Nhân giỗ đầu cha Gioan B. Nguyễn Thế Thiệp, C.Ss.R. (14/6/2022-14/6/2023), xin gửi đến những ai quen biết ngài vài nét chấm phá về cuộc đời của một vị linh mục đã dám sống, chết trong cảnh nghèo.
“Con dâng mình con cho Chúa, cho
Nhà Dòng, con đã thỏa mãn. Gia đình con thấy có người con, người cháu dâng trọn
cuộc đời như vậy họ cũng vui mừng! Con xin từ biệt mọi người. Con xin lỗi mọi
người!” Trên đây là những lời tâm sự sau hết của cha Gioan Baotixita Nguyễn Thế
Thiệp, tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, vị linh mục đã sống nghèo và chết giữa
dân nghèo.
ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Cha Gioan Baotixita Nguyễn Thế
Thiệp, tên khai sinh là Nguyễn Thế Bê, sinh ngày 25 tháng 3 năm 1936, trong một
gia đình điền chủ, có 9 người con, tại làng An Lộc, xã An Thủy, huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình; là con ông Nguyễn Thế Sấn và bà Võ Thị Con.
Vào thời đó, làng An Lộc quê
hương ngài không có trường học. Năm 1948, thấy con hiếu học, cha mẹ cậu đành gửi
cậu xuống học tại một trường Công giáo tại thị xã Đồng Hới, do cha Gioan
Baotixita Nguyễn Cao Lộc phụ trách. Tại đây, ngoài việc học văn hóa, cậu được học
thêm giáo lý. Ngày 24 tháng 4 năm 1949, cậu được lãnh bí tích rửa tội và nhận
thánh Gioan Baotixita làm quan thầy. Cậu cũng được cha Lộc đổi tên từ Nguyễn Thế
Bê thành Nguyễn Thế Thiệp.
Năm 1952, cha cậu qua đời. Thấy cậu
có chí hướng tu trì, cha Gioan Baotixita Nguyễn Cao Lộc gửi cậu vào tu học tại
Đệ Tử viện Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Năm 1956, mẹ cậu qua đời. Cũng năm này, Đệ Tử
viện Huế chuyển vào Vũng Tầu. Cậu cùng các chú đệ tử theo vào Vũng Tầu, tiếp tục
quá trình học hỏi, tu luyện. Thời gian này, ba trong số các người anh của cậu
lên đường ra Hà Nội đi lính Việt Minh. Qua thư từ, họ tìm mọi cách lôi kéo người
em đi theo lý tưởng cộng sản, nhưng bất thành.
Ngày 15 tháng 08 năm 1958, đáp lại
lời mời của Chúa qua các vị bề trên Dòng, cậu gia nhập Tập viện Dòng Chúa Cứu
Thế Đà Lạt. Sau một năm tu tập, cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa, ngày 15 tháng 8
năm 1959, cậu tuyên khấn lần đầu trong Dòng, bắt đầu những năm tháng sống đời sinh
viên Học viện Dòng Chúa Cứu Thế tại Đà Lạt. Sau hơn năm năm sống trong Học viện
Dòng Chúa Cứu Thế, ngày 19 tháng 12 năm 1964, thầy được Đức Tổng Giám mục
Philíphê Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế phong chức linh mục
tại Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Sau khi chịu chức linh mục, tân linh mục nhận bài
sai về làm phó xứ giáo xứ Tùng Lâm Đà Lạt. Năm 1966, ngài chính thức ra phục vụ
tại Châu Ổ và ở lại đó cho đến khi qua đời.
THAO THỨC VÌ NGƯỜI NGHÈO
Châu Ổ vào những năm 1966 là vùng
đất của chiến tranh và đói nghèo. Cái đói, cái nghèo vây bủa chung quanh.
“Nghèo vì khí hậu, vì đất đai. Đói vì chiến tranh, vì tham nhũng, bóc lột. Đói
nghèo nên phát sinh những con người lương tâm bệnh hoạn, những phong trào giải
phóng đẫm máu và những tranh chấp đảng phái liên miên” (Nguyễn Thế Thiệp, Đòi
hỏi đói nghèo cho chính mình tôi đăng trên Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp, số 42, năm 1972, tr. 18-20).
Sinh ra trong cảnh nghèo, được
đào tạo để trở thành tu sĩ nghèo, với sứ mạng phục vụ những người nghèo tất bạt,
nay được gặp và sống giữa những người nghèo bằng xương bằng thịt, vị linh mục
trẻ cảm thấy mình bị tra vấn: “Môi trường ấy thách thức tôi, tra vấn tôi. Nhiều
lúc nó hành hạ và hạch sách tôi. Nó hung hãn như một con ngựa hoang, nó cay
nghiệt như một con roi sắt.”
