TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN HIỆN TƯỢNG LUẬN
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Các nhãn quan xã hội
học, tâm lý học, nhân học trước đây đã khai triển nhiều về cách tôn giáo điều
phối cuộc sống nhân sinh, nhưng chưa phương pháp nào có thể truy tầm tận nguồn
thánh thiêng của tôn giáo cho bằng trường phái hiện tượng luận. Phương cách mà Kant
kết nối hai truyền thống tri thức luận duy lý và duy nghiệm với nhau, đã tạo
nên một sự chuyển hướng trong suy tư triết học về tôn giáo. Kant xem tri thức
như là hiện tượng hay hình ảnh mà tâm trí tạo nên vốn được diễn giải từ dữ liệu
của giác quan. Thay vì theo đuổi thế giới bên ngoài, thì triết học trở về với
tâm trí đang tìm kiếm điều kiện cho sự hiểu biết về thế giới. Hai triết gia Fries
và Otto sau đó đã áp dụng quan điểm hiện tượng luận duy tâm của Kant vào nghiên
cứu trải nghiệm về cái đẹp và sự thiêng liêng mà từ đó con người đã tạo ý nghĩa
cho cuộc sống. Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu phương pháp tổng hợp tiên
nghiệm của Kant về cái đẹp và cái cao cả, trước khi quan sát cách mà Fries và
Otto cải tiến hiện tượng luận của Kant và áp dụng vào việc nghiên cứu tôn giáo.
Sau đó, chúng ta sẽ lược qua phân tích của Eliade về hiện tượng sự thánh thiêng
đã xâm nhập vào thế giới con người cũng như đã để lại dấu vết trên biểu tượng
và tâm thức tôn giáo. Các triết gia hiện tượng học này đã tạo nên một trào lưu
mới trong khoa tôn giáo học hiện đại.
IMMANUEL KANT
(1724–1804): PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP TIÊN NGHIỆM
Phương pháp tổng hợp
tiên nghiệm của Kant đã tạo nên một sân khấu mới cho nhiều triết thuyết thế hệ sau
đó Trước Kant, triết học giả định cách vô tư là khi chúng ta suy nghĩ về thế giới
thì chúng ta đang tiếp cận một thực tại khách quan bên ngoài dựa trên hai nền tảng
tri thức luận căn bản. Trường phái duy lý cho rằng con người có một thứ “cảm thức
tôn giáo” bẩm sinh (Descartes) không khác gì với các ý niệm căn bản về toán học.
Trường phái duy nghiệm lý luận rằng trí khôn con người như tờ giấy trắng khi mới
sinh ra, và mọi sự hiểu biết là tích lũy của kinh nghiệm dựa trên các trải nghiệm
(Hume). Các ý niệm trừu tượng như nguyên nhân và hậu quả là do sự tổng hợp của
các kinh nghiệm quá khứ của chúng ta. Cũng thế, trong trường hợp tôn giáo, chúng
ta biết về Thiên Chúa qua những sự kiện tự nhiên trong thế giới. Quan điểm duy
nghiệm của Hume đã vực Kant dậy từ “giấc mộng giáo điều” (dogmatic slumbers)
và làm cho Kant bắt đầu suy tư về cách trí khôn nhận biết thế giới. Sự kiện này
đưa đến giai đoạn 11 năm trầm lặng về hoạt động tri thức, và kết thúc với một
công trình tổng hợp vĩ đại mà Kant gọi là Phê Phán Lý Trí Thuần Túy (1781). Kết
quả là triết học của Kant đã chuyển hướng từ thực tại bên ngoài đến phân tích
các điều kiện mà trí khôn dùng để nhận thức thực tại đó. Kant đã tạo nên một cuộc
cách mạng được biết đến với tên gọi là cuộc “trở về với chủ thể.”
