
FREUD
& JUNG
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Dưới
nhãn quan tâm lý học, chúng ta sẽ nghiên cứu hai cách tiếp cận về tôn giáo,
phân tâm học của Freud và Jung trong bài này, và chủ thuyết thực dụng của James
và Stark trong bài kế tiếp. Tuy Freud và Jung đều dùng phân tâm học, nhưng thái
độ của họ về tôn giáo thì khác nhau. Freud xem tôn giáo như là một sự đánh lừa
vốn để xoa dịu và giúp con người không phải đối diện với sự bất hòa nhận thức,
như bệnh nhân tâm thần dùng ảo giác để tránh né các tình huống oái ăm trong cuộc
sống. Trái lại, Jung cho rằng tôn giáo thể hiện một tiềm năng siêu việt không
chỉ cho cá nhân, mà hơn hết, là nguồn ý thức tập thể của con người qua các hình
mẫu tâm linh (archetypes). Cả hai quan điểm này cho chúng ta cái nhìn
phê phán và phổ quát hơn về tôn giáo trong bối cảnh mục vụ.
SIGMUND
FREUD PHÊ BÌNH TÔN GIÁO
Sigmund
Freud (1856–1939) sinh ra tại một làng Moravian ở Freiberg. Freud khởi đầu theo
đuổi ngành thần kinh học và sinh lý học, nhưng dần dần bị thu hút bởi tính hữu
hiệu của những can thiệp tâm lý vào việc trị liệu bệnh tâm thần. Khi nhận ra
mình có khả năng giúp các bệnh nhân giải tỏa bằng cách trò chuyện với họ, Freud
nghiên cứu phương pháp phân tâm và được nhiều người công nhận là cha đẻ của
ngành trị liệu tâm lý. Phong trào Nazi nổi lên làm gián đoạn sự nghiệp và danh
tiếng của Freud ở Vienna vì gốc Do Thái của gia đình ông và mặc dù ông là người
vô thần. Sau một thời gian do dự, cuối cùng Freud phải đút lót lính Nazi để được
di tản qua London. Ông mất tại đó sau 15 tháng vì bệnh ung thư.
Quan
điểm phân tâm học của Freud dựa trên mô hình của sự rối loạn tâm thần. Ông dùng
ví dụ về cách chữa trị một phụ nữ, vì quá khiếp sợ con nhện mà không dám vào
căn phòng của mình. Mẹ cô thường hay tự ý vào phòng cô mà không tôn trọng sự
riêng tư của con mình. Bác sĩ nhận thấy có mối liên hệ giữa mẹ cô gái và nỗi
khiếp sợ của cô với con nhện. Điểm khai mở là trong khi tư vấn tâm lý, cô ta thốt
lên: “Mẹ tôi cũng như con nhện vậy!” Cô bắt đầu nhận ra rằng,
mình bị người mẹ bao vây giống như con ruồi dính vào mạng nhện mà không lối
thoát. Vì không được phép thể hiện sự tức giận với mẹ mình, nên cô đã chuyển tải
sự tức giận đó qua con nhện. Điều này tạo nên một cái “van” an toàn cho cảm xúc
tức giận của cô. Một khi cô ý thức được mối liên hệ này, cô đã vượt qua được nỗi
khiếp sợ về con nhện và bắt đầu đối diện với sự tức giận của mình.
Trong
phân tâm học, tình trạng rối loạn thần kinh là do bệnh nhân gây ra bởi việc
chuyển hướng năng lực tiêu cực của mình sang một đối tượng nào đó; tình trạng rối
loạn này có thể được xóa tan, một khi ta khám phá ra nguồn gốc thật sự của nó.
Freud cho rằng vô thức là nơi mà những ý tưởng và cảm xúc không được tiếp nhận,
vì nó đang bị đè nén và phải tìm cách giải tỏa các năng lực này một cách an toàn.
Phân tâm học cần nhận diện mối liên hệ giữa đối tượng của sự chuyển hướng với
tình huống thực tế của cuộc sống. Tuy nhiên, cách Freud kết nối xung lực của trẻ
con với sự ham muốn tình dục hay ganh tỵ đối với cha mẹ đã gây chấn động cho
các đồng nghiệp của ông.
