Joseph Tân Nguyễn,
OFM
Tôn giáo là một bộ
phận quan trọng trong đời sống của hàng triệu con người trên thế giới. Mỗi
ngày, bất cứ ở đâu và bất cứ giờ khắc nào cũng có thể tìm thấy con người trong
một hình thức nào đó đang cầu nguyện, đọc kinh, suy gẫm, tụng niệm, ca hát, đọc
sách thiêng liêng, thờ cúng, rước lễ, linh hướng, đồng hành, tĩnh tâm, hay học
và dạy giáo lý v.v. Con người muốn đào sâu sự hiểu biết và dấn thân vào niềm
tin tôn giáo như một sức sống nội tâm, một trải nghiệm từ bên trong chiều sâu của
tâm hồn.
Nhưng tôn giáo
cũng có thể được cảm nhận từ quan điểm bên ngoài nữa. Các học giả, sử gia,
chính trị gia, chuyên gia, nhà báo quan sát tôn giáo qua những hoạt động của cộng
đồng tín hữu hay các giáo phái. Họ đưa ra những câu hỏi xa lạ, không liên quan
gì đến đức tin, và có thể gây nên hoài nghi và khó chịu nơi các tín hữu. Ví dụ,
họ không hề muốn biết Kinh Thánh có thật là lời Thiên Chúa mặc khải, nhưng lại
đặt những câu hỏi về tích xác thực và lịch sử tính của bản văn, hay những mâu
thuẫn giữa niềm tin và cách sống của cá nhân và cộng đoàn tôn giáo. Sự hoài
nghi này không chỉ có nơi các nhà nghiên cứu tôn giáo học mà còn cả nơi các tín
hữu. Nếu chúng ta muốn nghiên cứu tôn giáo cách khoa học, thì chúng ta cần phải
có một thái độ khách quan và độc lập về các giá trị mà tôn giáo đóng góp vào xã
hội và cá nhân con người.
Từ thế kỷ 16, vì
thất vọng với những cuộc tranh chấp đỗ máu của Chiến Tranh Tôn Giáo theo sau
giai đoạn Phong Trào Cải Cách, người ta bắt đầu suy tư về tôn giáo từ bên ngoài
quan điểm của thẩm quyền Giáo hội. Họ đặt vấn đề về bản chất thánh thiêng của
tôn giáo và xem nó không khác gì những sản phẩm văn hóa của nhân loại như văn
chương, nghệ thuật giao tiếp, v.v.. Trong thời Ánh Sáng, tôn giáo được hiểu là
khởi nguồn từ nhu các nhu cầu căn bản của con người, với lịch sử tự nhiên như
các khoa học khác, chứ không gì là siêu nhiên hay biệt lập.
Lối giải thích tôn
giáo từ các góc độ tri thức học thuật sớm muộn sẽ đưa đến sự giản lược. Tâm lý
gia tiếp cận tôn giáo như những động lực tâm lý cá nhân, nhà nghiên cứu xã hội
nhìn tôn giáo như một diễn tiến xã hội. Kết cuộc là có nhiều học thuyết thế tục
về nguồn gốc, bản chất và chức năng của tôn giáo đã ra đời. Tuy khác nhau về
quan điểm tiếp cận và cách thẩm định về giá trị của tôn giáo, nhưng các học
thuyết này đều đồng ý là tôn giáo nên được nghiên cứu từ gốc độ khách quan và
ngoài phạm vi niềm tin tôn giáo.
Bước sang thế kỷ
20, một số học giả khác phản hồi lại lối giải thích giản lược của khoa tôn giáo
học trên đây. Họ đề nghị phương pháp “hiện tượng luận” và lý luận rằng tôn giáo
không thể bị thu giảm về một nền tảng lý thuyết nào hết, nhưng cần phải hiểu nó
như là một hiện tượng đặc thù với thực tại tự thân (sui generis) của nó. Cho dù
các quan điểm này không gắn bó với cách thần học giải thích tôn giáo, nhưng
chúng vẫn tôn trọng tính vẹn toàn và sự thống nhất nội bộ của niềm tin tôn
giáo.
Các nỗ lực định nghĩa “Tôn giáo” từ thế kỷ XVI
Trước khi đi sâu
vào môn “Tôn giáo học” chúng ta hãy lược qua các nỗ lực định nghĩa tôn giáo và
ranh giới nghiên cứu giữa hai phạm vi thần học và tôn giáo học.
