TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC (II):
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Sau
khi sơ lược qua mối tương quan giữa tôn giáo và vô thức của Freud và Jung;
trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu mối tương quan giữa niềm tin tôn giáo và ý
thức (ý chí, chọn lựa) của con người. William James, là một nhà tâm lý học và đồng
sáng lập triết thuyết thực dụng, cho rằng niềm tin tôn giáo xuất phát từ ý chí
muốn tin, vì không ai có thể chờ đợi cho đến khi tất cả mọi sự phải hiện diện
trước khi đưa ra phán đoán. Do đó, niềm tin tôn giáo tuy không nhất thiết phải
hợp lý, nhưng là thực dụng trong cách con người đối diện với những truân chuyên
trong cuộc sống. Mặt khác, Rodney Stark xem niềm tin tôn giáo như là hậu quả của
một sự tính toán và cân nhắc hợp lý, để con người có thể thụ hưởng giá trị của
những cái mà chúng ta khao khát được sở hữu. Cả hai quan điểm thực dụng và thực
nghiệm này cho thấy tôn giáo không chỉ là một hiện tượng xã hội khách quan mà
còn là hiệu quả hợp lý của ý thức và động lực tâm lý nữa.
WILLIAM JAMES (1842–1910):
TRẢI NGHIỆM TÔN GIÁO
Đóng
góp của William James vào nền tri thức của Hoa Kỳ thì rất rộng rãi bao gồm nhiều
lĩnh vực, nhưng chúng ta chỉ giới hạn vào cách ông dùng tâm lý học và triết học
để hình thành một học thuyết về tôn giáo. James sáng lập trường phái Thực Dụng,
vốn cho rằng chân lý trừu tượng thì không đáng để nghiên cứu, và muốn chú tâm đến
cách niềm tin và thái độ gây nên tác động trên thế giới. Đối với James, niềm
tin tôn giáo không phải là kết luận hợp lý từ những tranh luận xuyên suốt,
nhưng là điều thuyết phục chúng ta hành động và được mang vào hiện hữu bằng sức
mạnh của ý chí.
James
được sinh ra trong một gia đình bề thế ở vùng New England. Anh ruột của ông là
một nhà văn trứ danh, Henry James. Trong thời gian ở Harvard, James tham gia
các cuộc thám hiểm trên sông Amazon ở Nam Mỹ. Khởi đầu sự nghiệp, James làm
giáo sư về Cơ thể học nhưng sau đó chuyển qua dạy Tâm lý học. Cùng với C.S.
Pierce, James sáng lập trường phái triết học Thực Dụng. Chủ thuyết này xem nhẹ
giá trị nội tại của ý tưởng, nhưng lại nhấn mạnh đến hiệu quả của ý tưởng trong
việc tạo nên hành vi. Đối với James, tôn giáo không phải là tập hợp những định
đề chân lý buộc phải chấp nhận, nhưng là một hành vi năng động do sự chọn lựa
thực sự và ý chí muốn tin của con người.
Sau
thế kỷ XVIII, triết học Tây Phương bắt đầu hoài nghi về tính hiệu lực của lý
thuyết thuần túy. Gotthold Lessing (1729–1781) dùng dụ ngôn ba người con
cùng muốn dành quyền thừa hưởng chiếc nhẫn người cha để lại để minh họa sự
tranh giành giữa Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo về tính đích tôn chính thống
của mình. Nhưng chiếc nhẫn thần kỳ này chỉ vừa ngón tay của người con nào có cuộc
sống luân lý và đạo đức xứng đáng khi họ thử vào. Kant đề nghị phương án “lý
tính thực hành” vốn có thể lý giải các nghịch lý của lý trí và niềm tin tôn
giáo. Trong toán học, hình học không gian thử thách hình học mặt phẳng cổ điển
của Euclid vốn đã thống trị tri thức con người hơn hai nguyên niên, với mục
đích giúp cho nghiên cứu khoa học phù hợp hơn với chuyễn động trong thế giới thực
tế. Triết học Thực Dụng cho rằng ý tưởng có ý nghĩa, khi và chỉ khi chúng mang
lại hiệu quả trong cuộc sống. Một ý tưởng thuần túy tuy thú vị, nhưng nếu không
tạo nên hiệu quả thì không có tầm quan trọng gì cả. Hiệu quả của ý tưởng nằm
trong khả năng biến đổi cảm xúc và thôi thúc cá nhân hành động. Tri thức là kết
quả được tích lũy từ của kinh nghiệm thành công và thất bại trong “dòng chảy
liên tục của ý thức” mà con người đã trải nghiệm.
