Triết học và thiên nhiên


Fr. Joseph Tân Nguyễn, ofm

 

Qua phương pháp phân tích siêu nghiệm, lý trí có thể dẫn con người đến sự hiểu biết về những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của thế giới: Liệu cuộc sống con người có phải là sự vượt lên trên hay tách khỏi vũ trụ vật chất vô tri không? Hay mọi tồn tại chỉ là những phần của một tổng thể vật lý? Và nếu chúng ta chấp nhận quan điểm tôn giáo về sự tồn tại của một vị Thần Tối Cao, thì vị Thần đó có hoàn toàn tách biệt khỏi thiên nhiên, hay chỉ như một con nhện đang dệt nên mạng lưới vũ trụ bằng chính vật chất xuất phát từ bản thân mình? Lý trí có thể trả lời phần nào, nhưng tri thức con người có giới hạn về các vấn nạn tối hậu liên quan đến sự sống và vũ trụ như: “Tại sao?” hay “Từ đâu mà ra?” Trong bài này, chúng ta sẽ giải thích từng bước nhỏ để xem niềm tin tôn giáo có thể gia tăng tri thức của con người về thế giới tự nhiên hay không. Tôn giáo có khả năng điều phối cấu trúc xã hội, lĩnh vực tâm linh, cách con người biểu tượng hóa chính mình, và ngôn ngữ về sự thánh thiêng. Do đó, tôn giáo cũng có thể soi sáng những vấn nạn tối hậu như vậy, tiêu biểu là câu hỏi liệu rằng vũ trụ thiên nhiên này có cần Thượng Đế để xuất hiện và tiếp tục tồn tại không?

THIÊN NHIÊN VÀ VŨ TRỤ VẬT LÝ

Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu hai khái niệm “thiên nhiên” và “vũ trụ.” Chúng ta trải nghiệm và thường nhận thấy rằng, thiên nhiên gồm những hữu thể xuất hiện như một tổng thể chặt chẽ, chứ không chỉ đơn thuần là tập hợp của các hữu thể vật lý. Chúng ta dùng hạn từ “vũ trụ” (kosmos) để nói lên một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là một sự kết hợp chặt chẽ của các sự vật, như một tập hợp vừa đẹp vừa chân thực của những thành phần khác nhau, tạo nên một thể thống nhất có tổ chức. Vũ trụ là một thực tại trái ngược hoàn toàn với sự hỗn độn (chaos, hư vô), trật tự và vô tổ chức. Người Hy Lạp cho rằng, không có tư duy nếu không có gì tồn tại. Trong các chuyện thần thoại Hy Lạp, có sự thay đổi quan trọng khi các vị thần sắp xếp lại trật tự từ sự hỗn độn để tạo thành vũ trụ. Ở nơi hư vô, có thể có hữu thể vật lý nhưng không có hệ thống hay nguyên tắc lề luật. Tất cả như một khối xáo động của sự rời rạc và bất liên kết, một sự vô định hình, thiếu tương tác nội tại, đối ngược hoàn toàn với vũ trụ. Thiên nhiên hay vũ trụ là sự hình thành nên một tổng thể liên kết chặt chẽ. Sự liên kết hay tổng hợp này cho thấy có một trật tự hay quy luật nào đó hầu như đang điều phối mọi chuyển động. Vì lý do đó mà vũ trụ hay thiên nhiên có thể được nhận thức được bằng trí tuệ.[1]

Đối với các triết gia, việc nhận thức rằng vũ trụ vật lý có một sự thống nhất về các nguyên tắc trật tự mang lại một ý nghĩa to lớn. Mọi thứ trong thiên nhiên đan xen với nhau. Khi ta cố gắng nhận thức thiên nhiên thì ta đang nhìn nó như một tổng thể. Nhiều triết gia hiện sinh kết luận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phi lý và con người hành động một cách vô ý thức. Nhưng khi nhận ra thế giới là “vô nghĩa” có nghĩa là thế giới đang trái ngược với sự có ý nghĩa, và do đó, sự có ý nghĩa thì căn bản hơn là vô nghĩa. Như thế, thiên nhiên hay thế giới vật lý là một tổng thể liên kết chặt chẽ, hợp nhất và đầy ý nghĩa. Nếu thiên nhiên là một tổng thể hay hệ thống liên kết chặt chẽ, thì cái gì làm cho nó kết nối với nhau? Cái gì làm cho thiên nhiên ăn khớp với nhau để tạo thành một hệ thống? Vũ trụ thì ở khắp mọi nơi và luôn được biểu lộ bằng những nguyên tắc, vốn giải thích cho thấy tính cố kết và sự hiệp hợp nhất của thiên nhiên. Các nguyên tắc hay luật thiên nhiên này phát xuất từ nội tại và biểu hiện mối tương quan có trật tự giữa những thành phần của tổng thể gọi là thiên nhiên.