Tôn
giáo và ảo giác
Freud
xem tôn giáo cũng là cách chuyển hướng những nỗi lo âu của con người qua các biểu
tượng vô thực và tha hóa, vốn là một sự đánh lừa mà có thể ngăn cản được nếu
con người đối diện trực tiếp với các vấn nạn và bất mãn trong cuộc sống. Tôn
giáo là sự rối loạn thần kinh vì các nghi thức tôn giáo phản ánh hành vi mang
tính nghi thức của bệnh nhân tâm thần. Giống như một hội chứng ảo giác thần
kinh (neurosis), tôn giáo được dùng như cái “van” an toàn để giải tỏa sự
căng thẳng tâm thần, nhưng lại không thể giải quyết tận căn những vấn đề thực tế
mà con người phải đối diện trong cuộc sống. Một khi bệnh nhân hồi phục và tự
mình đi đứng được thì cặp nạng gỗ không cần thiết nữa. Cũng thế, một khi con
người nhận diện được đối tượng của rối loạn thần kinh, thì con người có thể sống
lành mạnh hơn mà chẳng cần đến tôn giáo.
Freud
trình bày quan điểm về tôn giáo của ông trong hai tác phẩm cổ điển. Tác phẩm Vật
linh và điều cấm kỵ (Totem und Tabu, 1913) mô tả sự tương
đồng giữa huyền thoại của thổ dân và bệnh rối loạn thần kinh. Freud liên kết
nguồn gốc tôn giáo độc thần với sự tích các người con trai đồng tình với nhau
giết cha mình. Do mặc cảm tội lỗi về việc ám sát người cha, họ sợ hãi và tự hứa
sẽ không bao giờ tái phạm. Việc ám sát này đưa đến thảm họa loạn luân, vì động
lực của việc ám sát chính là lòng ham muốn chiếm đoạt người mẹ. Nhưng vì người
cha đã bị sát hại và các người con trai không thể bày tỏ sự hối hận và đền bù về
tội lỗi của mình, nên chúng đã tôn thờ và nâng ông lên như một vị Chúa Cha. Cho
dù đây chỉ là một trình thuật tưởng tượng và không có chứng cứ lịch sử, nhưng
nó thường được dùng như ẩn dụ để minh họa cho tình huống tha hóa trong phân tâm
học. Nguyên thủy, sự kiện giết hại người cha trở thành biểu tượng của rối loạn tâm
thần, đã được xuất hiện qua nhiều hình thức tương tự trong các trình thuật tôn
giáo và văn hóa nơi các xã hội khác.
Tác
phẩm Tương lai của một ảo giác (Die Zukunft einer
Illusion, 1927) trình bày ba cách giải thích mà khái niệm tôn giáo được
truyền đạt: Đầu tiên là do tổ tiên của loài người tin vào các truyện thần thoại;
rồi sau đó, các chứng cớ về chúng được tích lũy; và cuối cùng, thắc mắc hay
hoài nghi về tính chân thực của chúng đều bị cấm đoán. Theo ngôn ngữ tâm lý học,
niềm tin tôn giáo là một hiện tượng bị đánh lừa, vốn hoàn thành những ảo giác cổ
xưa, quyền lực và những điều thúc bách nhất của nhân loại. Sự đánh lừa thường
do thiếu khả năng nhận thức về thực tại, nhưng sự đánh lừa qua ảo giác là những
gì mà con người muốn tin vào một thực tại khả thi. Ảo giác thì không liên quan
gì đến thực tại bên ngoài, nhưng ảo giác dựa trên lý lẽ tại sao chúng ta tin và
ước muốn điều mà chúng ta mong được thỏa mãn. Người ta tin vào chúng không phải
vì chúng có thật, nhưng vì họ muốn chúng có thật.
Tương
tự như Marx, Freud xem tôn giáo vừa là hàng rào giúp con người làm chủ các xung
lực xấu xa của mình, vừa là sự an ủi bồi đắp cho những thiếu thốn và bất mãn của
con người. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải đè nén bản năng và ngăn cản sự hỗn
loạn xã hội. Như là tiếng nói của đại ngã (super ego), tôn giáo biến đổi
những cấm đoán từ xã hội bên ngoài thành những răn đe nội tâm. Mặt khác, nếu
không có xã hội và tôn giáo, thì con người sẽ bị bỏ mặc trong thế giới tự
nhiên, bất lực và tìm mọi cách làm cho thiên nhiên trở nên thân thiện với ước
muốn của chính mình. Từ đó, con người phải tạo nên hình ảnh một nhân vật từ bi,
rồi nuôi dưỡng và phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài thế giới như là một ảo giác.
Trong khi Feuerbach xem Thiên Chúa là sự phóng chiếu những ước muốn thiện hảo của
con người; thì đối với Freud, Thiên Chúa là một hầm chứa những nỗi lo sợ và ảo
vọng của sự bất xứng mà con người không dám nhận ra từ mình. Qua cách phóng chiếu
sự bất xứng ra ngoài, con người có thể đối phó với những truân chuyên trong định
mệnh của cuộc sống.