Hạn từ “hiện tượng”
đến từ “phainonmenon” (hình ảnh). Hiện tượng luận là cách suy tư dựa
trên “hình ảnh” trong tâm thức của chủ thể về thế giới bên ngoài. Trí khôn không
thể nắm bắt cách trực tiếp bản chất của sự vật tự thân (Ding an sich),
vì bất cứ tri thức nào cũng phải được trung chuyển qua các giác quan. Trí khôn
đón nhận các dữ kiện khả giác, và đối chiếu nó với các hình ảnh đã có trước đó.
Dữ kiện khi đi vào trí khôn thì được sắp xếp theo phạm trù thời gian và không
gian, tuy không phải là tri thức bẩm sinh, nhưng là những khung tiên nghiệm vốn
điều phối dữ kiện để tạo nên tri thức. Khi nhìn một cái cây, chúng ta chỉ tiếp
cận hình dáng, màu sắc hay âm thanh đến, và từ đó tạo nên một hình ảnh có ý nghĩa
trong tâm trí. Qua các cấu trúc bản năng, trí khôn đón nhận hình ảnh như có thật
trong không gian và trải dài qua thời gian, cho dù chưa chắc đúng như thế trong
thực tại. Cái cây mà chúng ta biết chính là bức tranh hoàn tất do sự tương tác
với trí nhớ, ngôn ngữ và trải nghiệm trong quá khứ. Do đó thật là vô ích khi hỏi
bức tranh có phản ảnh thật sự với thế giới không. Hiện tượng luận của Kant
không chối bỏ sự tồn tại của thực tại khách quan bên ngoài vì chúng giúp giải
thích sự liên tục và liên đới của các chủ thể trong thế giới. Cho dù không thể
nhận thức được sự vật tự thân cách trực tiếp, nhưng từ cách con người xử lý
“hình ảnh” giống nhau, mà con người có thể truyền thông với nhau dựa trên sự tương
đồng căn bản trong cơ cấu của trí khôn.
Cái Đẹp và Cái Cao
Cả
Kant chú tâm đến cấu
trúc của trí khôn và các cơ chế được dùng để cảm nghiệm cái đẹp. Ông để ý rằng
khi cho rằng cái gì đó là đẹp, thì tuyên bố đó không chỉ là một khẳng định thuần
túy riêng tư mà còn có thể truyền đạt đến tha nhân nữa. Khả năng truyền thông
phán đoán về cái đẹp thì khả thi không vì đối tượng là đẹp trong chính nó nhưng
còn vì trí khôn của mọi người có cùng một cơ cấu. Nếu một người nhận ra cái đẹp,
thì những người khác cũng sẽ như vậy. Điều này làm cho trải nghiệm về cái đẹp của
một đối tượng trở thành phổ quát và tất yếu.
Phân tích tổng hợp
tiên nghiệm của Kant về cái cao cả đã để lại ảnh hưởng lớn trên ngành tôn giáo
học. Cái cao cả được trân trọng cho chính nó, vì tương tự như cái đẹp, cái cao
cả tạo nên cảm xúc khoái lạc và thể hiện trong sự hài hòa giữa các năng lực
phán đoán của trí khôn. Nhưng khác với cái đẹp, cái cao cả đem lại ý nghĩa cho
đối tượng nhận thức một sự siêu thăng từ chính nó, và gợi lên nhiều cảm xúc mãnh
liệt chứ không đơn thuần chỉ là khoái lạc và sung mãn. Cái cao cả không chỉ nuôi
dưỡng cảm thức mà còn gây nên sự kinh ngạc, khâm phục hay có thể xúc phạm đến nó
nữa. Kant áp dụng khái niệm cái cao cả vào việc lý giải tôn giáo. Tất cả mọi sự
vật trong thế giới không phải “thật” như nhau, vì có những thứ “thật” hơn, hay
có sự tồn tại dày đặc hơn những thứ khác. Ý tưởng “Thượng Đế” là một đối tượng
thật nhất trong toàn vũ trụ và là nền tảng cho khả năng tồn tại của mọi thực thể
khác.