Vì vậy, khi chúng ta sống trong một vũ trụ đầy ý nghĩa, tức là chúng ta đang sống trong một vũ trụ đang được điều hành bởi luật. Khoa học tìm hiểu thiên nhiên, nó phải tìm các luật đang hoạt động bên trong thiên nhiên. Newton chứng minh rằng, trọng lực là nguyên nhân trái táo từ cây táo rơi xuống đất, cũng là nguyên nhân làm cho mặt trăng xoay quanh địa cầu. Nhưng nhà khoa học có thể sai lầm, nếu họ giả định rằng luật thiên nhiên là quy luật tối thượng của vũ trụ. Trái lại, thiên nhiên đều phụ thuộc vào một luật tối cao, đó là luật vĩnh cửu của Thiên Chúa vốn chi phối mọi sự vật tồn tại. Mọi sự tồn tại trong vũ trụ là vì một lý do tối cao và duy nhất, đó là Thiên Chúa muốn chúng hiện hữu. Thế giới vật chất và biến dịch là kết quả trực tiếp của nguyên nhân siêu nhiên, vốn giải thích cho sự tồn tại của nó. Chúng ta cũng không thể thấu hiểu thực tại, nếu chúng ta không nhận ra mối tương quan cúa của nó đối với Thiên Chúa như hậu quả đối với nguyên nhân. Nói một cách đơn giản, Thiên Chúa là nguyên nhân và vũ trụ là kết quả. Nguyên nhân đóng ấn hay để lại trên kết quả dấu vết của nó như một dấu hiệu đặc trưng riêng tư. Cũng như một nghệ gia để lại dấu ấn trí tuệ trên tác phẩm của mình, thì theo một cách hoàn toàn đặc thù, Thiên Chúa đã lưu lại dấu ấn đặc trưng của Người trên vũ trụ mà Người đã tạo dựng. Sự khôn ngoan thánh thiêng chiếu tỏa và được biểu lộ nơi tất cả mọi vật như trong lời Thánh Vịnh 19,1:

“Trời xanh tường thuật vinh quang của Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm.”

Khi các nghệ nhân sáng tác, họ chỉ tiếp nhận và diễn đạt chúng qua tác phẩm nghệ thuật của họ, nhưng Thiên Chúa mới chính là nguồn gốc của mọi sự hiện hữu. Thiên Chúa hành động hoàn toàn từ chính quyền năng siêu việt của mình. Tôn giáo là lĩnh vực mà con người tìm hiểu Trí Tuệ siêu việt được biểu lộ thông qua những quy luật được mạc khải. Các mối tương quan có trật tự tồn tại ở khắp nơi trong vũ trụ cho ta tri thức về tương quan nguyên nhân-hậu quả và đưa đến khả năng tiên đoán. Tuy nhiên, hiểu quy luật vật lý trong thiên nhiên không có nghĩa là thế giới phải xuất hiện như cách thức chúng ta đang cảm nhận nó. Thiên Chúa không buộc phải sáng tạo một thế giới cụ thể như Người đã tạo nên. Chúa lựa chọn tạo dựng thế giới theo ý muốn của Người một cách tự do. Nhưng đây là một thế giới thực sự và được mặc định để tồn tại trong cách thức mà Thiên Chúa muốn nó tồn tại.

Con người được tạo nên như một sự tổng thể duy nhất hợp gồm cả linh hồn và thân xác, vật chất và phi vật chất. Chính bởi trạng thái phức hợp này mà chúng ta cùng lúc vừa là mặc định vừa là không mặc định. Một cách đơn giản, chúng ta đã được mặc định sống và hành động theo tính vật chất của mình trong phạm vi trọng lực cho phép. Qua thời gian và nhiều cách thức khác nhau, cơ thể của chúng ta cũng sẽ phát triển và thay đổi trong sự tương tác với quy luật này. Tất cả những gì chúng ta nghĩ là có thể vượt qua thế giới vật lý, thì thật ra chỉ đơn giản là vượt trên những hiện hữu vật lý khác. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không thể hướng đến cái vô hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của con người. Do đó, muốn tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên cho tận gốc, chúng ta không thể loại trừ quan điểm của tôn giáo về thiên nhiên.