Trước thế kỷ XVI,
mọi nghiên cứu về tôn giáo đều mang hình thức thần học, trong bối cảnh giáo hội
và với mục đích phục vụ cho cộng đoàn các tín hữu. Mọi lý luận thời đó đều giả
định rằng chân lý tôn giáo thì được mạc khải qua Kinh Thánh, cho dù mỗi thế hệ
cần tìm hiểu rõ hơn về nội dung của chúng. Thần học gia đóng vai một lãnh đạo
tri thức, có thầm quyền để bàn luận và khai triển các chân lý vốn cũng cố đời sống
đức tin của các tín hữu.
Hai yếu tố quan trọng
trong lịch sử Âu Châu đã đưa đến thay đổi về não trạng này là: hiện tượng đa dạng
tôn giáo, và sự trổi dậy của khoa học và triết học duy lý. Đứng trước sự tàn
phá của chiến tranh tôn giáo kéo dài theo sau cuộc phân ly Cải Cách, các Giáo hội
tìm cách giải hòa và sống chung với nhau tuy vẫn có sự khác biệt về thẩm quyền
tôn giáo. Mặc khác, khám phá khoa học thời Khai Sáng đưa ra những chân lý mâu
thuẫn với thẩm quyền Giáo Hội làm cho giáo lý tôn giáo trở nên cổ hủ. Từ đó,
môn tôn giáo học ra đời, dựa trên nền tảng đa-giáo phái. Môn học này cố gắng giải
thích một cách phê phán nguồn gốc của tôn giáo, và dùng khoa học để giải thích
cho sự xuất hiện của các phong trào cuồng tín.
Ở thế kỷ 16, hạn từ
“tôn giáo” được dùng để nói về lối sống phù hợp với Kitô giáo chân chính, như
thế các thực hành đức tin ngoại giáo thì được xem như là thờ ngẫu tượng hay “rối
đạo.” Nhưng với ảnh hưởng của phong trào Lãng Mạn ở thế kỷ 18-19, hạn từ “tôn
giáo” được xem như là thái độ cá nhân về thực tại tối hậu, đồng nghĩa với “niềm
tin.” Một khi nhiều niềm tin tôn giáo khác biệt được khám phá trên thế giới,
thì hạn từ “tôn giáo” được hiểu theo nghĩa đa dạng hay số nhiều.
Ngày nay, thần bí
học không muốn giới hạn tôn giáo vào bất cứ một định nghĩa nào. Ngành tu từ học
giải thích tôn giáo theo lịch sử của lối dùng hạn từ này. Xã hội học và tâm lý
học định nghĩa tôn giáo theo chức năng hay vai trò của nó trong sự hình thành
cơ cấu xã hội hay tâm lý con người. Các chủ thuyết duy thực dùng bản chất tôn
giáo như lý luận nền tảng. Nói chung, định nghĩa về tôn giáo thường nhấn mạnh
vào hai khía cạnh chính yếu. Một bên cho rằng tôn giáo là sự thâm nhập của thực
tại thánh thiêng hay siêu việt vào cuộc sống con người, và bên kia thì xem tôn
giáo như là thái độ ưu tư tối hậu của con người trong cuộc sống hiện sinh. Cả
hai đều công nhận niềm tin vào thực tại siêu việt là yếu tố nền tảng cùa tôn
giáo, và niềm tin đó gây ảnh hưởng lên trạng thái xã hội, tâm lý, nhân lý và
triết lý của con người.
Tôn Giáo học và Thần học
Trước khi khoa
“tôn giáo học” xuất hiện thì các khảo cứu và tranh biện về tôn giáo chỉ xảy ra
dưới trướng của thần học, và chỉ có mục đích phục vụ hay gia tăng ý nghĩa cho đời
sống đức tin của cộng đoàn. Trong hai thế kỷ 15 & 16 ở Pháp, chiến tranh
tôn giáo kéo dài liên lĩ mà không rõ sẽ kết cuộc ra sao. Mãi cho đến Hòa Ước
Nantes 1598 thì người Công Giáo và Tin Lành tại Huguenots mới bắt đầu tìm thỏa
hiệp chung sống với sự khác biệt về cách họ hiểu tôn giáo. Các nhà tri thức bắt
đầu khai triển những phạm trù tôn giáo phổ quát hơn, bao gồm niềm tin và hoạt động
tôn giáo bên trong lẫn bên ngoài Kitô giáo. Jean Bodin (1530-96)[i] và Edward Herbert
(1583-1648)[ii] đề xướng về một loại thần
học vượt ngoài ranh giới của niềm tin Kitô giáo. Mặc khác, Bernard Fontenelle
(1657-1757)[iii] và Giambattista Vico
(1668-1744)[iv] giải thích nguồn gốc và
chức năng của tôn giáo từ góc độ khách quan của khoa học tự nhiên.
