Nhân kỷ niệm 20 năm cha Micaen Nguyễn Đình Lành về với Chúa (13/6/2003-13/6/2023), xin chia sẻ đôi dòng về cha, "Bông hoa lạ của Dòng Chúa Cứu Thế."
“Một bông hoa lạ,” đó là tựa của
một bài báo trên tờ Nam kỳ địa phận số 1718, ra ngày 15 tháng 7 năm
1942, viết về lễ phong chức linh mục của cha Micaen Nguyễn Đình lành, một linh
mục Dòng Chúa Cứu Thế.
Cha Nguyễn Đình Lành, tên khai
sinh là Nguyễn Đình Duy, sinh ngày 15 tháng Giêng năm 1915, trong một gia đình
ngoại giáo tại phủ Anh Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ cố
Nguyễn Đình Sâm. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Liên. Hai ông bà sinh được sáu người
con, năm trai và một gái.
Sinh ra trong một gia đình khá giả,
nên ngay từ sớm cậu bé Duy đã được cha mẹ hướng tới con đường học vấn. Năm 8 tuổi,
cậu bắt đầu những bài học đầu tiên tại ngôi trường quê hương Anh Sơn, Nghệ An.
Tốt nghiệp tiểu học, cha được cha mẹ gửi vào học trung học tại trường Pellerin,
Huế, do các Sư huynh Lasan điều hành. Tại đây, nhờ tiếp xúc nhiều với các Sư
huynh, với các chú Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế đang theo học tại đó và có dịp học hỏi
về giáo lý, cha được ơn trở lại và quyết tâm theo Chúa trong ơn gọi tu trì. Năm
1930, mặc dù chưa chịu các bí tích nhập đạo, cha xin cha Larouche tìm hiểu ơn gọi
Dòng Chúa Cứu Thế và đã được cha đồng ý chấp nhận. Ngày 11 tháng Giêng năm
1931, cha chịu phép Thanh tẩy. Bốn tháng sau, ngày 19 tháng Năm năm 1931, cũng
tại nguyện đường trường Bình Linh (Pellerin) cha lãnh bí tích thêm sức qua sự đặt
tay của Đức cha Chabanon.
Trước khi lãnh các bí tích khai
tâm ra nhập đạo, cha có viết thư về xin phép cha mẹ được theo đạo, nhất là được
theo đuổi ơn gọi tu trì. Cha mẹ không bằng lòng và ông bà đã từ Nghệ An vào tìm
bắt con về. Ở quê, nhớ trường, nhớ lớp, nhất là với ước muốn mãnh liệt được đi
theo Chúa, cha trốn gia đình vào lại Huế. Do lo sợ sẽ lại bị cha mẹ bắt về, cha
E. Larouche đã đưa cha vào Sài Gòn, gửi nhờ gia đình cha Henri Bạch Văn Lộc
giúp đỡ nơi ăn chốn ở. Tại đây, cha được đổi tên là Nguyễn Đình Lành. Cha đã âm
thầm đón nhận mọi thử thách, mọi sự sắp xếp của Chúa quan phòng và hằng cầu xin
Thiên Chúa giúp sức để được gia đình chấp nhận và cho cha mẹ được ơn đức tin.
Ngày 14 tháng 08 năm 1936, cha được
gọi vào Nhà tập. Lớp tập năm ấy ngoài ba cha: Giuse Trần Hữu Thanh, Micaen Nguyễn
Đình Lành, Phêrô Nguyễn Xuân Lộc, cùng lớp Đệ tử, còn có thêm cha Micaen Nguyễn
Quang Toán được đôn từ lớp dưới lên do cả lớp đã về hết và cha Giuse Vũ Ngọc
Bích từ Chủng viện Thượng Kiệm Phát Diệm chuyển qua. Lớp Tập năm đó cả thảy năm
người. Ngày khai mạc Tập viện, cả năm đã cùng khấn xin Đức Mẹ giữ gìn cho được
cùng bền đỗ trong Dòng cho tới chết.