THIÊN NHIÊN TỒN TẠI THEO CỨU CÁNH

Chúng ta biết rằng mọi chuyển động đều có chiều kích chủ động và chiều kích thụ động. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp của chuyển động, người ta chỉ thấy được các hiệu kết quả mà không hề thấy được các nguyên nhân của chúng. Lý trí con người muốn biết sự kiện đã xảy ra như thế nào để rồi kết quả của nó đang tồn tại ở đây. Chúng ta cần suy luận về nguyên nhân dựa trên những thông tin cơ bản có được từ kết quả, cùng với các điều kiện mà hiệu kết quả được đặt để trong đó.

Trong học thuyết bốn nguyên nhân của Aristotle, thì nguyên nhân tác thành và nguyên nhân cứu cánh đã gây nên nhiều vấn nạn nhất cho triết học tân thời.[2] David Hume nghi ngờ về tri thức của nguyên nhân trong khi chúng ta chỉ quan sát được kết quả của mọi sự xảy ra. Hume giải thích “nguyên nhân” chỉ là thói quen thông thường của quá trình nhận thức, và không có tính logic tất yếu nào cả, vì con người không thể thâm nhập vào bản tính sâu thẳm hay khám phá những năng lực bí ẩn của thiên nhiên. Immanuel Kant cho rằng, con người chỉ có tri thức ở mức độ hiện tượng (phenomena) chứ không có tri thức ở mức độ bản thể của sự vật (noumena). Quan hệ nhân quả chỉ là do khả năng xử lý của trí khôn, vốn cung cấp các “khuôn” phạm trù mà qua đó kinh nghiệm được sắp xếp như là điều kiện để chúng trở thành tri thức. Tri thức mà không có phạm trù là tri thức mù, nhưng phạm trù mà không có tri thức là phạm trù trống rỗng. Tuy nhiên, tri thức luận của Kant tiềm tàng một sự mâu thuẫn. Kant giới hạn tri thức chỉ trong những gì phù hợp với các phạm trù của trí khôn. Nếu chúng ta không thể biết được sự vật tự thân như nó là, thì làm sao chúng ta biết nó tồn tại? Như thế, hoặc là Kant đã chối bỏ “tồn tại” như yếu tố tự thân của mọi sự vật, hoặc là Kant đặt ra những hạn chế quá triệt để về khả năng của trí tuệ.

Nếu quan hệ nhân quả không xuất phát như là phạm trù của tư tưởng, thì nó phải có nguồn gốc khách quan, tức là qua các chứng cớ trong thế giới tự nhiên. Cũng như quy luật phi-mâu thuẫn, quan hệ nhân quả là hiển nhiên và là căn tính của vũ trụ vật lý. Trong bốn loại nguyên nhân (mô thể, chất thể, tác thành và cứu cánh), thì nguyên nhân cứu cánh là quan trọng nhất. Cho dù nó xuất hiện sau cùng theo trình tự thời gian, nhưng về mặt khái niệm thì nguyên nhân cứu cánh lại đến trước nhất. Nguyên nhân cứu cánh trở thành ánh sáng hướng dẫn cho hành động đem lại kết quả. Hiểu biết về mục tiêu và ý định của một cuộc đua là việc chuẩn bị, và trong khi cuộc đua xảy ra, thì hình ảnh về những hành động cần phải làm để đạt đến mục tiêu đã xuất hiện trong đầu của chúng ta.

Aristotle mô tả nguyên nhân cứu cánh như là “điều phải được quy về,” tức là lời giải thích cuối cùng cho tất cả những gì chúng ta làm. Nó cho chúng ta biết sự tận cùng của trật tự nơi sự vật, tức là phơi bày bản chất của chúng cách toàn diện. Theo Aristotle, “Mỗi tác nhân đều hành động vì cứu cánh” (Omnis agens agit propter finem). Qua sự hiểu biết về cứu cánh, con người sẽ nhận ra mình đang sống trong một vũ trụ có ý nghĩa. Là những thụ tạo có lý trí, con người có trách nhiệm tìm kiếm ý nghĩa sâu xa nhất của nhân loại tính, tức là cái kết cùng đáng cùng đích xứng đáng với tư cách của con người. Con người là những thụ tạo với hoạt động có mục đích. Mục đích tính của chúng ta đã được xác định trong thể cách hoạt động. Nhiều khi cái kết cùng đích mà chúng ta theo đuổi có thể không xứng đáng với những nỗ lực của mình. Có khi vì sự suy yếu ý chí, con người làm những gì ngược với phẩm giá của mình vốn do Thiên Chúa đặt để. Vì là thụ tạo có tự do, chúng ta vẫn có thể theo đuổi các mục đích đem lại sự hủy hoại cho chính mình. Quan hệ nhân-quả mang tính cứu cánh, nhưng trong hoạt động vẫn có thể bị lạm dụng.