Chiếc roi sắt của người nghèo,
nhiều lần đã làm cho vị linh mục trẻ đau điếng, hối hận, chỉ vì một chút vô
tình thiếu quan tâm tới anh chị em nghèo: “Một bữa trưa nọ, khi ghé lại Nhà
Dòng Châu Ổ ăn cơm và nghỉ lại trưa. Trưa hôm ấy, quá nóng, trời khát nước. Tôi
xuống nhà bếp hấp tấp, lấy nước, vô tình, nhìn qua cửa sổ ra ngoài, một cảnh đứt
ruột đã đập vào mắt tôi. Bên tường nhà bếp, chỗ đổ rác, một em bé đang lý thú,
khoan khoái... liếm một hạt xoài mà trưa nay chúng tôi ăn tại bàn, rồi đổ ra
đó. Em ấy liếm đi, liếm lại như muốn nuốt luôn cả hạt soài vào bụng. Tôi sợ hãi
không dám nhìn em, tự cảm thấy mình có tội vì đã thiếu cẩn mật trước một hành động
muốn dấu kín của một người chị em nhân loại. Tôi rùng mình tự hổ thẹn vì đã được
ưu đãi hơn em một cách nhưng không. Biết đâu trái xoài ấy đã được tôi ăn, nay
em ấy phải liếm lại lần nữa. Em ấy có tội tình gì mà phải chịu một hình phạt nhục
nhã như thế! Và tôi, tôi có công lênh gì để được đặc ân ăn phần xoài ngon trước
em, và nay, vì tội lỗi gì mà tôi phải liên lụy với em trong vụ liếm hột xoài
phiền toái này: một mối liên lụy lương tâm, không cho phép tôi yên hàn, an lạc!”
Ở LẠI GIỮA DÂN NGHÈO
Làm sao có thể yên hàn an lạc,
lương tâm không ray dứt, khi hằng ngày phải chứng kiến biết bao thảm cảnh của
nghèo đói, bệnh tật, chứng kiến những anh chị em khi ăn phải “ngậm miếng cơm thật
lâu trong miệng để thưởng thức mùi vị thơm ngon.” Đứng trước “tình cảnh xót xa, đứt ruột diễn
ra thường ngày” ấy, vị linh mục trẻ, với biết bao ước mơ hoài bão, đã không thể
cầm lòng, đã nguyện ở lại, mặc cho chiến tranh và cái chết đe dọa, để được cùng
sống, cùng chết với dân nghèo:
“Tôi ở lại... Tôi, một người Việt
Nam. Đất nước tôi đang buổi chiến chinh. Đồng bào tôi, anh em ruột thịt một nhà
đang mượn súng người ngoài để chém giết nhau. Đó là một thảm kịch lớn của lịch
sử giống nòi; cũng như lịch sử não nề của những thời đau thương: Nam – Bắc phân
tranh, kéo dài từ Trịnh – Nguyễn, đến Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thảm kịch ấy đau
thương lắm, quý hóa lắm cho con cháu đời sau, và giá trị lắm cho một nhân loại
luôn khao khát hòa bình mà không bao giờ tìm thấy hòa bình... Và tôi, trong mối
tình thâm sâu, thắm thiết của một người con dân nòi giống, tôi muốn thấy tận mắt,
thấy tận nơi, nơi góc cùng ngõ hẻm, thấy tận chỗ đen tối nhất, chỗ khuất dấu nhất,
thấy thảm cảnh chém giết đứt ruột giữa những người anh em. Tôi muốn làm chứng
nhân âm thầm cho thảm kịch rợn rùng đến nỗi ai cũng kinh hoàng, khiếp sợ và
không dám nhìn tận mắt. Đó là lý do thứ nhất khiến tôi ở lại. Còn một lý do
khác kín đáo hơn, nhưng cũng phổ quát và thảm sầu hơn, vì nó thuộc phạm vi của
lòng tin: tôi ở lại vì tôi là linh mục. Tôi là người đủ nguyện ước và cam kết
hiến dâng cuộc đời cho sự sống cùng sự chết của nhiều người” (Nguyễn Thế Thiệp,
Nhật ký truyền giáo đăng trên Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, số
62, tháng 7 năm 1974, tr. 13.)
SỐNG CHẾT VỚI NGƯỜI NGHÈO
Chọn ở lại giữa dân nghèo, ngài
cũng chọn cho mình một cuộc sống nghèo khó. Trong thời buổi hiện tại, thật khó
tìm thấy một linh mục tu sĩ sống khó nghèo như ngài. Gia sản của ngài không có
gì ngoài sách vở và những vật dụng thánh dùng trong các cử hành phụng vụ. Ngôi
nhà ngài ở chính là một phòng học lợp tôn của ngôi trường Thăng Tiến năm xưa.