Thuyết
thực dụng về tôn giáo
Niềm
tin tôn giáo không chỉ dựa trên lý trí để vươn lên hầu chấp nhận một định đề được
cho là đúng, nhưng còn là sự thủ đắc của một niềm tin đối với những ý định và
chủ động để dẫn đưa đến hành động. Hành vi của ý chí này bao gồm các yếu tố bên
ngoài lý trí, do đó chúng ta cần phải chú tâm đến khía cạnh cảm xúc của niềm
tin. Có những sự chọn lựa bên ngoài phạm vi lý trí thuần túy thúc đẩy con người
chấp nhận những chọn lựa gần như là phi lý. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao
một người nhận thấy niềm tin này thật lôi cuốn, trong khi người khác lại vô cảm
về nó. Do đó, không phải lý trí, mà tâm lý mới là yếu tố nền tảng trong việc
nghiên cứu niềm tin tôn giáo. Có những vấn nạn quan trọng về tôn giáo mà tự nó
không thể giải quyết được bằng lý trí, nhưng phải dựa vào ý chí chọn lựa và
khía cạnh cảm xúc của con người.
Lý
tính không bao giờ là nguyên nhân tối hậu của bất cứ niềm tin nào cả, vì hiếm
khi chúng ta có mọi chứng cớ để quyết định. Giới hạn về thông tin có nghĩa là
niềm tin không hoàn toàn dựa trên nền tảng của lý trí. Không ai có thể nán lại
niềm tin của mình cho đến khi có đầy đủ mọi chứng cớ. Một khi chúng ta bước vào
cuộc sống, chúng ta cần phải hành động, và hành động của chúng ta đều phải dựa
trên nền tảng của niềm tin nào đó. Tình trạng ‘mãi hoài nghi vì sợ bị đánh lừa’
sẽ đánh mất cơ hội tốt. Đây là thực tại không thể tránh được trong cuộc sống; mọi
người đều phải hành động dựa trên nền tảng của niềm tin của họ.
James
thẳng thắng loại bỏ những nghiên cứu về chân lý trừu tượng. Ông nhấn mạnh rằng,
con người hành động theo niềm tin căn bản; và một khi hành động đó mang lại hiệu
quả thích đáng cho cuộc sống, thì nó được cũng cố và trở thành chân lý. Do đó,
chân lý là cái xảy ra trong khi con người thử nghiệm ý chí muốn tin của mình
trong thế giới. Do đó, chỉ có tôn giáo xứng đáng với tên gọi của nó là tôn giáo
đòi hỏi chúng ta phải thật sự chọn lựa, quyết định và dấn thân.
Các
loại trải nghiệm về tôn giáo
Trong
tác phẩm cổ điển Các loại trải nghiệm tôn giáo (The
Varieties of Religious Experience, 1902) James liệt kê và phân loại nhiều
trải nghiệm tôn giáo theo phạm trù lành mạnh hay bệnh hoạn, dựa trên cá tính và
hành vi mà chúng cổ võ. James giới hạn nghiên cứu tôn giáo học trong phạm vi trải
nghiệm cá nhân, và loại bỏ mọi cứu xét về các hệ thống thần học hay các tổ chức
tôn giáo. Ông tra cứu các nguồn tri liệu như: nhật ký, lý lịch, tự truyện và
các tác phẩm cá biệt, vốn có thể giúp nhận diện những dấu vết nội tâm của cuộc
sống thánh thiện. Nghiên cứu của ông mang tính tâm lý học vì nó không chú tâm đến
tính xác thực, nhưng chú tâm đến chân lý đã được nhận thức qua trải nghiệm cá
nhân và hiệu quả mà chúng mang lại. Khi nhấn mạnh vào trải nghiệm và hiệu quả của
niềm tin tôn giáo, James gạt bỏ các vấn đề về nguồn gốc tôn giáo. Ông cho rằng
các giả thuyết về nguốn gốc tôn giáo đa phần chỉ là suy tưởng và thiếu kiên định.
Vấn đề nguồn gốc tôn giáo cần phải được tách biệt ra khỏi vấn đề về giá trị tôn
giáo.