Kant dùng lý luận
đạo đức và lý tính thực hành để “biện hộ” cho niềm tin tôn giáo. Con người, khởi
đầu từ trạng thái tội lỗi luân lý nhưng hướng về “sự thiện cao cả nhất.” Con
người tìm kiếm hạnh phúc, nhưng không chỉ ngừng lại ở sự thỏa mãn ước muốn hay
dục vọng của mình, mà loại hạnh phúc đến từ sự theo đuổi sự thiện cao cả nhất
vì chính nó. Con người nhận ra rằng hạnh phúc chỉ hợp lý khi nó xứng đáng được
hưởng. Niềm tin vào sự sống đời sau và sự bất tử của linh hồn thì được biện
minh qua nỗ lực theo đuổi lý tưởng luân lý ở đời này. Do đó, khả năng nhận thức
sự phù hợp giữa hạnh phúc đạt được và sự xứng đáng luân lý chứng tỏ rằng sự quan
phòng của Đấng toàn tri và toàn năng đang điều phối cách mà con người theo đuổi
lý tưởng hoàn hảo trong thế giới. Điều này có nghĩa là trong khi “chân lý” của
niềm tin có thể bị chất vấn, nhưng niềm tin tự nó đang được biện minh qua hiệu
quả thiện hảo của nó. Thượng Đế, sự bất tử của linh hồn hay sự quan phòng của
Thiên Chúa là những từ trường đang tác động lên cách mà con người tìm kiếm hạnh
phúc đến từ sự thiện tự thân.
Lối suy nghĩ này dẫn
đến chủ thuyết thực dụng, vốn cho rằng nội dung của chân lý thì không đáng quan
tâm cho bằng những gì nó mang lại cho chủ thể đang bám víu vào chân lý đó. Cuộc
cách mạng “trở về với chủ thể” của Kant đã mang lại ảnh hưởng sâu đậm lên các
nghiên cứu tôn giáo sau này. Lý tính thực hành của Kant dọn đường cho học thuyết
ngôn ngữ của Ferdinand Saussure và thuyết tâm lý thực dụng của William James. Phương
pháp tổng hợp tiên nghiệm của Kant cung cấp nền tảng cho nghiên cứu nhân học biểu
tượng của Claude Lévi-Strauss và Clifford Geertz. Cách Kant phân biệt giữa cái
đẹp và cái cao cả đã trở thành ý niệm điều phối cho hiện tượng học của Rudolf
Otto và Mircea Eliade về sự thánh thiêng.
HIỆN TƯỢNG LUẬN CẢI
TIẾN TỪ KANT: FRIES & OTTO
Phương pháp hiện
tượng luận của Kant chỉ ra rằng kinh nghiệm sẽ mang đầy ý nghĩa hơn khi chúng
được kết nối với thế giới thật bên ngoài. Từ đó, các nhà hiện tượng học về tôn
giáo cũng lý giải rằng cảm thức tôn giáo phải được hiểu như là những phản ứng của
con người về đối tượng tôn giáo thật sự. Đối tượng này là sự thánh thiêng, một
thực tại tuy bí ẩn nhưng có thể gây nên phản ứng khiếp sợ hay mê hoặc nơi con
người. Muốn nghiên cứu các phản ứng này cách trung thực thì chúng ta phải giả định
rằng sự tồn tại khách quan của sự thánh thiêng như là nền tảng cho trải nghiệm
tôn giáo. Do đó, tôn giáo không chỉ là khía cạnh tâm lý hay kinh tế của xã hội,
mà còn là một hiện tượng tồn tại tự thân.