Khởi đầu, cuộc chiến
lan tràn giữa các tôn giáo thờ cùng một Đấng Tối Cao đã đưa đến sự hoài nghi về
khả năng thần học tự nó có thể giải quyết mọi tranh chấp chính trị xã hội.
Bodin đề nghị các tôn giáo chính yếu thời đó như Tin Lành, Công Giáo, Do Thái
giáo, Hồi giáo và các giáo phái khác cùng ngồi lại và thảo luận với nhau. Ông
đưa ra giả thuyết rằng tôn giáo tốt nhất phải là tôn giáo xưa nhất và gần nhất
với “biến cố” Tạo Dựng. Nhưng đề nghị này đã không mang đến kết quả đáng kể
nào, cho dù cuộc thảo luận vẫn tiếp tục.
Tại Đức quốc, Hòa Ước Augsburg (1555) tạm thời giải
hòa các tranh chấp giữa giáo hội Lutheran và Công giáo, nhưng cách mạng của
giáo phái “Calvinism” đã làm cho nền hòa bình mong manh này sớm tan vỡ. Kết quả
là cuộc chiến “Ba Mươi Năm” (1618-48) đã gây nhiều tổn hại và tàn phá cuộc sống
thường ngày của xã hội châu Âu. Chính trị gia Herbert ở Cherbury đề nghị thay
thế học thuyết tôn giáo của Bodin với 5 tiêu chuẩn: chỉ có một Thiên Chúa;
chúng ta phải tôn thờ Người; mọi tôn giáo phải tập sống nhân đức; con người phải
thống hối cho tội lỗi của mình; có sự thưởng phạt đời sau. Như vậy, phương cách
tiếp cận tôn giáo của cả Bodin và Herbert đều giới hạn sự hiểu biết về mạc khải
chỉ trong phạm vi được chấp nhận của truyền thống Kinh Thánh.
Fontenelle là người
đầu tiên đề nghị một học thuyết tiến hóa về tôn giáo bằng cách khai triển bối cảnh xuất xứ của tôn giáo. Ông
nghiên cứu tiến trình phát triển tôn giáo từ quan điểm khách quan của khoa học
nhân văn. Ông phân tích các chuyện thần thoại và nghi thức văn hóa cổ
xưa hầu để tái cấu trúc cơ cấu suy tư của con người cổ đại. Trong khi thời Khai
Sáng xem tôn giáo chỉ là sự cuồng tín dị đoan sai lầm về thế giới tự nhiên thì
Fontenelle khẳng định rằng con người cổ đại không ngu dốt như thế. Họ đã cố gắng
gia tăng tri thức qua những cách giải thích quyền lực thiên nhiên như chuyện thần
thoại hay nghi thức tôn giáo. Lúc đầu họ giải thích dựa trên quyền lực thần
thánh, nhưng từ từ các giải thích đó được cập nhật hóa một khi tri thức khoa học
mới được khám phá. Sự tiến hóa này vẫn còn thấy nơi các bộ lạc Âu châu tân thời.
Học thuyết của Fontenelle có sự đồng cảm với dân tộc cổ đại, thời đại mà trí
khôn con người đã cố gắng giải thích vũ trụ của họ qua cách tốt nhất họ có thể.
Vico cũng nhận ra
tính khoa học trong tôn giáo cổ đại như Fontenelle, nhưng thay vì nhấn mạnh về
chiều kích thiên nhiên thì ông khai triển chiều kích xã hội. Vico cho rằng tôn
giáo cũng như các hiện tượng văn hóa khác, bao gồm các yếu tố chung là nghi thức,
hành vi, cơ cấu luật lệ, và khái niệm về sự thánh thiêng. Đứng trước sức mạnh của
thiên nhiên, con người cổ đại đã phóng chiếu hình ảnh của mình lên vũ trụ và biến
chúng thành các thần thánh. Chính con người cổ đại đặt ra qui luật, thể chế và
cơ cấu cho cuộc sống của họ. Nhưng niềm tin về sự quan phòng thánh thiêng đã
làm cho nghi thức tôn giáo, như trong nghi lễ cưới hỏi và tang chế, trở thành
những điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của con người. Vico lý luận rằng con người
cổ đại không có lý tính khoa học như chúng ta ngày nay. Họ dùng chuyện thần thoại
và cổ tích để giải thích thế giới của họ vì họ suy nghĩ theo cách huyền thoại.