Trong
khi nghiên cứu, James chọn dùng những loại trải nghiệm và hành vi tôn giáo có
khuynh hướng kích động và thôi thúc đối với cá nhân. Những đồn đãi về trải nghiệm
tôn giáo của đám đông thì không đủ mạnh để soi sáng hiện tượng này. Trái lại,
các trải nghiệm mang tính cá nhân, mãnh liệt và hiếm có sẽ hé mở cho chúng ta một
cách khác biệt để nhận diện các hiện tượng đặt thù so với kinh nghiệm tôn giáo
thông thường. Các nhân vật lập dị hay cuồng tín thường được xem như là trường hợp
điển hình và chân chính để nghiên cứu về niềm tin tôn giáo. Trải nghiệm tôn
giáo mang tính cực đoan sẽ làm cho chủ thể bị cuốn hút sâu vào đó hơn, vì thế
mà nó có thể mang lại những trải nghiệm sâu sắc hơn nhiều cho chủ thể.
Từ
những chứng từ của các trải nghiệm tôn giáo mang tính cá nhân, James đúc kết được
ba phạm trù về trải nghiệm tôn giáo. Loại thứ nhất là trải nghiệm tôn giáo lành
mạnh, vốn làm cho chủ thể có cái nhìn lạc quan và đủ mạnh để đối phó với mọi
khó khăn trong cuộc sống. Loại thứ hai là những tâm hồn bệnh hoạn đưa đến suy
tư rằng, có điều gì sai lầm bên trong họ vốn thôi thúc họ tìm cách giải quyết
qua tôn giáo. Loại thứ ba là những kẻ tâm linh đang bị phân tán, một trải nghiệm
mà qua đó, cá nhân nhận thức mình cần có sự hoán cải, trở nên hoàn thiện và
liêm chính, vốn chỉ có được qua thực hành tôn giáo.
James
tin rằng sự đa dạng tôn giáo là điều cần thiết và không thể tránh được, vì có
nhiều loại cá tính và nhu cầu tâm linh khác nhau của con người. Ông chống lại ý
kiến lập nên một “khoa học về tôn giáo”; bởi vì như thế, sẽ đánh mất trải nghiệm
chân thật về đời sống tôn giáo, vốn chỉ có thể hiểu được qua cách lắng nghe trải
nghiệm của những cá nhân đạo đức. Tuy nhiên, James cũng không chối bỏ việc có
nhiều loại tri thức thứ cấp hàm chứa trong tôn giáo.
RODNEY STARK (1934–):
TÔN GIÁO VÀ SỰ CHỌN LỰA HỢP LÝ
Khởi
đầu từ Comte, hầu hết tất cả học thuyết xã hội học về tôn giáo đều giả định rằng,
tôn giáo là một năng lực phản tiến hóa cho xã hội. Qua những hiểu biết sai lầm
và mê tín dị đoan, tôn giáo đã làm cho bước tiến của nhân loại bị dậm chân tại
chỗ, và mê hoặc các tín đồ tiếp tục bám víu vào niềm tin và thực hành cổ hủ.
Khoảng cuối thập niên 1970, nhiều học giả chống lại giả định này và cho rằng
tôn giáo thì giống như mọi hoạt động hữu lý khác của con người. Phong trào này
cho ra đời học thuyết “chọn lựa hợp lý” vốn lý giải rằng, con người là một hữu
thể bị lôi cuốn bởi mục đích. Một khi con người chọn lộ trình để đạt đến mục
tiêu của mình, thì họ sẽ tính toán về giá trị phải trả để làm sao thủ đắt cho
được; điều này đòi hỏi sự cân nhắc về cách thức ăn mặc, tương quan với tha nhân
hay cả mạng sống nữa. Stark và các bạn đồng nghiệp đưa ra một số “nguyên lý”
căn bản được xem như là nền tảng hợp lý cho niềm tin và thực hành tôn giáo.
Rodney Stark nghiên cứu xã hội học, nhưng cách lý giải về tôn giáo của họ lại
nhấn mạnh vào chiều kích tâm lý xã hội. Do đó, chúng ta có thể xếp Stark vào
nhóm tâm lý học về tôn giáo.
Tâm
lý xã hội và sự chọn lựa hợp lý
Nhóm
nghiên cứu “chọn lựa hợp lý” chống lại lối giải thích giản lược về tôn giáo như
là một thứ “chìa khóa” duy nhất mở ra thực tại (chẳng hạn như “thuốc phiện ý thức
hệ” của Marx). Họ nhận thấy các quan điểm của Marx, Freud và Durkheim tuy có khả
năng áp dụng rộng rãi nhưng lại thiếu chiều sâu. Họ chỉ ra rằng, các trường
phái trước đây chỉ đưa ra những ẩn dụ chứ không phải là học thuyết về tôn giáo.