Theo Kant, niềm
tin tôn giáo có thể được biện hộ dựa trên hai hình thức lý luận. Thứ nhất là
cách giải thích Thượng Đế như là điểm tụ dày đặc nhất của tồn tại và là trung
tâm phát xuất mọi khả năng tồn tại khác. Thứ đến, nếu lý tính thuần túy thất bại
thì sự lý giải luân lý sẽ được thay thế. Sự quan phòng của Thượng Đế và sự bất
tử của linh hồn, cho dù không thể minh chứng được, thì cũng không thể loại bỏ
được hoàn toàn. Kant đề nghị cách biện hộ thứ ba là chỉ ra các hiệu quả lợi ích
mà niềm tin tôn giáo tác động lên cuộc sống luân lý của các tín hữu. Tuy nhiên,
vì quá nhấn mạnh về tính phổ quát và tính hợp lý tuyệt đối của luân lý, quan điểm
khắc kỷ của Kant xem thường khía cạnh cảm xúc của tôn giáo. Vào cuối đời của Kant,
triết học lãng mạn, xuất phát từ chủ nghĩa Mộ Đạo (Pietism) vốn xem cảm
xúc như là nền tảng cho tôn giáo, thì được ưa chuộng hơn. Tác phẩm nổi danh của
F. Schleiermacher, Tôn Giáo: Đáp từ cho những kẻ bài văn hóa (On
Religion: Speeches to its Cultured Despisers, 1799) phê bình chủ thuyết
duy tâm của Kant là quá mỏng cho những ai muốn lưu tâm nhiều hơn về chiều kích
cảm xúc của tôn giáo. Từ nền tảng lãng mạn này, Fries và Otto đã khai thác sâu
sắc hơn các trải nghiệm của con người về cái đẹp và sự thánh thiêng.
Jakob Friedrich
Fries (1773–1843): Trải nghiệm Mỹ thuật
Trong phân tích lý
tính thuần túy của Kant, các vấn nạn về Thượng Đế, ý chí tự do và bất tử của
linh hồn không thể minh chứng là có thật hay không có thật được. Do đó chúng ta
được phép biện hộ cho niềm tin bằng cách chấp nhận hiệu quả vốn mang lại ảnh hưởng
thực tế và luân lý ở mức độ tốt nhất. Thế nhưng, Fries không thỏa mãn với thái
độ khắc kỷ và cách tiếp cận đầy tính toán của Kant đối với cái đẹp trong lãnh vực
mỹ thuật. Ngoài lý tính và luân lý, Fries đã thêm yếu tố cảm xúc vào dàn hòa tấu
mà thế giới mang lại cho chúng ta. Khi ta có trải nghiệm mỹ thuật về cái đẹp hoặc
trải nghiệm tôn giáo về sự thánh thiêng, thì có nghĩa là ta đang đón nhận cái
gì đó từ thế giới bên ngoài.
Dựa trên hiện tượng
luận của Kant, Fries cảm thấy được biện hộ khi cho rằng cảm xúc về cái đẹp hay
cái cao cả phải tương tác với thế giới thật bên ngoài và phải được xem là thật.
Thế nhưng các cảm xúc này là sự gợi cảm gợi cảm (ahndung) chứ không chỉ
là đối tượng được nhận thức, bởi vì chúng là sự trải nghiệm siêu thăng về thế
giới khả giác của các sự vật. Là những thực tại siêu thăng, chúng chỉ có thể được
đón nhận qua trực giác và không thể được trừu xuất từ lý trí. Đây là cách giải
thích tốt hơn cho tính liên chủ thể và thông tri của trải nghiệm mỹ thuật. Mục
đích của Fries là bổ túc cho quan điểm mỹ thuật của Kant, chứ không bảo vệ hay
tạo chỗ đứng cho tôn giáo trong khung tri thức luận của Kant.
Rudolf Otto
(1869–1937): Trải nghiệm về sự “Thiêng liêng”
Otto chấp nhận tiền
đề cho rằng cảm xúc hay sự gợi cảm có thể cung cấp nền tảng chân thực cho sự nhận
thức về thực tại bên ngoài. Nhưng khác với Fries, Otto khẳng định rằng cảm xúc
tôn giáo là mãnh liệt hơn là cảm xúc về cái đẹp. Otto nhấn mạnh đến cách mà Kant
mô tả về trải nghiệm về cái cao cả. Cái cao cả là cái đẹp nghiêm túc mà đối với
mỗi cá nhân như là một cái gì đó khác lạ, lôi cuốn và có thể khủng khiếp (ví dụ,
Martin Luther trong cơn bão tố). Otto cho rằng tôn giáo xuất phát từ sự tiếp
xúc với thực thể thiêng liêng hay bí ẩn “Numinous” (the Holy). Bởi vì, không
giống như mọi trải nghiệm khác, vì gặp gỡ sự thiêng liêng sẽ gợi lên phản ứng đặc
thù từ con người bao gồm cả kinh ngạc lẫn lôi cuốn hay thu hút, được mô tả là “mysterium,
tremendum et fascinans.”
