tinh thần của lề luật vào một
nguyên tắc chung: “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình.” (Gal 5:14,
Rom 13:9). Nhưng vì sống sau biến cố Đức Kitô gần 20 năm, những kinh nghiệm của
Phaolô về Giáo Hội, ơn cứu độ, bí tich và đời sống đức tin của cá Kitô hữu đã để
lại dấu ấn trên cách ngài giải thích Cựu Ước. Ngài dùng phương pháp ẩn dụ để
nhân cách hóa và luân lý hóa Cựu Ước, và dùng Cựu Ước để làm sáng tỏ ý nghĩa của
cuộc sống Đức Kitô và giáo hội. Các trình thuật về sự sa ngã của Adam, cuộc lưu
đày ở Ai-cập, biến cố xuất hành, thanh tẩy ở sa mạc, vào đất hứa, v.v., là hình
ảnh về những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc đời của Đức Kitô và Giáo Hội. Đức
Giêsu được xem như là “Adam thứ hai,” các tổ phụ chịu “phép rửa” bằng đám mây
và biển đỏ qua biến cố Xuất Hành, và được “nuôi dưỡng” bằng thức ăn và uống
thiêng liêng trong sa mạc (1 Cor 10:2).
Trong
khi Đức Giêsu chấp nhận con đường đưa đến thập giá thì Phaolô nhấn mạnh vào sự
ô nhục của Thập giá để vạch trần sự khao khát vô vọng trong cách triết lý Hy-La
tìm kiếm sự khôn ngoan. Phaolô dùng tài hùng biện và khả năng trực giác của
mình để giải thích tình trạng nước đôi của lề luật. Một mặt, vì lề luật đến từ
Thiên Chúa nên là công chính và thiện hảo (Rm 7:12). Nhưng mặt khác, “tình yêu
là sự ứng nghiệm của lề luật” (Rm 13:10), và ý nghĩa của Cựu Ước là không phải
trong chính nó mà trong tương quan với Đấng sẽ đến (Mt 12:38, Lk 11:29). Như thế,
Phaolô đã thêm vào phương pháp “ứng nghiệm” một lối biện chứng mang tính tiên
trưng. Những phúng dụ, lời nói bóng, và hình ảnh trong Cựu Ước là hình ảnh cho
thực tại thiêng liêng hay tội lỗi trong Giáo Hội. Ví dụ, Đức Giêsu phục hồi những
gì Adam đã đánh mất (1 Cor 15), hai đứa con trai của Abraham, một sinh ra bởi
thân xác tội lỗi và một sinh ra bởi lời hứa của Thiên Chúa, là hình bóng của
hai lời giao ước ở Sinai và ở Jerusalem (Gal 4:22-26). Trong các thư mục vụ,
ngài thường dùng kinh nghiệm cá nhân như mô phạm hay gương sáng để khuyên bảo
anh em sống và hiểu Lời Chúa (2 Thess 1:7, 1 Cor 10:6).
Trong
khi phương pháp ứng nghiệm lệ thuộc vào lịch sử tính thì phương pháp chú giải ẩn
dụ, xuất phát từ cách diễn giải của triết phái Stoic, có thể đi xa hơn. Cựu Ước
trình thuật về sự kiện lịch sử, nhưng Phaolô dùng các trình thuật đó như là những
ẩn dụ, chứa đựng các mức độ ý nghĩa tiềm ẩn khác nhau về biến cố Kitô. Từ ngữ
thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa trung tâm: Đức Giêsu chính là Đấng
Messiah mà cả Kinh Thánh phải được hiểu qua nhãn quan của biến cố chết, sống lại
và sứ mệnh của Người. “Biến cố Kitô” cho chúng ta một trung tâm chú giải mới về
“lịch sử cứu độ,” khởi đầu từ Israel cũ rồi đến Israel mới là Giáo Hội, từ Adam
thứ nhất đến Adam thứ hai là Đức Kitô. Sự kiện lịch sử được xem như phúng dụ
(allegory) giúp Kitô hữu hiểu rõ hơn về hành trình đức tin và tội lỗi của mình.