Ngày 15 tháng 8 năm 1937, cha
tuyên khấn lần đầu. Ngày 06 tháng 06 năm 1942, cha được thụ phong linh mục tại
nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội, cùng với anh em trong lớp và các thầy chủng sinh Chủng
viện Xuân Bích.
Năm 1943, mãn Học viện, cha được
bổ nhiệm về giúp Đệ Tử viện Huế. Trong suốt hơn 10 năm ở Đệ Tử viện Huế, cha vừa
làm giáo sư, vừa giữ một số chức vụ: quản lý Đệ Tử viện (1946-1948), Phó Giám đốc
Đệ Tử viện (1948 -1955). Năm 1954, Đệ Tử viện Huế quá tải do phải đón thêm các
chú Đệ tử từ Tiểu Đệ tử viện Hà Nội vào. Năm 1955, các Bề trên Dòng đã quyết định
rời Đệ Tử viện Huế vào Vũng Tàu. Cha theo đoàn Đệ tử vào Vũng Tàu, vừa làm linh
giám vừa giúp các chú Đệ tử các môn toán và khoa học. Cuối năm 1956, sau gần 20
năm phục vụ tại Việt Nam, hai cha A. Trépanier và Jacques Huberdeau về Canada
nghỉ phép. Cha Micaen Lành được chỉ định làm Bề trên kiêm Giám đốc Đệ Tử viện Vũng
Tàu. Tuy nhiên, cha chỉ giữ chức vụ Giám đốc Đệ Tử Viện mấy tháng. Ngày 1 tháng
01 năm 1957, cha Gioan Nguyễn Văn Thính được chỉ định giữ chức vụ Giám đốc Đệ Tử
viện thay cha.
Ngày 6 tháng 7 năm 1959, cha J.
M. Labonté được chỉ định làm Giám phụ tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Cha
Micaen được bổ nhiệm làm Bề trên Nhà Đà Lạt. Năm 1961, kết thúc nhiệm kỳ, cha
trở về Huế, phụ giúp mục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Thời gian này,
ngoài việc đảm nhận các công việc mục vụ tại cộng đoàn Huế, cha đã dành rất nhiều
thời gian và công sức, giúp Dòng Thánh Tâm Huế trong tiến trình canh tân Dòng từ
một dòng giáo dân sang dòng giáo sĩ. Cha đã cùng với các tu sĩ của Dòng chấp
bút bản hiến chương mới, cùng những qui tắc phải tuân giữ đối với một tu sĩ
Dòng Thánh Tâm.
Năm 1968, dưới thời cha Bênêđitô
Hoàng Quang Lượng làm Giám tỉnh, cha được chỉ định làm cố vấn thường vụ tỉnh
Dòng. Đây là giai đoạn có nhiều biến động trong dòng do bất đồng quan điểm, do
khác biệt trong những chọn lựa dấn thân đấu tranh chính trị của một số anh em.
Ngoài xã hội, biến cố Tết Mậu Thân ngày 30/1/1968, gây nhiều tang thương trên
khắp các tỉnh thành miền Nam. Cha Micaen đã cùng với các anh em chèo chống Tỉnh
Dòng vượt qua những khó khăn thử thách.
Năm 1970, một nhiệm kỳ mới được bắt
đầu với cuộc bầu cử theo Nghị quyết của Tổng Công Hội thứ 17. Cha Henri Bạch
Văn Lộc đắc cử chức vụ Bề trên Giám tỉnh. Cha Micaen được các bề trên tín nhiệm
đặt coi sóc Nhà Huế và ngài sẽ còn giữ chức vụ Bề trên Nhà Huế cho tới năm
1990.
Ngày 26/3/1975, Huế thất thủ vào
tay Cộng sản. Những ngày đầu khi quân Giải phóng chiếm Huế, trong vị thế của một
bề trên, cha phải đối diện với một hoàn cảnh không mấy dễ dàng. Dân chúng tán
loạn bỏ Huế ra đi. Nhà thờ và tu viện bị khám xét. Chính trong bối cảnh đó, từ
một con người nhỏ nhẹ, thường rất thân tình, bỗng cha như trở nên một con người
khác quyết đoán lạ thường trong mọi công việc, từ đối nội tới đối ngoại, từ việc
chăm lo mục vụ cho đoàn chiên đang hoang mang dao động, cho đến việc gánh vác
các trách nhiệm chung trong một giáo phận phải gánh chịu quá nhiều tang thương
của chiến tranh.