Sự thiêng liêng là
cái hoàn toàn xa lạ và “bí ẩn” (mysterium), cực kỳ khác với trải nghiệm
bình thường của con người. Otto mô tả “khủng khiếp” (tremendum) như là
trải nghiệm bị bất lực, kinh ngạc và thôi thúc như được truyền tải năng lực. Sự
kinh ngạc sẽ “lôi cuốn” (fascinans) con người. Đây là trải nghiệm về sự
tối hậu, cùng đích và mãn nguyện. Nó được cảm nhận như sở hữu thực tại ở mức độ
dày đặc tối cao. Cuộc gặp gỡ này gây nên sự cảm ứng nơi cá nhân mà Otto gọi là “cảm
xúc thụ tạo.” Nó làm cho con người ý thức về thân phận bất tất và biến dịch triệt
để của mình trước sự hiện diện của sự thiêng liêng. Chỉ những ai đã
có trải nghiệm này thì mới thật sự hiểu tôn giáo. Nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đặt
luân lý trên nền tảng gặp gỡ với sự thiêng liêng, nhưng Otto thì cho rằng không
có lý do tất yếu nào mà hai khía cạnh này phải được kết nối, vì có rất nhiều
tôn giáo trên thế giới không liên kết chúng với nhau. Thực tại tự thân (sui generis)
của tôn giáo cần được nghiên cứu như là chính nó, chứ không thể bị giản lược
thành một khía cạnh của tâm lý học, xã hội học hay nhân học.
Tuy nhiên, quan điểm
tôn giáo của Otto còn nhiều thiếu sót. Học thuyết này lấy trải nghiệm của một số
cá nhân, nhưng lại khẳng định chúng như là bản chất của tôn giáo. Điền này muốn
ám chỉ rằng học giả không thể nghiên cứu tôn giáo nếu không có trải nghiệm về
“numinous” nơi chính họ. Một vài học giả thế tục cho rằng Otto đã tiếp cận tôn
giáo từ nhãn quan của đời sống ẩn tu dành riêng cho các thỉnh sinh. Tuy quan điểm
của Otto không cho phép tôn giáo đóng bất cứ một vai trò nào trong xã hội,
nhưng đã soi sáng lối suy tư của Mircea Eliade, người đã mang lại nhiều kết quả
phong phú trong ngành hiện tượng tôn giáo học.
MIRCEA ELIADE
(1907–1986): TRẢI NGHIỆM THÁNH THIÊNG
Trong khi Otto gọi
thực tại đứng sau mọi trải nghiệm tôn giáo là sự “thiêng liêng” (the holy),
thì Mircea Eliade thích gọi nó là “sự thánh thiêng” (the sacred). Eliade
không chỉ nới rộng cách nhìn của Otto vào phản ứng của cá nhân về sự thánh
thiêng mà còn về cách “sự thánh” xâm nhập vào thế giới con người. Sự xâm nhập
này để lại ảnh hưởng trên xã hội và văn hóa như được thấy từ cấu trúc phố xá, đỉnh
mái nhà cho đến các hình mẫu tâm linh cơ bản trong phân tích của Jung về nghệ
thuật kể chuyện cổ tích và truyền thông. Eliade xem sự thánh thiêng như sức mạnh
hình thành nên đời sống tập thể, và từ đó, ông đã khai thác các kiểu mẫu hay đường
nét thường xuyên xuất hiện trong trải nghiệm tôn giáo. Qua cách áp dụng phương
pháp phân tích so sánh của Frazer một cách phê phán, Eliade đã mang lại ảnh hưởng
rộng rãi nhất trong ngành hiện tượng học tôn giáo ở thế kỷ XX.