Sự bất tuân của Adam mang tội lỗi và sự chết vào thế gian (Rom 5:12), đức tin của
Abraham công chính hóa ông trước mặt Thiên Chúa (Gal 3:6). Cuối cùng, “biến cố
Kitô” mặc khải cho chúng ta sợi dây liên kết phổ quát của toàn thể nhân loại:
“Như trong Adam tất cả phải chết, thì trong Đức Kitô tất cả sẽ được cho sống lại”
(1 Cor 15:22).
Ngoài
phúng dụ, Phaolô còn dùng biểu tượng (symbol) để khai thác trí tưởng tượng khi
cần kết nối niềm tin Kitô giáo với các biến cố Cựu Ước. Ví dụ, Đức Kitô chính
là hiện thân của Đức Khôn Ngoan và là đầu của Giáo Hội (1Cor 10). Thức ăn và nước
uống thiêng liêng, tảng đá gốc thiêng liêng của các Tổ Phụ Do thái được liên kết
với bánh từ trời, nước hằng sống, và đá tảng thật vốn là Đức Kitô. Khăn che mặt
của Môisen khi tiếp cận với Đức Chúa là hình ảnh của cách người Do Thái hiểu Cựu
Ước. Nhưng màn che đó đã được tháo bỏ qua biến cố Kitô khi Thần Khí Thiên Chúa
giải thích Kinh Thánh trực tiếp nơi con tim của các Kitô hữu. Đó là ý nghĩa của
sự tự do khi lề luật được công chính hóa bằng đức tin và ân sủng (2 Cor 3:14).
Chủ nghĩa duy lề luật tiêu diệt tính thiêng liêng của Cựu Ước, làm cho ta bị mù
không nhận ra những mầu nhiệm bí ẩn và hình ảnh Thiên Chúa ẩn dấu trong đó.
Động
lực chú giải Kinh Thánh của Phaolô chính là sự hiểu biết chân chính của Cựu Ước
qua đức tin và ân sủng. Ai không chấp nhận lối giải thích này là đui mù vì nó
có thể hiểu được dựa trên lý trí (2 Cor 4:2, Rom 2:15). Bối cảnh gốc của Cựu Ước
thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa nó mang lại cho chủ đề Kitô học. Vì lẽ,
“bất cứ điều gì đã được viết xuống trước đây thì được viết để dạy dổ chúng ta…
Niềm hy vọng đây chính là Đức Kitô phục sinh và quang lâm” (Col 1:15). Chủ
nghĩa duy lề luật là khung tri thức hạn hẹp, không thể chỉ ra cách Cựu Ước ám
chỉ về Đức Kitô, mà chỉ làm cho lời rao giảng của chúng ta trở thành vô nghĩa.
Sau khi ngài trở lại, động lực bền vững nhất trong cách Phaolô chú giải Kinh
Thánh chính là kinh nghiệm cá nhân: “không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong
tôi (Gal 2:20).
Tân
Ước chú giải Cựu Ước
Các
tác giả các Tin Mừng vẫn dùng ẩn dụ và biểu tượng, nhưng nhấn mạnh hơn về
phương pháp tiên trưng (typology) trong cách họ chú giải Cựu Ước. Phương pháp
tiên trưng đi xa hơn “ứng nghiệm” khi giải thích rằng Cựu Ước chứa đựng những lời
tiên tri, ám chỉ hay cho thấy trước những gì sẽ xảy ra về Đức Kitô. Các biến cố
trong cuộc đời của Đức Giêsu đã được Cựu Ước biết trước, nhưng chỉ được tiên
báo bằng ngôn ngữ hình tượng và ngôn sứ. Chân lý chứa đựng trong Cựu Ước đã được
Chúa Giêsu hoàn thực. Thánh Linh sẽ chọn thời gian và không gian để tác động
lên sự hiểu biết của người nghe, giúp họ nhận thức các chân lý này. Phương pháp
chú giải tiên trưng giả định một sự hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, giữa biến
cố Cựu Ước và thực tại đang được trình thuật lại trong Tân Ước. Chỉ khi người đọc
biết dùng phương pháp này thì họ mới hiểu đúng các sách Ngôn Sứ.
