BA TƯ TƯỞNG
SÂU SẮC NHẤT TÔI TỪNG CÓ
Tiến sĩ
Peter Kreeft
Tư tưởng
quý giá hơn kim cương. Ba tư tưởng quý giá nhất mà tôi từng khám phá ra đều
liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa.
Không có ý
nào trong số đó mới lạ. Nhưng mỗi thứ đều mang tính cách mạng. Không gì trong số
chúng đến từ tôi. Nhưng tất cả chúng đến với tôi với sức mạnh và ngọn lửa bất
ngờ: đó là những trải nghiệm khiến ta phải hô lên “aha!”, “eureka!” ‒ Thấy
rồi. Tất cả là những nhận thức, chứ không chỉ là niềm tin.
1. Chỉ
có “Một Điều Cần Thiết” mà thôi. Tư tưởng đầu tiên xảy đến khi tôi được
khoảng sáu hay bảy tuổi, tôi nghĩ vậy. Đó là việc khám phá có ý thức quan trọng
đầu tiên mà tôi từng thực hiện, và tôi không nghĩ là tôi đã từng có một tư tưởng
nào chín chắn hoặc khôn ngoan hơn tư tưởng đó. Đến hôm nay tôi vẫn nhớ chính
xác nơi tôi đang ở khi nó đập vào tôi: đang đạp xe về phía bắc trên Đại lộ
Haledon giữa Đường Sáu và Bảy ở Paterson, New Jersey, sau lễ sáng Chúa Nhật với
cha mẹ tôi. Chẳng phải cách chúng ta nhớ chính xác chỗ chúng ta đang
ở khi những sự kiện lớn xảy ra làm thay đổi cuộc sống của chúng ta là điều
đáng chú ý sao?
Tôi đã học
được một vài điều về Thiên Chúa và Chúa Giêsu, về thiên đàng, về thiện và ác
trong nhà thờ và các lớp giáo lý. Như hầu hết trẻ em ở độ tuổi đó, tôi có một
chút bối rối và choáng ngợp bởi mọi sự ấy, đặc biệt bởi những gì mà sự vĩ đại
được gọi là Thiên Chúa mong đợi nơi tôi. Tôi cảm thấy một chút bất an, tôi đoán,
do không biết và một chút tội lỗi về mọi sự tôi không làm mà đáng ra tôi phải
làm. Rồi đột nhiên ánh mặt trời chiếu qua màn sương mờ. Tôi thấy một điều duy
nhất cần thiết làm cho mọi sự khác có ý nghĩa và trật tự.
Tôi đã kiểm
tra cái nhìn của tôi với cha tôi, người có thẩm quyền đáng tin cậy nhất của
tôi. Ông ấy là người có thâm niên trong nhà thờ và (quan trọng hơn nhiều) ông
là một người tốt lành và khôn ngoan. “Cha, mọi thứ người ta dạy chúng ta ở nhà
thờ và ở trường ngày Chúa nhật, tất cả những điều chúng ta phải học từ Kinh
Thánh - tất cả đều phụ thuộc một điều duy nhất, phải không? Ý con là, nếu chúng
ta chỉ nhớ một điều duy nhất quan trọng trong mọi lúc, thì tất cả những sự
khác sẽ ổn, phải vậy không?”
Ông tỏ ra
hoài nghi cách hợp lý. “Điều duy nhất nào? Có rất nhiều điều quan trọng”.
“Ý của con
là, con chỉ nên luôn hỏi rằng Thiên Chúa muốn con làm gì và rồi làm điều đó. Chỉ
vậy thôi, phải không?”
Những người
khôn ngoan biết khi nào họ thua trong cuộc tranh luận. “Con biết đấy, cha nghĩ
con nói đúng, con trai. Chỉ vậy thôi”.