Hiện tượng Thánh thiêng
xâm nhập vào thế giới con người.
Eliade dùng từ
“thánh thiêng” (the sacred) thay vì “thiêng liêng” (the holy). Eliade
tin rằng mọi người đều có phản ứng về sự thánh, cho dù họ không gặp gỡ nó trực
tiếp. Con người dùng các biểu tượng để thể hiện nhiều khía cạnh của sự thánh thiêng.
Con người thiếp lập phố xá, xây đền đài, tổ chức không gian và thời gian trong
tương quan với sự thánh thiêng. Con người hiện đại, tuy coi thường sự thánh
thiêng nhưng vẫn có cảm xúc hoài cố về trải nghiệm của “người cổ đại” như được
thấy qua cách họ tiếp tục tìm hiểu và cảm nhận bản tính tôn giáo của “homo
religious.”
Cho dù khoa học nhận
thức không gian là liên tục và thống nhất, nhưng một tín đồ sẽ cảm nhận không
gian như được phân chia ra thành cõi thiêng và cõi phàm. Cõi phàm là không gian
sinh hoạt hằng ngày không màng đến thực tại tổng thể lớn hơn. Cõi thiêng là nơi
sự thánh thiêng được tỏ hiện (hierophany), và phải được đón nhận cách
phù hợp khi con người bước vào đó (đền thờ). Không gian thánh thiêng là điểm
tụ, hay trục thế giới (axis mundi), giúp con người định hướng sự tồn tại
của mình trong thế giới. Đây là nơi mà sự thánh thiêng xâm nhập vào cõi phàm, như
thành phố Mexicô là nơi chim ó và con rắn huyền thoại đã tranh chấp với nhau. Một
ngôi thánh đường, đền thờ, hay điểm hành hương có thể là trung tâm thánh thiêng
cho thành phố. Đối với tín đồ, cả thế giới thì được xem như quy tụ về một “đất
thánh” nào đó, như Giêrusalem, Rôma, Mecca. Bên ngoài không gian thánh thiêng
là sự hỗn tạp (chaos), hoang dã và xa lạ, nằm ngoài phạm vi của trật tự đã
được thánh hóa. Nhưng vì đây là nơi có
năng lực tái tạo, biến đổi, hay tiêu diệt con người, cho nên nghi thức khai tâm
hay thanh tẩy thường xảy ra tại đây, tương tự như trường hợp các ngôn sứ hay Đức
Giêsu vào sa mạc trước khi bắt đầu sứ vụ của mình.
Đời sống con người
cần điểm quy chiếu để biết họ đang ở đâu trong thế giới. Những người định cư
thường dựng nên một cấu trúc trung tâm (thánh đường với tháp cao) như là
điểm tụ thánh thiêng của mọi quy hướng. Những kẻ lưu đày thường mang theo một
linh vật gì đó để họ luôn nhận biết điểm trung tâm bất cứ họ đang ở đâu. Eliade
ví dụ về một bộ lạc thổ dân Úc châu để minh họa cho điều này: họ đã nằm xuống để
chết, khi “thiên trụ” của họ đã bị bể nát để minh họa điều này. Ý tưởng về
không gian thánh thiêng cũng được tỏ lộ qua bản đồ thế giới, được khám phá
trong sách Nhật tụng của một Đan viện ở thế kỷ XIII. Giêrusalem nằm ở trung
tâm, cho thấy nơi Thiên Chúa tỏ mình qua Đức Giêsu. Một khi ra khỏi trung tâm là
sự hỗn tạp và phân tán, đại diện bởi những con người chột mắt, què quặt hay tàn
tật. Bên ngoài vùng đất sinh sống là nơi hỗn tạp, đại diện bằng hình các con rắn
và rồng.