Giá
trị của tôn giáo
Vì
tôn giáo là sự rối loạn tâm thần, nên giá trị của nó không thể được chấp nhận
như là hiển nhiên. Chứng cớ và giáo huấn của tôn giáo không phải là những chọn
lựa sáng suốt và thuyết phục. Tôn giáo có thể giải tỏa tạm thời những áp bức
gây nên do bị đè nén tâm linh (cầu nguyện, thiền, tĩnh tâm, v.v.), nhưng tốt
hơn hết, chúng ta cần đối diện với những bức xúc này một cách trực tiếp qua tâm
lý trị liệu. Trong khi sự đè nén mang tính ấu trĩ và cổ hủ thuộc phạm vi cá
nhân được thể hiện qua hiện tượng rối loạn tâm thần của trẻ em, thì Freud cho rằng
tôn giáo biểu thị các nhu cầu này ở mức độ cộng đồng, do đó cần hóa giải chúng
với sự oái ăm của định mệnh và bù đắp những mất mát do bị xã hội chiếm đoạt.
Chúng ta cần đem vấn đề bị dồn nén ở vô thức vào ý thức để chúng được đối diện
và giải quyết theo sự hiểu biết của người lớn. Nếu tôn giáo không được loại trừ,
thì con người sẽ luôn mãi sống trong sự ấu trĩ, và sẽ không bao giờ đối diện được
với thực tại chân chính.
Phương
pháp lý luận loại suy của Freud mang tính chú giải. Thay vi đưa ra một giả thuyết
về nguyên nhân của sự kiện rồi chứng minh là nó chính xác như trong thế giới,
Freud chỉ đề nghị chúng ta nhìn sự kiện qua một nhãn quan nào đó. Quan điểm
phân tâm học của Freud đã tạo khung cho suy tư về tôn giáo, nhưng không có
nghĩa rằng những khẳng định của nó là đúng. Nhiều học giả cho rằng, quan điểm
tôn giáo của Freud thiếu khoa học vì không đưa ra chứng cớ nghiên cứu nào, mà
chỉ dựa vào kinh nghiệm phân tích các bệnh nhân. Đa số các chuyên viên tâm lý
trị liệu không còn chấp nhận chủ nghĩa vô thần mà Freud đòi hỏi trong phân tâm
học nữa. Nhưng dù sao Freud cũng đã giúp chúng ta nhận ra giống như cách trị liệu
bệnh tâm thần, tâm linh con người cũng có thể được giải thoát khỏi những yếu tố
thiếu lành mạnh của tôn giáo. Phương pháp trị liệu phân tâm có thể biến đổi một
tôn giáo bệnh hoạn thành một tôn giáo lành mạnh hơn.
CARL
JUNG TÔN DƯƠNG TÔN GIÁO

Carl
Gustav Jung (1875–1961) sinh ra tại Kesswil, Switzerland. Khi còn trẻ, Jung có
tính tình rất hướng nội và thích sống cô lập. Ông cho rằng mình sở hữu hai cá
tính khác biệt mà ông gọi là Nhân vật 1 và Nhân vật 2. Ông thích nghiên cứu triết
học và các hoạt động tâm linh bất thường. Tại Basel, Jung theo học ngành y khoa
với chuyên môn về tâm lý trị liệu; và sau đó, làm việc tại một trung tâm y tế ở
Zürich. Năm 1903, Jung kết hôn với Emma Rauschenbach, là người tiếp tục nghiên
cứu với ông mãi cho đến khi ông qua đời.
Jung
hợp tác với Sigmund Freud trong các năm 1906–1913. Lúc đầu, quan điểm của họ bổ
túc cho nhau nhưng vẫn có những khác biệt về bản chất của vô thức, về quan niệm
tính dục như là động lực cho mọi hành vi, và về vai trò huyền bí của tôn giáo.
Jung cũng cảm thấy không thoải mái với khát vọng của Freud muốn biến ông thành
một bản sao trung thành của Freud. Sau khi chia tay với Freud, Jung trải qua một
“cơn bệnh sáng tạo.” Ông có giấc mơ về Âu Châu đang bị chảy máu, và Thế Chiến I
bùng nổ. Từ đó, ông từ bỏ nghành y khoa, dành thời giờ trọn vẹn cho việc đọc và
viết sách. Sau khi Thế Chiến I chấm dứt, Jung du lịch khắp nơi trên thế giới,
và có ấn tượng nhiều nhất về Ấn Độ. Ông say mê đọc các sách về huyền thoại, và
tìm hiểu tiến trình các biểu tượng được sản xuất như thế nào từ tâm linh con
người.