Như thế cả
Fontenelle và Vico đã khai triển những lối giải thích nguồn gốc tự nhiên của
tôn giáo, và qua đó cứu vãn Kitô giáo khỏi bị khai trừ. Đối với họ, Kitô giáo vẫn
là tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, không xuất phát từ con người mà được mặc
khải từ Thượng Đế.
David Hume khởi đầu sự phân ly
Trong khi các học
giả trên đây vẫn giữ mối tương quan giữa thần học và tôn giáo học thì David
Hume (1711-76)[v]
đã tách biệt chúng hoàn toàn và khởi đầu cho hành trình nghiên cứu tôn giáo từ
quan điểm thế tục. Các tác phẩm được xuất bản sau khi Hume qua đời cho thấy
quan điểm thế tục của ông cho rằng thực tại chỉ là “căn nhà một tầng,” không có
gì là siêu việt hay thánh thiêng áp đặt lên nó. Hume nghiên cứu tôn giáo như là
một hiện tượng xuất phát từ thế giới chúng ta đang sống và có thể được phân
tích và mô tả như mọi hiện tượng tự nhiên khác. Ông đưa ra chủ thuyết “lịch sử
tự nhiên” của tôn giáo và đã mở đường cho khuynh hướng khoa học mới về tôn giáo
của Anh quốc.
Học giả Anh Quốc bắt
đầu khai thác các khía cạnh tiêu cực của tôn giáo. Mười lăm năm trước khi David
Hume ra đời, một học giả người Scotland bị án treo cổ tử hình vì đã xúc phạm đến
niềm tin tôn giáo cách công khai. Hume cũng bị từ chối địa vị xã hội nhiều lần
vì quan điểm thế tục của ông. Một số tác phẩm quan trọng của Hume chỉ được xuất
bản vô danh mãi cho đến sau khi ông qua đời. Hume cho rằng con người không có
tri thức bẩm sinh, nhưng tất cả nhận thức phải đi qua kinh nghiệm. Hume từ chối
mọi giải thích về tính bẩm sinh của tri thức hay chiều kích siêu nhiên của tôn
giáo. Điều này có nghĩa là tất cả mọi tri thức về tôn giáo cần phải được giải
thích tận nguồn từ trải nghiệm tự nhiên của chúng.
Hume cho rằng phép
lạ là trái với luật tự nhiên. Muốn tin vào phép lạ thì chúng ta phải thuyết phục
tính khả thi của chúng thì cao hơn tính khả thi của luật tự nhiên. Nhưng trong
thực tế thì không bao giờ làm được việc đó. Cho dù Hume không hoàn toàn loại bỏ
phép lạ và vẫn để cửa cho lý luận dựa trên chứng cớ, nhưng từ quan điểm duy
nghiệm, ông không chấp nhận phép lạ hay mặc khải siêu nhiên như nền tảng cho niềm
tin tôn giáo. Hume phân tích rằng luận cứ “Phát Họa” (Design Argument), tức là
hai luận cứ cuối cùng trong ngũ đạo của Tôma, giả định sự tồn tại của một kiến
trúc gia (Thượng Đế) vẽ nên họa đồ cho việc tạo dựng vũ trụ. Nhưng luận cứ này
không đứng vững vì các chứng cớ về “Sáng Thế” rút từ Kinh Thánh không phải là lời
chứng đến từ kinh nghiệm thật sự của người nào đó.
Theo Hume, tôn
giáo xuất phát từ hai nguồn tự nhiên: (1) Con người đối đầu với sức mạnh khủng
khiếp của thiên nhiên và tìm cách thống trị nổi lo sợ đó; (2) Sự đồng cảm và bị
lôi cuốn bởi “gương sáng” của những bậc “anh hùng” và từ đó con người khai triển
các nhân đức hay thói quen làm cho cuộc sống trở nên nhân đạo hơn. Hume không
nghĩ các tôn giáo độc thần tốt hay xấu hơn các tôn giáo đa thần, vì mỗi loại đều
có điểm mạnh và yếu. Tôn giáo độc thần thường trở nên giáo điều và cứng nhắc, bảo
kê cho tính độc đoán và bách hại tôn giáo. Tôn giáo đa thần tuy thiếu hợp lý và
tùy thuộc vào cảm xúc, nhưng lại chấp nhận nhiều cách chú giải thông thoáng và
uyễn chuyễn hơn. Chúng ta cần một cái nhìn tổng quát hơn về tôn giáo từ bên
ngoài quan điểm của thần học cổ điển. Các nhãn quan phổ phát này sẽ giúp cho sự
hiểu biết về đức tin được phong phú và phê phán hơn, và đó cũng là đóng góp vào
hành trình “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” của thần học.