Giới thiệu sách mới của Cha Giuse Nguyễn Đoàn Tân, O.F.M.

TƯƠNG QUAN THẦN HỌC

Thần học (theo-logos) từ thời Cổ đại đã được hiểu là lời & lý lẽ “của” Thần thánh, nhưng đến thời Trung Cổ thì mang thêm ý nghĩa là lời & lý lẽ “về” Thiên Chúa. Giữa hai ý nghĩa này là những thay đổi trong chuỗi tương tác giữa các yếu tố mà qua lịch sử đã tạo nên nền thần học Kitô giáo. Sở dĩ có sự thay đổi là vì mọi ngôn ngữ về Thiên Chúa đều là sự kết nối giữa hai vế: một bên là truyền thống và biểu tượng tôn giáo, Kinh Thánh, mặc khải hay đức tin, và bên kia là tình huống xã hội, kinh nghiệm sống, ngôn ngữ triết học hay lý trí. Ngoài ra, còn có yếu tố thứ ba thiết yếu cho thần học, đó là lý thuyết hậu cảnh hay phương pháp mà thần học gia dùng để kết nối hai vế trên đây. Lý thuyết hậu cảnh có thể là phạm trù tri thức, phương pháp suy tư thần học, hay quan điểm của giáo quyền. Lý thuyết hậu cảnh điều phối sự tương tác giữa hai vế ở trên sao phù hợp với nhu cầu và tình huống đức tin hiện tại. Cả ba yếu tố đều hiện diện qua nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử. Tuy nhiên yếu tố thứ ba thường chỉ được nhận ra sau khi các giả định trong thần học cũ không còn thích hợp, và được thay thế bằng một lý thuyết hậu cảnh mới.

Nghiên cứu về bản chất tương quan của thần học là việc tìm hiểu các nét đặc thù, phong phú và đa dạng mà ngôn ngữ về Thiên Chúa đã để lại. Chúng ta sẽ quan sát cách cụ thể các biến chuyển trong nhu cầu của đức tin như: biện minh cho sự tồn tại của Giáo hội, hỗ trợ cho các nhu cầu cho đời sống đức tin, minh chứng tính hợp lý của đức tin, khẳng định vị thế khoa học của thần học, củng cố vai trò của thẩm quyền Giáo hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng của lý tính, và khai triển ngôn ngữ tôn giáo cho thích ứng với bối cảnh văn hóa. Từ đó chúng ta mới có thể nhận diện các hình thức tương quan đã xuất hiện trong lịch sử suy tư thần học. Chúng ta sẽ thấy, dưới Khai Sáng của mặc khải, con người đã dùng mọi loại ký hiệu, biểu tượng, phạm trù triết học và ngay cả sự tĩnh lặng để “nói với” và “nói về” Thiên Chúa, thích ứng cho mọi hoàn cảnh và tình huống đức tin.

Chính vì nỗ lực vừa đáp ứng tính khách quan của một khoa học vừa có liên hệ mật thiết với thân phận mong manh của đức tin cho nên thần học phải luôn tồn tại trong trạng thái tương quan cân bằng với các yếu tố khác. Suốt trong quá trình lịch sử của mình, sự tồn tại của thần học đã phải chịu mang tính mơ hồ bất đắc dĩ này. Suy tư thần học đã được ví như là một con thuyền bồng bềnh giữa biển cả sóng dồn hơn là một chiếc kim tự tháp đặt móng nền kiên cố trong lòng đá sâu. Tuy vậy, qua nhiều thế kỷ biến chuyển, thần học cũng cố sức xác định cho được một số hằng tố làm bản chất đồng nhất, đặc thù và kiên định cho mình. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp ta nhận định các hằng tố đó.


THÔNG DIỄN HỌC

“Hermeneutics” là bộ môn nghiên cứu còn tương đối mới ở Việt Nam. Cách dịch từ này sang tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất: thông diễn học, giải thích học, thích nghĩa học, diễn nghĩa học, v.v... Truyền thống giải thích học bắt nguồn từ triết học Hy Lạp Cổ Đại, đến thời Trung Cổ trở thành phương pháp chú giải Kinh Thánh, và thời Cận Đại mở rộng bao gồm việc phục hồi ý nghĩa  tiềm tàng trong văn hóa và lịch sử. Qua ảnh hưởng của triết hiện tượng, giải thích học đặt lại vấn đề hiểu chủ thể lịch sử, và qua triết hiện sinh, giải thích học kết nối vấn đề “hiểu đối tượng” với “hiểu chính mình.” Từ đó, thông diễn học có sứ mệnh song đôi, vừa khai mở và đón nhận chân lý hàm chứa trong truyền thống, vừa có khả năng lột trần các ý thức tha hóa đang tiềm ẩn trong tiến trình thông diễn.