Jung
khởi đầu như một trong những đồ đệ sáng giá nhất của Freud. Thế nhưng, một khi
Jung suy tư độc lập về tâm lý học và các bệnh liên quan, ông xem tôn giáo như
nguồn năng lực cho sự chữa lành và quân bình tâm linh vốn kết nối con người với
nhau. Jung xem tôn giáo là một yếu tố cần thiết giúp con người tiếp cận với trực
giác tập thể và vĩ mô của cá nhân chúng ta. Thực tại này có thể được gọi bằng
nhiều tên khác nhau; thế nhưng, nó đại diện cho một mạng lưới đồng điệu hay một
ý thức đại đồng, vốn đã được ghi tạc vào tâm thức của cá nhân. Nội dung của nó
là những hình mẫu, tức là những biểu tượng phổ quát giúp con người tổ chức và tạo
ý nghĩa cho sự tồn tại của con người. Kết hợp với suy tư biện luận và duy lý,
các hình mẫu và biểu tượng này cho phép con người tiếp cận thế giới trong sự
quân bình và đầy ý nghĩa.
Tôn
giáo và hình mẫu của vô thức
Jung
tự mô tả mình là nhà “hiện tượng luận” tâm linh. Kinh nghiệm là nền tảng, cho
dù nó có ý vị là đại diện cho chính nó hay không. Là một tâm lý gia lâm sàng và
chuyên viên trị liệu, Jung lưu tâm nhiều về hiệu quả và chức năng sáng tạo của
tâm linh hơn là thực tại khách quan bên ngoài. Trong khi Freud nhìn vô thức như
là “hầm chứa rác” gồm những nội dung bị đè nén, thì Jung nhìn vô thức một cách
trung lập gồm những gì mà chủ thể không ý thức đến.
Jung
tin rằng vô thức có hai phần: cá nhân và tập thể. Vô thức cá nhân là những xung
lực tích tụ qua trải nghiệm cuộc sống của cá nhân. Vô thức tập thể là gia sản
mà cá nhân thừa hưởng được như thành phần của nhân loại. Là kho dữ liệu tâm
linh quan trọng, vô thức tập thể tạo nên cấu trúc của ý thức và kết nối cách
huyền bí mọi cá nhân con người lại với nhau qua các hình mẫu (archetypes)
của nó. Tuy chúng là thực tại tâm linh, những ý thức của chúng có thể được kiểm
chứng cách thực nghiệm qua động lực cá nhân và tập thể của con người. Các hình
mẫu được tiếp cận qua giấc mơ, nhưng bản chất của chúng là phổ quát và được thấy
qua sự tái diễn của chúng nơi các huyền thoại và biểu tượng văn hóa trên thế giới
(như hiện tượng “có hai mẹ” hay “có hai bản tính”).
Đối
với Jung, các hình mẫu trong vô thức là những bản năng, không cần sự hỗ trợ của
lý trí, nhưng lại thể hiện các nhu cầu căn bản và mãnh liệt của con người. Con
người tiền sử tiếp cận các nhu cầu này qua giấc mơ và những phương pháp huyền
bí hay loại suy. Thế nhưng, con người hiện đại đã tạo nên khủng hoảng cho chính
mình khi loại bỏ giấc mơ, hay cho rằng nhu cầu căn bản và mãnh liệt của con người
chỉ là vết thương tâm linh. Jung không xem tôn giáo như kiểu thuộc về giai đoạn
ấu thơ của nhân loại, nhưng là nhu cầu gắn bó lâu dài vào các hình mẫu mà con
người không bao giờ kết thúc được. Vô thức là nguồn sáng tạo và là công cụ hỗ
trợ cho quan điểm của Jung về tôn giáo. Trong khi Freud xem bệnh hoang tưởng có
thể chữa được qua cách mang nội dung của vô thức vào trong ý thức; còn Jung lại
cho rằng khi một hình thức tôn giáo không còn ý nghĩa nữa, thì chúng ta cần đầu
tư năng lực của vô thức vào các hình thức khác hữu hiệu và phù hợp hơn. Thay vì
cắt bỏ hay loại trừ các hình mẫu của vô thức, con người có thể lắng nghe tiếng
gọi của vô thức và trở nên sáng tạo hơn trong cách áp dụng hình mẫu vào các
tình huống bế tắc của tôn giáo.