Họ chống lại quan điểm tiêu cực cho rằng tôn giáo tự bản chất là phi-lý, một thứ
khoa học sơ khai, một trạng thái rối loạn tâm thần, hay liều thuốc mê giúp giới
lao động tạm thời thoát khỏi sự tha hóa của họ. Họ lý luận rằng, một học thuyết
mà ngay từ đầu loại bỏ tính hợp lý của tôn giáo thì không thể thông diễn được sức
mạnh vững bền của tôn giáo. Học thuyết mới của họ nhấn mạnh hai điểm quan trọng.
Thứ nhất, nó giả định niềm tin và sinh hoạt tôn giáo là hữu lý, căn cứ trên sự
hiểu biết thế nào là hợp lý. Thứ hai, nó không khai triển những giả thuyết vĩ
mô về tôn giáo, nhưng chỉ đề nghị những câu hỏi và tìm ra câu trả lời cho các
hiện tượng tôn giáo được quan sát trong thế giới. Lối suy diễn của học thuyết
này thì không dựa trên các tín điều tôn giáo hay bất cứ nguyên lý siêu nghiệm
nào cả.
Thuyết
“chọn lựa hợp lý,” dựa trên nền tảng lý thuyết “đổi chác” kinh tế, giải thích rằng
con người để lộ bản tính hợp lý của mình qua cách họ cân nhắc tỷ lệ đổi chác để
mang lại nhiều giá trị nhất cho họ. Trong đa số các tình huống, con người sẽ đổi
chác bất cứ thứ gì mà họ sở hữu, để đổi lấy phần thưởng mà họ ước muốn và có khả
năng đạt được. Tuy nhiên, đôi khi phần thưởng thì lại ít ỏi và hiếm hoi, vả lại
còn bị thao túng bởi những kẻ có quyền lực (ví dụ, một tòa lâu đài). Có những
phần thưởng thì không thực tế và không có cách nào kiểm chứng được (ví dụ, sự sống
vĩnh cửu). Điều này có nghĩa là: Có những phần thưởng mà con người không thể tự
mình bảo đảm sự chiếm hữu về nó. Đứng trước tình huống đó, con người có sự chọn
lựa, hoặc là từ bỏ mọi hy vọng chiếm hữu phần thưởng đó, hoặc là chấp nhận một
sự bồi thường khác thay vào đó.
Theo
hệ hình lý giải này, tôn giáo được định nghĩa như là “hệ thống gồm các bồi thường
dựa trên những giả định siêu nhiên.” Các hình thức bồi thường được hiện thực bởi
chuyên gia tôn giáo (linh mục, giáo sĩ), vốn hành xử như trung gian phân phối sự
bồi thường cho các đối tác trên danh nghĩa Thiên Chúa. Các chuyên gia sẽ cần được
huấn luyện, một khi xã hội phát triển và trở nên phức tạp. Giống như mọi việc
điều hành kinh doanh, việc tổ chức tôn giáo cũng sẽ tìm cách độc quyền trong tiến
trình đổi chác và tẩy chay các thế lực cạnh tranh. Điều này chỉ có thể hiện thực
được bằng cách kết hợp với quyền lực chuyên chế của nhà nước. Để tránh khả năng
nhà kinh doanh trở nên độc quyền, biếng nhát và ỷ lại, thì bối cảnh đa dạng tôn
giáo sẽ cần thiết, vì nó không để cho giới kinh doanh ngủ quên trên các nguồn
tư lợi của họ
Áp
dụng thuyết “chọn lựa hợp lý” vào tôn giáo
Khác
với các học thuyết thế tục khác, học thuyết “chọn lựa hợp lý” xem tôn giáo như
là sự phức hợp của những sản phẩm và dịch vụ vốn đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác
nhau, ngay cả đối với những người giàu có. Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội đa
dạng với sự cạnh tranh của nhiều tôn giáo, thì tổ chức tôn giáo cần phải liên tục
cập nhật và thích ứng với nhu cầu của những “khách hàng” tương lai. Lợi điểm của
học thuyết này là nó giải thích được lý do tại sao các tôn giáo bảo thủ vẫn tiếp
tục phát triển. Khi cân nhắc về tính hợp lý của tôn giáo, con người không chỉ
nhìn vào sự tốn kém nhưng còn cả giá trị của nó nữa. Tiêu biểu, một khi sản phẩm
và dịch vụ được kết nối với nhau, thì sự lưu tâm của khách hàng về việc đầu tư
vào các sản phẩm sẽ thực sự làm gia tăng chất lượng của nó, và làm cho nó trở
thành một món hàng có giá trị hơn. Mức độ đầu tư cao sẽ đưa đến khả năng loại
trừ các mưu đồ “ăn theo” và gia tăng giá trị của các sản phẩm.