Giai đoạn này, có nhiều câu chuyện
về cha được chính cha hoặc những người thân cận với cha kể lại. Vào những ngày
đầu giải phóng, một toán bộ đội đòi khám xét nhà thờ và tu viện. Khi họ khám
nhà thờ, cha cương quyết buộc toán lính phải bỏ vũ khí bên ngoài mới được vào
nhà thờ, bởi đây là nhà Chúa và cha đã thành công. Nhưng khi họ muốn khám xét
nhà Dòng và tự động bỏ khí giới ở ngoài cổng thì cha lại có thái độ khác: “Các
anh cứ mang vũ khí theo, vì nơi đây chỉ là nhà ở chứ không phải nơi thờ phượng.”
Khi qua nhà cơm, cha đã mời họ dùng nước giải khát. Câu chuyện kỳ lạ này có hậu:
một thời gian sau, khi có dịp về thăm quê hương, cha đã vô cùng sửng sốt được gặp
lại anh Trung úy đã chỉ huy xét nhà mấy năm trước và bỡ ngỡ được biết rằng: đó
là người cháu của cha. Hơn nữa, con người thánh thiện ấy đã được Chúa cho thực
hiện việc lạ lùng của Mầu Nhiệm Tình Thương. Trong môt lần về thăm quê, đêm
kia, ông thân sinh của cha tự nhiên kêu cha dậy và nói: “Con hãy dạy giáo lý và
rửa tội cho thầy đi.” Cha vui mừng vì được biết mẹ cha trước khi chết cũng đã
được Rửa Tội, và nay thì chính cha cũng làm công việc ấy đối với thân phụ mình
(x. R. Nguyễn Tự Do, Lịch sử DCCT Việt Nam (NXB. Tôn giáo, 2002), 353).
Năm 1980, như tiên đoán được
tương lai đang dần mở ra phía trước, nhất là vì lo cho tiền đồ của Nhà Dòng với
một cơ ngơi đồ sộ cả về vật chất và tinh thần mà nay chỉ còn có hai người già nắm
giữ, cha bắt đầu nghĩ tới việc tuyển lựa những mầm non ơn gọi đầu tiên cho Dòng
Chúa Cứu Thế. Ngày 16/10/1980, trong số những ứng sinh theo ơn gọi triều – dòng
mà ngài vẫn thường xuyên giúp đỡ, ngài đã tuyển chọn ba người và kiên trì đào tạo.
Trong số ba ơn gọi đầu tiên ấy, sau này chỉ còn lại một mình cha Giuse Hồ Đắc
Tâm. Các anh em khác hoặc về thế gian hoặc chuyển hướng trong Dòng tu khác. Sau
khóa đầu tiên, ngài còn nhận thêm nhiều anh em khác nữa vào Dòng. Có thể nói, tất
cả các linh mục tu sĩ nam nữ giai đoạn từ 1975 tới 1990, xuất thân từ Giáo xứ Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp đều mang dấu ấn của cha già Lành. Ngài như một người cha ân cần,
quan tâm chăm sóc, như một nhà linh hướng tân tâm, đạo đức, như một nhà toán học
tỉ mỉ, như một nhà luật pháp nghiêm khắc răn dạy những ai được ngài hướng dẫn
theo đuổi ơn gọi.
Tháng Tư năm 1990, sau nhiều năm
giữ chức vụ Bề trên, cha được nghỉ ngơi mọi chức vụ. Cũng vào thời điểm này,
cha bắt đầu có những dấu hiệu của bệnh mất trí nhớ. Bệnh quên ngày càng trầm trọng.