Aristotle tin rằng mọi thành phần thì “luôn luôn hoạt động cho một tổng thể” theo những phương thức hành vi có cấu trúc nhất định. Lời giải thích duy nhất cho sự tuần hoàn trong tự nhiên chỉ có thể là mục đích tính (telos). Ngược lại với “telos” là cơ may, tức là xảy ra không theo kiểu mẫu hay khả năng định liệu nào cả. Con người nhận ra cơ may là những gì bất thường, bởi vì trí khôn luôn khởi đầu từ quy chuẩn và những trật tự có sẵn sẳn trong tư duy của con người. Định tính vẫn được ưu tiên hơn bất ổn; và cái bình thường thì căn bản hơn cái bất thường. Chỉ có hai khả năng mở ra cho chúng ta về việc giải thích hoạt động cơ bản của thiên nhiên: hoặc là dùng mô mẫu hoặc là cơ may hay ngẫu nhiên. Cơ may là sự ngoại lệ của thực tại có tính quy tắc và tuần hoàn trong tự nhiên. Một nhà hoá học biết chính xác những yếu tố nào sẽ phản ứng trong những trường hợp nhất định, cách kết hợp chúng để tạo thành các hợp chất, hoặc làm cho phản ứng hóa học xảy ra sớm hơn hay chậm lại. Tri thức này không thể hiện thực, nếu không có sắp xếp định hướng được thiết lập trong thiên nhiên. Vũ trụ chúng ta đang sống mang tính hợp lý và qua ánh sáng trí tuệ thì soi dọi khắp nơi. Một khi tính mục đích của vũ trụ được nhận ra, thì hoạt động của con người trở thành nghệ thuật hài hòa với thiên nhiên. Bởi vì, nghệ thuật là một sự bắt chước cách thức mà thiên nhiên hành động. Nếu việc xây dựng một ngôi nhà của con người là hành động có mục đích, thì chẳng lẽ những con chim yến xây tổ của chúng khi tới mùa sinh sản chỉ là một điều ngẫu nhiên sao?

Vì là “đứa con của tự nhiên,” con người sở hữu những nét gì đó có thể tìm thấy trong tự nhiên. Nếu thuộc tính của con người là tính mục đích, thì mục đích tính phải là một phần của tự nhiên. Phủ nhận điều đó cũng giống như việc làm cho mục đích của con người chỉ có hệ quả mà không có nguyên nhân. Thiên nhiên hay thế giới vật chất là một hệ thống có trật tự, bởi vì tất cả các hoạt động đa dạng của nó được sắp xếp theo hướng có kết thúc. Con người dựa trên tính mô phỏng và tính mục đích để có thể dự đoán và tìm hiểu về bản chất của thiên nhiên. Sự thống nhất và liên kết của thiên nhiên chỉ có thể được giải thích cuối cùng cũng bởi chính nó. Thiên nhiên trở nên khả tri đối với hữu thể có trí khôn là bởi vì chính ánh sáng trí tuệ đã được kết xuất từ bản chất của thiên nhiên. Một vũ trụ vô nghĩa thì không có cứu cánh, không có mô hình, không có dự đoán, không có tuần hoàn tính mà chỉ có hỗn mang, và cũng chẳng có gì mà phải bàn cãi. Hơn thế nữa, thiếu vắng những điều này có nghĩa là trí khôn không thể dựa trên cơ sở vững chắc của trật tự và quy tắc nào của tồn tại để nhận thức.



[1] x. Peter Adamson, “The Theology of Aristotle,” (2021), truy cập ngày 23/3/2023. (https://plato.stanford.edu/entries/theology-aristotle/).

[2] x. Lorenzo Minio-Paluello, “The Nature of Aristotelianism,” truy cập 3/3/2023 (https://www.britannica.com/topic/Aristotelianism#ref408050).

Học viện Thánh Anphongsô