Tiến trình thay đổi trên đây phản ánh qua ba phạm vi của việc tìm hiểu ý nghĩa: “bên trong” bản văn, “phía sau”bản văn và“phía trước”bản văn, và cũng tương ứng với ba hoạt động của thông diễn học trong lịch sử: (1) phương pháp chú giải Kinh Thánh, (2) khoa nghiên cứu cách giải thích văn hóa và lịch sử, (3) nền tảng thông diễn trong các khoa nhân học, thần học, và xã hội học phê phán.

Cuốn sách này mong đáp ứng nhu cầu của những ai muốn có sự hiểu biết tổng quát về môn thông diễn học, đặc biệt là các ứng sinh đang chuẩn bị bước vào con đường mục vụ tương lai như: soạn bài giảng, lắng nghe và hiểu đối tượng được tư vấn, biện phân trong linh hướng và đồng hành, suy tư hay sáng tác thần học, v.v. Nói chung, chúng  ta cần ý thức các mức độ ý nghĩa được đan quyện với nhau trong “bản văn,” vốn có thể là ngôn ngữ, lời nói, hành vi và những cách thể hiện của con người.


ĐẠO ĐỨC HỌC

Cuốn sách này là kết quả của nhiều năm dạy môn Đạo Đức Học tại Quincy University (Illinois, USA), các Đại Chủng Viện hay Học Viện Thần Học ở Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam đã có một số giáo trình về các môn Thần Học Luân Lý, Luân Lý Sinh Học, Luân Lý Tính Dục, Luân Lý Mục vụ, v.v... Tuy nhiên, giáo trình cho một môn học về các vấn đề nền tảng trong triết học đạo đức thì chưa được phong phú cho lắm. Nếu có thì các giáo trình này thường tiếp cận đạo đức học từ nhãn quan của thần học luân lý. Do đó, cuốn sách này mong đáp ứng nhu cầu giúp cho sinh viên triết học có một cái nhìn tổng quát và phê phán về đạo đức, khả năng phân tích các vấn đề liên quan đến phán đoán đạo đức và biết cách áp dụng các học thuyết đạo đức đương thời vào những tình huống cụ thể trong cuộc sống.

Trong những năm khởi đầu dạy môn này, nhân dịp tham dự Đại hội Triết học (American Association of Philosophy Teachers, Seattle, 1997), tôi đã bắt gặp cuốn sách rất thực tế của C.E. Harris, “Applying Moral Theories.” Ấn tượng về cách trình bày minh bạch của tác giả, tôi đã dùng tài liệu này nhiều năm và nhận thấy sinh viên tiếp thu rất tích cực. Vì thế, tôi đã dùng phương pháp của Harris để khai triển cách áp dụng các học thuyết đạo đức trong phần thứ nhì của sách này. Tôi hết lòng tri ân tác giả.

Nội dung cuốn sách này gồm hai phần. Phần đầu gồm bốn chương, giới thiệu triết học đạo đức một cách hệ thống, sơ lược qua phạm vi, lý luận, lịch sử và nền tảng của tri thức đạo đức. Các chủ đề liên quan như tương đối/tuyệt đối, chủ quan/khách quan, tự do/tất định, tiến hóa và niềm tin tôn giáo sẽ được bàn đến.  Phần thứ hai bắt đầu từ Chương V, khai triển cách áp dụng năm học thuyết đạo đức thông dụng hiện nay: vị kỷ, vị lợi, luật tự nhiên, bổn phận, nhân đức. Theo kinh nghiệm của tôi, sinh viên thường gặp khó khăn về cách biện phân các giá trị hay quy tắc luân lý được giả định bởi một mệnh đề phán đoán. Do đó, Chương V có thể được thực tập song song với các chương đầu, với mục đích tập cho sinh viên khả năng phân tích một tình huống trước khi bước vào phần hai và học cách dùng các thuyết đạo đức học để phán đoán tình huống đó.