Các
học thuyết trước chỉ nói về tôn giáo như những ẩn dụ khác nhau của cùng một sự
kiện xã hội hay tâm linh. Học thuyết “chọn lựa hợp lý” chú tâm đến những gì tôn
giáo thực sự truyền đạt và thực hành. Học thuyết này cho rằng tín điều, nghi thức
và việc thực hành tôn giáo là những món hàng hay sản phẩm đang được trưng bày
nơi phố chợ. Chính vì thế, học thuyết “chọn lựa hợp lý” thường bị chỉ trích là
chỉ hình thức hóa tôn giáo nhưng không thể giải quyết mọi vấn đề của nó. Thế
nhưng, đây là một học thuyết về tâm lý xã hội, và chỉ có thể giúp chúng ta tìm
hiểu sự phát triển về cấu trúc của tôn giáo như sự đổi chác trong xã hội. Nó giải
thích cách động lực tâm lý của xã hội tác động lên sự tồn tại của tôn giáo.
Trong
một nền kinh tế thị trường, tôn giáo cũng phải cạnh tranh với những “món hàng”
hay “dịch vụ” khác, để dành được thị phần vốn không phải là vô hạn. Do đó, giới
“kinh doanh tôn giáo” không chỉ phải đáp ứng nhu cầu tâm lý của người tiêu thụ,
mà còn phải tiên liệu về những xu hướng hay trào lưu tâm lý xã hội nữa. Những
câu hỏi về nội dung của tín lý hay thực tại thánh thiêng của tôn giáo thì nằm
ngoài phạm vi của nó. Các học giả của trường phái này yêu cầu học thuyết của họ,
như mọi học thuyết khác, cần phải được đánh giá dựa trên tính hiệu lực, thống
nhất và hữu dụng của chúng, khi chúng được dùng để giải quyết những vấn nạn cụ
thể về tôn giáo.
Kết
Như
chúng ta đã thấy, xã hội học khai thác vai trò tích cực và tiêu cực của tôn
giáo trong sự cấu kết của tập thể xã hội và tâm lý học nhận diện động lực vô thức
lẫn ý thức qua những nỗ lực siêu thăng của cá nhân con người. Nhãn quan tâm lý
học giải thích tôn giáo như sự ưu tư tối hậu của con người. Họ cho rằng tôn
giáo không chỉ xuất phát từ sự lôi cuốn và thôi thúc đến từ chiều sâu của tâm
linh, mà còn là sự chọn lựa hợp lý và ý chí muốn tin của con người. Tôn giáo là
một thực tại phức tạp và có nhiều chiều kích mâu thuẩn vốn cần phải được tiếp cận
từ nhiều gốc độ lý thuyết khác nhau. Cả hai nhãn quan xã hội học và tâm lý học
hiểu tôn giáo như là “chìa khóa” để chú giải cơ cấu xã hội hay các xung lực của
con người. Nhưng tôn giáo còn là cách con người chiếu phóng sự tồn tại của mình
qua ngôn ngữ và biểu tượng hầu để tạo nên một thế giới đầy ý nghĩa cho mình. Do
đó, chúng ta cần một cách tiếp cận có khả năng bộc lộ cấu trúc và nội dung của
các biểu tượng tôn giáo trong tương quan với nỗ lực tồn tại của con người. Đây
là thử thách mà khoa nhân học về tôn giáo sẽ tìm cách đáp ứng.
Tài
liệu tham khảo
Systematic
Theology: Roman Catholic Perspectives. Francis Schussler
Fiorenza & John P. Galvin (eds), Fortress Press, 1991.
The Variety
of Religious Experiences. William James,
Longmans, Green & Co, 1902.
The Future of Religion: Secularization, Revival, and Cult Formation . Rodney Stark, University of California Press, 1985.