Tuy
nhiên, sự hài hòa giả định bởi phương pháp tiên trưng nhiều khi được dùng cách
tùy tiện để biện minh cho việc trích dẫn Ngũ Kinh hay Thánh Vịnh. Mục đích
chính của chú giải tiên trưng là để minh chứng rằng Cựu Ước đã biết trước về sứ
mệnh và vai trò của Đức Kitô. Các tác giả Cựu Ước không chỉ chép lại sự kiện lịch
sử, nhưng viết với nhãn quan hướng về Đấng Thiên Sai sẽ đến và hành trình tương
lai của dân tộc họ. Nếu các ngôn sứ tiên báo về tương lai của dân tộc Israel,
thì ý nghĩa của biến cố Kitô sẽ được làm sáng tỏ qua những hình ảnh được lịch sử
và ngôn sứ nói đến trong Cựu Ước. Phương pháp tiên trưng dựa trên kỷ năng tưởng
tượng và đồng cảm hơn là lôgic. Sự tương đồng giữa các biến cố này tùy thuộc
vào khả năng người chú giải sáng tạo ý nghĩa thiêng liêng và luân lý, nhưng bối
cảnh lịch sử gốc của bản văn thì thường bị lướt qua.
Chúng
ta hãy sơ lược qua một vài ví dụ về cách dùng phương pháp tiên trưng trong Tân
Ước. Trước tiên, Thư Do Thái được viết để an ủi và củng cố đức tin của những
người bị tổn hại sau khi trở thành Kitô hữu. Họ phân vân có phải tại vì Đức
Kitô mà cuộc sống của họ đã trở nên chao đảo. Bức thư Do Thái giải thích rằn tất
cả lễ nghi linh đình tại đền thờ Giêrusalem chỉ là “hình bóng” của một sự kiện
khác vĩ đại hơn nhiều. Ơn thứ tha tội lỗi, lòng tôn thờ Thiên Chúa trong thần
khí, niềm khác vọng của toàn bộ Cựu Ước, phải do vị tư tế chân chính của toàn
thể nhân loại là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thực hiện thì mới được hoàn tất.
Hình ảnh tư tế “Melkizedek,” vốn cao trọng hơn hàng tư tế của phái Levi, được
dùng để minh họa cho vai trò tư tế vĩnh cửu của Đức Kitô. Lối chú giải này lý
luận từ hình bóng đến thực tại, từ sự kiện tạm bợ đến vĩnh cửu, và từ tính mỏng
giòn yếu đuối của con người đến tính siêu việt và hoàn hảo của Thiên Chúa. Kết
nối các biến cố lịch sử theo lối này thì phản ảnh tri thức luận nhị nguyên “thực
tại/ảo ảnh” của Platô.
Các
Tin Mừng nhất lãm thường dùng cả phương pháp tiên trưng lẫn phương pháp ứng
nghiệm. Tin Mừng Matthew xem Đức Giêsu như là ứng nghiệm của lề luật trong sự
hoàn tất của giáo huấn luân lý: “một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không
qua đi cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Mọi biến cố trong cuộc đời
Đức Giêsu: ra đời tại Bethlehem, được các đạo sĩ ngoại giáo biết là Vua dân Do
Thái, chạy trốn sự bách hại của Herôđê, trở về từ Ai-cập, bài giảng từ trên
núi, biến hình, v.v., tất cả đều được hổ trợ với bằng chứng trích dẫn từ các
sách Xuất hành, Samuel, Hosea, Jeremiah. Việc trích dẫn hứng cớ lịch sử thì
không hoàn toàn chính xác, nhưng có quá nhiều sự trùng hợp được trích dẫn giữa
Cựu Ước và cuộc đời của Đức Kitô làm cho chúng ta thấy rõ mục đích của tác giả
là minh chứng Đức Kitô như Môisen mới, mang đến lề luật mới, và cho thấy lời
tiên tri đã được ứng nghiệm.