Cuốn sách này cũng là thành quả của sự đóng góp do nhiều giáo sư đồng nghiệp, chủng sinh, người phác họa lưu đồ, và anh em Phanxicô thuộc hai Tỉnh dòng Việt Nam và USA. Cuối cùng, một tác phẩm đầu tay về một chủ đề rộng lớn chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót, tôi rất mong được độc giả bốn phương góp ý và bổ sung thêm. Xin Thiên Chúa đổ tràn hồng ân xuống anh chị em.


TRIẾT HỌC THIÊN NHIÊN

Đối tượng của siêu hình học là hữu thể, và trong truyển thống triết học Kitô giáo có ba chủ đề lớn: Thiên Chúa (Thần lý học, theodicy), Con Người (Triết nhân học, anthropology) và Vũ Trụ (Vũ trụ luận hay triết học thiên nhiên, cosmology). Từ “cosmos” tiếng Hy-lạp mang ý nghĩa một vẽ đẹp, mỹ thuật hay sự trang điểm (gốc của từ “cosmetic”). Tương tự, từ “universe” là do hai chữ Latin “unum” và “vertere” ghép lại, nói về một hệ thống duy nhất. Vũ trụ được hiểu như là một đối tượng khả niệm và có mục đích, qua đó con người có thể nhận ra bản chất của thực tại và thân phận của mình. Các nhà tiền triết Hy-lạp đưa ra nhiều giả thuyết về bản chất của “cosmos” và cố gắng giải thích thiên nhiên bằng các lộ trình tri thức không nại đến thẩm quyền tôn giáo hay thần thánh. Thay vì diễn giải “logos” của chuyện thần thoại, các nhà vũ trụ luận dùng luận lý biện chứng, dựa trên các quan sát của mình rồi xoáy sâu hơn về căn nguyên (arche) của vũ trụ biến dịch. Như thế, vũ trụ luận đánh dấu sự chuyển hướng đầu tiên trong lịch sử tư duy của con người, từ giai đoạn tìm hiểu logos của “mythos” đến các nổ lực giải thích logos của “cosmos.”

Trong suốt thời Cổ Đại và Trung Đại, không có sự phân biệt rõ ràng giữa triết học thiên nhiên và khoa học tự nhiên. Aristotle viết cuốn “Meta-physics” (Siêu hình học) để giải thích các nguyên lý của hữu thề biến dịch vốn là chủ đề của cuốn “Physics” được viết trước đó. Thánh Augustine xem “cosmos” như một hệ thống hay trật tự huy hoàng (slendor ordinis) vốn lôi cuốn sự đam mê của con người về cái đẹp. Bắt đầu từ thời Phục Hưng và Khai Sáng, đối tượng nghiên cứu của cả hai bộ môn vẫn là thế giới vật chất, nhưng có sự phân biệt về phương pháp nghiên cứu. Khoa học tự nhiên áp dụng phương pháp thực nghiệm, giả định sự tồn tại của vật chất như là hiển nhiên, tìm các quy luật chung để mô tả và tiên đoán sự biến dịch trong thế giới vật chất và nhắm vào các yếu tố lượng tính để giải thích sự thay đổi nơi các hữu thể vật lý. Triết thiên nhiên dùng logic phân tích tiên nghiệm của siêu hình học, truy vấn nguồn gốc, bản chất và cùng đích của hữu thể, khai triển các yếu tính và giới hạn của vũ trụ, và chú tâm đến sự khác biệt phẩm tính giữa các cấp bậc tồn tại.

Cuốn sách này qua nhãn quan của siêu hình học sẽ tìm hiểu thế giới vật lý theo ba phần. Phần A lược qua lịch sử suy tư triết học về căn tính của vũ trụ vật lý cùng với những khung siêu hình dùng để xác định bản chất của thiên nhiên. Phần B khảo sát các yếu tính mà hữu thể vật lý được đặc định: tính bất tất & lượng tính, tính biến dịch & không-thời gian tính, và tính khởi nguyên & tính cứu cánh. Với các yếu tính này, có cần Thiên Chúa để “giải thích cho sự tồn tại của thế giới vật chất không?” Và nếu có thì “ý định tạo dựng của Thiên Chúa là gì?” Phần C gồm các bài đọc thêm, sẽ nghiên cứu sâu rộng hơn về các chủ đề liên quan đến triết thiên nhiên như: tương quan giữa tôn giáo và khoa học, tương quan giữa hữu thần luận và các ngành vũ trụ học vật lý, sinh học tiến hóa, và khoa học tinh thần.


Labels:
Học viện Thánh Anphongsô