Bóng
tối của vô thức
Jung
dùng ví dụ về khái niệm “Ba Ngôi” để minh họa mối tương quan giữa tâm lý học và
tôn giáo học. Trong triết học Platô, hình mẫu tam giác được thể hiện qua bộ
ba lý trí-tinh thần-dục vọng, vua-lính-thương
gia, hay bản chất vàng-bạc-đồng. Thế nhưng, hình mẫu tam
giác thì không tương xứng cho sự Thánh Thiêng như trong các thần thoại cổ xưa,
vốn luôn được đại diện bằng một vòng tròn chia thành bốn hình vuông. Do đó,
Jung đề nghị rằng, ngoài ba hình vuông đại diện cho Ba Ngôi, thì hình vuông thứ
tư có thể được lấp đầy bằng các hình mẫu Đức Trinh Nữ hoặc Satan. Trong khi Tin
Lành thường cảnh tỉnh con người về tội lỗi qua biểu tượng “Satan,” thì Công
Giáo nhấn mạnh về sự bảo bọc và lòng từ bi của Thiên Chúa qua biểu tượng “Đức Mẹ.”
Lý tính tân thời, vì quá lệ thuộc vào tính nhất quán của logic, xem sự đối lập
như điều cần phải loại trừ; vì thế, lý tính tân thời không thể kết hợp các biểu
tượng đối nghịch này lại với nhau thành một bức tranh hoàn hảo được.
Jung
lưu tâm về ảnh hưởng của tôn giáo lên trạng thái tâm linh con người. Jung giải
thích các biểu tượng tôn giáo (tạo dựng, nhập thể, cứu rỗi, thập giá, cánh
chung, v.v.) như là hình mẫu chứ không phải là thực tại tự thân. Là di sản của
ý thức tập thể, biểu tượng tôn giáo có thể làm cho cá nhân tê liệt nếu cá nhân
quá đồng nhất với một hình mẫu nào đó, nhưng cũng có thể cung cấp năng lực lành
mạnh cho đời sống. Tôn giáo có khía cạnh mãnh liệt hay bóng tối của nó, nhưng nếu
cá nhân biết cách hội nhập và thích ứng với các năng lực này thì chúng sẽ trở
nên những tiềm năng sáng tạo.
Tuy
nhiên, con người sẽ thất bại nếu giữ thái độ quá duy lý hay chối bỏ bóng tối
như là nghịch lý đối với các giá trị của mình. Từ chối các hình mẫu về bóng tối
như là không thuộc về mình là cắt bỏ sự vẹn toàn của tâm linh con người. Hiện
tượng luận hình mẫu của Jung thì khác với lối tiếp cận biểu tượng tôn giáo của
thần học truyền thống. Nhưng nó đã mở ra một lối suy tư phổ quát hơn, có khả
năng vượt trên phạm vi ý thức và bao gồm cả về sự tái diễn của hình mẫu qua giấc
mộng và các chuyện thần thoại. Joseph Cambell đã phổ biến khái niệm này qua nhiều
sáng tác và cung cấp nguồn tri liệu sáng tạo cho bộ phim Star Wars của George
Lucas.
Kết
Nói
chung, cả Freud và Jung đều cho thấy mối tương quan năng động giữa vô thức và
tôn giáo. Trong lúc Freud xem tôn giáo như sự đánh lừa hay ảo giác, thì Jung nhận
ra tiềm năng siêu việt của vô thức trong tôn giáo. Tôn giáo vừa đại diện cho sự
ràng buộc của siêu ngã, vừa là nguồn năng lực giải phóng cho con người. Tôn
giáo dễ bị lạm dụng nhưng cũng là nguồn tư liệu hữu hiệu cho sự chữa lành. Là hữu
thể tâm linh, con người bị rung động bởi tôn giáo, vì tôn giáo là một hiện tượng
bí ẩn, lôi cuốn và khiếp sợ đối với con người. Vì thế, mọi nỗ lực lý giải ảnh
hưởng của tôn giáo mà loại trừ chiều sâu của vô thức thì sẽ là khiếm khuyết. Lối
tiếp cận tôn giáo của Freud và Jung có thể cung cấp cho chúng ta một cái nhìn
bao quát và phê phán hơn trong phạm vi linh hướng hay tư vấn mục vụ nếu chúng
ta biết cách kết nối cả hai lãnh vực ý thức và vô thức với nhau.
Tài
liệu tham khảo
Carl
Jung. Psychology and Religion (The Terry Lectures).
Yale University Press, 1977.
Sigmund
Freud. The Future of an Illusion (Die Zukunft einer
Illusion, 1927). The Standard Edition, 1989.
Charles
B. Jones. Introduction to the Study of Religion. The Teaching
Company, 2014.