Khoảng năm 1995–1996, cha quên hẳn mọi sự, không nhớ được bất cứ điều gì. Dù vậy,
cha vẫn không quên các việc đạo đức, các giờ kinh nguyện. Dù chỉ một mình, theo
thói quen, cha vẫn hằng ngày đúng giờ đến nhà nguyện. Có hôm, dù chỉ có một
mình, cha vẫn xướng kinh, đứng lên, ngồi xuống theo đúng trình tự để thờ phượng
Chúa. Những anh em giáo dân phụ chăm sóc ngài những năm cuối đời kể lại rằng,
dù quên hết mọi sự nhưng có một số điều ngài không quên, đó là bổn phận dâng Thánh
Lễ mỗi ngày và sống thái độ vâng phục. Những năm cuối đời, câu hỏi mà ngài thường
hỏi anh em là: “Bây giờ là mấy giờ, đã đến giờ dâng lễ chưa?”
Đối với việc tuân giữ lời khấn
vâng phục, có nhiều chuyện về cha được các con cái của ngài kể lại. Hồi ngài mới
kết thúc sứ vụ bề trên, vì không nhớ, nên có lần, khi cha Hoàng Diệp đi qua trước
cửa phòng ngài, vì nghĩ mình vẫn còn là bề trên, nên ngài đã gọi: “Cha ơi, cho
tôi gặp một chút.” Sau khi gặp cha Hoàng Diệp, bất chợt, như nhận ra điều gì,
ngài chạy ra khỏi phòng, chạy theo cha Bề trên, quỳ xuống trước mặt ngài và
nói: “Con xin lỗi cha Bề trên.”
Chứng quên của ngài đôi khi cũng
gây phiền hà cho anh em nhưng cũng thật dễ mến. Có lần, không biết có ai cho,
hay ngài kiếm ở đâu một tấm hình các tu sĩ Dòng Phanxicô. Cầm tấm hình trên
tay, mang xuống nhà cơm hỏi hết cha này tới cha khác: “Bữa nay, các tu sĩ Dòng
Phanxicô còn giữ truyền thống cắt tóc như trong hình nữa không?” Các cha các thầy
ai cũng trả lời: “Bữa nay, bỏ hết rồi!” Thế rồi, giờ nghỉ trưa, do quên, nên
ngài đi tìm các cha, các thầy để hỏi. Tội cho thầy Tađêô, vì phòng của thầy ở
ngay cạnh phòng cha già. Một lần, hai lần...bực mình vì mất giấc ngủ trưa, thầy
Tađêô liền nói: “Cha có biết cha hỏi con bao nhiêu lần rồi không?” Không đợi
cha trả lời, thầy nói: “Cha hỏi con 12 lần rồi đó!” Cha già như sực tỉnh, nhưng
vẫn không quên làm một cử chỉ dễ thương và hài hước. Ngài cầm tấm hình lên, đếm
chậm rãi, một, hai, ba... Rồi ngài nói: “Trong ảnh này có 13 thầy, tôi mới hỏi
thầy có 12 lần, tôi chắc sẽ còn phải hỏi thầy thêm một lần nữa” (theo lời kể của
anh Minh, người đã giúp ngài suốt 9 năm cuối đời).
Năm 2002, cùng với quý cha trong
lớp, cha ra Hà Nội mừng lễ kỷ niệm 60 năm linh mục. Các cha Giuse Vũ Ngọc Bích,
Giuse Trần Hữu Thanh phải ngồi xe lăn. Cha là người duy nhất trông mạnh khỏe,
nhưng lại là người duy nhất không còn nhớ gì. Người em ruột cùng các con cháu sống
ở Hà Nội đến mừng, cha vui vẻ chào mời, nhưng thực sự cha cũng không biết đó là
các em, các cháu. Thánh Lễ đồng tế tạ ơn hôm đó, cả hai cha bạn phải ngồi xe
lăn, nên chỉ một mình cha được diễm phúc đứng đồng tế cạnh Đức Hồng y Phaolô Phạm
Đình Tụng. Dù vậy, bệnh quên làm cho cha dễ thương, đứng bên Đức Hồng y, nhưng
với cha, cũng như đứng gần một người xa lạ.
Ngày 13 tháng 6 năm 2003, “Bông hoa lạ” Micaen Nguyễn Đình Lành đã được Chúa ngắt về trồng nơi nhà Chúa, hưởng phúc vinh muôn đời.