Ở giữa dân nghèo, thấu cảm cảnh
nghèo, chứng kiến cảnh “miếng cơm phải ngậm mà nghe,” buộc ngài – như ngài nói,
phải chọn một lối sống không “quá tách biệt với dân chúng, ngay cả trong miếng
cơm, manh áo,” bởi nếu không, đó sẽ là vết nhơ, là nỗi nhục, mà nỗi nhục về thức
ăn, về nhà cửa, về lối sống thì thật bi đát và thậm tệ. Đó là một phản chứng của
Tin Mừng, vì chính “Chúa Kitô khó nghèo dẫn tôi đi trong những ngõ quặt nhờm gớm
ấy.” (Nguyễn Thế Thiệp, Đòi hỏi đói nghèo cho chính mình tôi)
Chọn sống nghèo để nên giống Chúa
Kitô khó nghèo, nhưng “nhờm gớm cảnh nghèo,” ngài tìm mọi cách giúp đỡ anh chị
em nghèo thăng tiến. Đối với ngài hai từ “cách mạng và thăng tiến” là hai từ
thiêng liêng, là con đường Chúa Kitô mời gọi ngài cùng tiếp bước, để giúp dân
nghèo thoát nghèo. Những năm trước 1975, khi hoàn cảnh còn cho phép, ngài tìm mọi
cách thăng tiến dân nghèo. Tại Châu Ổ, ngài mở trường Phụng Sự. Tại Bình Hải,
ngài xây nhà thờ, xây trường Trung – Tiểu học Thiện Mỹ, mở thư viện, làm sân
bóng, thiết kế khu chăn nuôi, chế biến mắn. Ngài tổ chức tập đoàn Lưới Cao cho
ngư dân. Bình Thạnh là nơi cuối ngài về, ngài mở trường Thăng Tiến, với mong muốn
mở mang tri thức cho các trẻ em nghèo. Sau 1975, khi hoàn cảnh không còn cho
phép, ngài tiếp tục tìm cách âm thầm giúp đỡ họ và hiện diện giữa họ như một chứng
nhân trung thành.
MONG CÓ MỘT HỘI THÁNH NGHÈO
Sống nghèo, ngài cũng luôn mong
có một Hội Thánh nghèo: “Hội Thánh của tôi. Hội Thánh theo tinh thần của Tuyên
ngôn Hội Đồng Giám mục tại Á Châu phải chăng là một Hội Thánh phục vụ cho dân
nghèo như lòng họ mong mỏi? Phải chăng là một Hội Thánh của “Nỗi vui mừng và niềm
hy vọng” đang lóe lên trong lòng họ.”
Đối với ngài, Hội Thánh muốn loan
báo Tin Mừng, trước hết và trên hết, Hội Thánh phải đứng về phía người nghèo. Hội
Thánh phải xa tránh “phe nọ, phái kia.” Đó là một Hội Thánh “luôn đứng ngoài và
trên mọi tranh chấp trần gian,” bởi vì “Lời Chúa không vì một lý do gì mà phải bị
giàng buộc, khiến cho người thợ rao giảng phải tự giam hãm mình vào đồn nọ, bót
kia hay ấp chiến lược này hoặc khu định cư nọ. Lời Chúa phải thong dong bay khắp
mọi chân trời góc biển, đi ruông qua khắp mọi ngõ hẻm hang cùng để đến với mọi
tai phàm nhân loại mà loan báo ơn cứu độ phổ quát cho mọi tâm hồn” (Nguyễn Thế
Thiệp, Nhật ký truyền giáo: những ngày đây đó đăng trên Nguyệt san Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp, số 64, tháng 9/74, tr. 24.)
Chứng kiến những anh chị em Tin
Lành, Phật giáo trên các nẻo đường truyền giáo, ngài thao thức: “Trên đường
truyền giáo, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy và thèm thuồng, thấy những thầy truyền đạo
Cao Đài, Phật Giáo len lỏi khắp lọi nẻo đường. Họ len mình quan mọi đoạn đường
nguy hiểm, để khắp thôn cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng có vết chân của họ, vết chân
mà đáng lẽ người tôi tớ của Hội Thánh phải in vết chân trên mọi nẻo đường Việt
Nam.”
... VÀ CHẾT TRONG CẢNH NGHÈO
Sau 56 năm “in vết chân trên mọi
nẻo đường” truyền giáo Châu Ổ, vị linh mục sinh ra trong cảnh nghèo, chọn một
cuộc sống nghèo để phục vụ dân nghèo, và luôn đau đáu một ước nguyện thấy một Hội
Thánh của người nghèo, đã an bình ra đi trong cảnh nghèo khó vào hồi 13:45, thứ
Ba, ngày 14 tháng 06 năm 2022, tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Châu Ổ, hưởng thọ
86 tuổi.
[…]