Thời gian cũng có
nhiều mức độ thánh thiêng và phàm tục khác nhau. Thời gian phàm tục là thời
gian bình thường, không có gì đặc biệt cả. Thế nhưng thời gian thánh thiêng là
thời điểm “khi ấy,” “lúc đó,” hồi xưa” (illud tempus) khi mà biến cố
thánh thiêng xảy ra và nghi thức về thời gian đã hồi tưởng và làm cho thời
gian thánh thiêng được tái hiện. “Illud tempus” là thời điểm của tạo thành và
là lúc mà tất cả mọi sự trong thế giới trở nên mới lại. Thời gian này không thuộc
về lịch sử, mà là thời gian của huyền thoại. Thời gian này sẽ tái diễn, căn cứ
theo các giai đoạn của mặt trăng và chu kỳ thay đổi của các mùa. Thời gian này
được thể hiện qua các nghi thức tôn giáo vốn được kể lại qua các huyền thoại.
Con người dùng nghi
thức và chuyện thần thoại để tái khẳng định sự hiện diện của sự thánh thiêng. Eliade
liệt kê các biểu tượng qua cách chúng xuất hiện nhiều nơi và nhiều lúc khác
nhau. Mặt trời đại diện cho sự phổ quát. Mặt trăng mang ý nghĩa về sự chết và hồi
sinh. Nước thể hiện cho sự hỗn loạn và bất định. Các biểu tượng Cha-Trời và Mẹ-Đất
thường xuyên được thấy trong các câu chuyện cổ tích dân gian. Việc gieo giống
hay trồng cây được xem như là biểu tượng của sự giao hợp. Qua việc tái diễn các
hành vi và biểu tượng, nghi thức đặt con người vào lãnh vực thánh thiêng vì nó
cho thấy những gì xảy ra hay những gì thần thánh đã làm ở “illud tempus.” Chuyện
thần thoại thì quan trọng cho nghi thức vì chúng kể lại hoạt động của thần
thánh. Chuyện thần thoại cung cấp cho con người mô hình hoạt động của thần
thánh, và giúp con người hiểu ý nghĩa tối hậu của cuộc sống thường ngày.
KẾT
Nói chung, cả hai học
giả Fries và Otto đều dùng phương pháp so sánh lịch sử để phân tích trải nghiệm
thánh thiêng của các tín đồ (homo religious), từ đó, họ đưa ra một số yếu
tính về tôn giáo. Eliade đi xa hơn trong nghiên cứu của ông về cách mà con người
biểu tượng hóa trải nghiệm thánh thiêng để tổ chức làng mạc và đời sống tâm
linh cho phù hợp với thời gian và không gian thánh thiêng. Tuy nhiên, Eliade đã
không hệ thống hóa tri thức về sự thánh thiêng và nói lên niềm khao khát và khả
năng đáp ứng phổ quát của con người. Thế nhưng tôn giáo là hiện tượng vửa tác động
lên con người như một lời mời gọi và vừa là cách thức mà con người đáp trả lại qua
ngôn ngữ của nghi thức và biểu tượng. Là một chủ thể năng động tuy què quặt
trong khả tính siêu việt, con người vẫn có khả năng lắng nghe và thông hiểu lời
mời gọi từ Đấng Thánh. Con người dùng nghi thức và biểu tượng để vượt lên thân
phận và tìm cách đáp trả cho xứng đáng với ơn gọi của mình. Nếu thần học (theo-logos)
là ngôn ngữ mà con người dùng để nói về Đấng Thánh, thì hiệu quả phân tích các biểu
tượng và nghi thức tôn giáo của Eliade có thể trở thành sân khấu cho thần học
căn bản.
Tài liệu tham khảo
Immanuel Kant. Groundwork of the Metaphysics
of Morals. Mary Gregor
& Christine M.
Korsgaard, edit & introduction. Cambridge University Press, 1998.
Bản gốc tiếng Đức, 1785.
Mircea Eliade. The
Sacred and the Profane: Nature of Religion. Harcourt Brace Jovanovich, New
York, 1957.
Rudolf Otto. The
Idea of the Holy. Oxford University, 1917.
Jakob Friedrich
Fries. Dialogues on Morality and Religion. David Walford trans. Blackwell
Publisher, New Jersey, 1982.