Trong
khi Tin Mừng Matthew cố gắng giải thích sự ứng nghiệm của lời tiên tri qua Đức
Kitô, thì Tin Mừng Luca cho thấy sự ứng nghiệm đó xảy ra cho dân ngoại. Luca nhắm
vào sứ mệnh và ơn gọi của dân Chúa được tuyển chọn. Ngay từ đầu, các Bài Ca
“Magnificat” và “Benedictus” cho chúng ta một cái nhìn về lịch sử ân sủng Thiên
Chúa đã ban tặng cho dân Israel. Cuối bản Tin Mừng, Đức Kitô phục sinh cũng đã
hai lần trách móc các môn đệ về sự chậm hiểu của họ về Kinh Thánh. Người mở
lòng trí và giải thích cho họ biết những gì sách Ngũ Kinh, các Ngôn Sứ và Thánh
Vịnh nói về Người. Lưu tâm của Tin Mừng Luca không về sự ứng nghiệm của lời
tiên tri nhưng là sự đóng lại màn lịch sử cũ và mở ra một sân khấu mới với sứ mệnh
mới cho dân Israel mới, đó chính là cộng đồng các Kitô hữu, hay giáo hội. Nói
chung, cả hai Tin Mừng Matthew và Luca đều phải tìm cách giải quyết mối tương
quan giữa “Bình cũ/Rượu Mới,” tiêu biểu cho mặc khải Cựu Ước và sứ vụ của Đức
Kitô.
Tin
Mừng Gioan tuy không trực tiếp trích dẫn Cựu Ước, nhưng vẫn dùng các chủ đề của
Cựu Ước để làm khung cho các bài giảng thuyết để nói lên Thần Khí Thiên Chúa
đang đồng hành với Đức Kitô. Gioan dùng phạm trù “Logos” của triết học Hy-lạp để
tạo nhịp cầu giữa “biến cố Kitô” với nền văn hóa ngoại giáo và các Tông Phụ sau
100AD. Cựu Ước được dùng như là hậu cảnh “bóng tối” mà “ánh sáng” của “Logos”
đã chiếu soi vào, xuyên qua các ngôn sứ và những ai đã từ chối ánh sáng đó. Những
ai đón nhận thì được ơn làm con Thiên Chúa và được hiệp thông trong mầu nhiệm của
sự sống với Thiên Chúa. Tính siêu việt của Đức Kitô được tiền tri qua Cựu Ước
(Isaia 6:5), nhưng đó chỉ là hình bóng của Thiên Chúa. Vì không ai có thể thấy
Thiên Chúa, trừ khi được con Thiên Chúa mặc khải cho. Ở đây có sự so sánh giữa
mặc khải của Hòm Bia Thánh trong Cựu Ước với mặc khải siêu việt và hoàn hảo
hơn, chính là thân thể của Đức Kitô. “Lề luật thì được ban cho Môisen, nhưng ân
sủng và chân lý thì qua Đức Giêsu Kitô” (Jn 1:17).
Các
Thư Mục Vụ của Timothy và Titus ở cuối thế kỷ thứ I mang ảnh hưởng từ giáo hội
học và Kitô học của Phaolô. Lề luật là tốt nhưng phải được chú giải theo Thần
Khí Đức Kitô, vốn được ân ban để xây dựng cộng đồng dân Chúa. Phaolô dùng sự hiểu
biết về Cựu Ước và kinh nghiệm đức tin trưởng thành giữa lòng cộng đoàn Kitô để
khuyên bảo cho Timothy: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã
tin chắc… Tất cả sách thánh đều do Thiên Chúa linh ứng và có ích cho việc giảng
dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tim 3:14-18).
Sau
hết, Tân Ước nhắc nhở chúng ta rằng việc chú giải Cựu Ước sẽ không bị giới hạn
bởi những gì được tranh luận và viết xuống. Đức Giêsu còn nhiều điều muốn nói về
Kinh Thánh nhưng Thần Khí Thiên Chúa sẽ là người dạy và nhắc nhở các môn đệ về
những gì Đức Giêsu đã nói và dẫn dưa họ đến chân lý. Ý nghĩa của Cựu Ước sẽ được
mở rộng và thông diễn bằng chính đời sống và lời chứng tá của các Kitô hữu. Tuy
nhiên, trước khi cách chú giải Kinh Thánh được qui tụ lại thành những trường
phái chú giải đặt thù, thì Giáo Hội sẽ trải qua giai đoạn các Tông Phụ tranh luận
với nhau vê nền tảng linh ứng của các “bản văn” mới, và sự thành hình qui điển
“Tân Ước” (New Testament Canon). Đây là chủ đề chúng ta sẽ bàn trong bài kế tiếp.
Tài
liệu tham khảo
Joseph
Tân Nguyễn, OFM. Thông diễn học. Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2022.
Robert Grant & David Tracy. A Short History of the Interpretation of the Bible. Fortress Press, 1985.