Tôi đã nhận
thức – nhờ ân sủng của Thiên Chúa, không phải trí khôn của riêng tôi, chắc chắn
như vậy – rằng vì Thiên Chúa là tình yêu, do đó chúng ta phải yêu Chúa và yêu bất
cứ điều gì mà Thiên Chúa yêu. Bấy giờ tôi biết rằng nếu chúng ta hướng về người
dẫn đường thánh thiêng và đi theo cây trượng khôn ngoan và yêu thương của Ngài
— là ý muốn, là lời của Ngài — thì cuộc đời chúng ta sẽ thành bản giao hưởng.
2. Con đường
dẫn đến hạnh phúc là tình yêu quên mình. Nhận thức thứ hai theo sát nhận
thức này. Nghĩa là, nó đi theo một cách hợp lý. Nhưng đối với tôi nó đã không
theo sát đúng lúc. Thay vào đó,
phải mất nửa đời người để cảm nhận được, thông
qua cả triệu thí nghiệm, mỗi thí nghiệm đều chứng minh cùng một kết quả: rằng
con đường dẫn đến hạnh phúc là tình yêu quên mình và con đường dẫn đến bất hạnh
là sự vị kỷ, lo lắng cho bản thân và tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mình. Hạnh
phúc của chúng ta chỉ đến với chúng ta khi chúng ta không tìm kiếm nó. Thay vào
đó, nó đến với chúng ta khi chúng ta tìm kiếm hạnh phúc cho người khác.
Đáng xấu
hổ là cần rất nhiều thời gian để học bài học phổ thông này. Nhưng ở đây hầu hết
chúng ta đều là những học sinh vô cùng chậm. Chúng ta không ngừng thử những
cách khác nhau, vì cho rằng có lẽ cái hạnh phúc đã không đến với chúng ta ở lần
vừa rồi vì ích kỷ sẽ đến vào lần kế tiếp. Nó không bao giờ đến. Chân lý này
hết sức rõ ràng, còn chúng ta hết sức mù mờ.
Bí mật của
tình yêu không bị che giấu, vì “Thiên Chúa là tình yêu”, và Thiên Chúa không bị
che giấu. Thiên Chúa phán qua tiên tri Isaia của Ngài: “Khi Ta phán, Ta đâu có ẩn
mình, | ở nơi nào trong vùng đất tối tăm; | Ta không bảo giống nòi Giacop, |
‘Hãy tìm Ta trong cảnh hoang vu.’ | Chính Ta là Đức Chúa phán dạy lẽ công minh,
loan báo điều chính trực” (Is 45,19).
Dĩ nhiên,
các kế hoạch bí mật của Thiên Chúa, mà chúng ta không cần biết, thì ẩn khuất.
Và bản tính vô hạn của Thiên Chúa, điều mà những tâm trí hữu hạn không thể biết,
thì ẩn khuất. Nhưng điều nào chúng ta cần biết, Thiên Chúa không giấu chúng
ta. Ngài ban nó cho chúng ta một cách công khai và tự do. Chúa Giêsu đã mời gọi
các môn đệ tương lai “đến mà xem” (Ga 1,39). Thánh Phaolô tông đồ kêu chúng ta
“hãy cân nhắc mọi sự; điều gì tốt thì giữ” (1Tx 5,21).
Bài học này
phổ biến đến nỗi ngay cả một người ngoại giáo như Đức Phật cũng biết một cách
sâu sắc, hoặc ít nhất là nửa phần tiêu cực của nó. Đây là “Chân lý cao quý thứ
hai” của ngài: nguồn gốc của mọi bất hạnh và đau khổ (dukkha) là sự ích
kỷ (tanha). Tất cả những người dạy ngược lại – rằng sự ích kỷ là con đường
dẫn đến hạnh phúc – đều là những tâm hồn bất hạnh. “Cứ xem họ sinh hoa quả nào
thì biết họ là ai”, như Chúa Giêsu nói với chúng ta. Ai là người hạnh phúc nhất
trên trái đất? Những người như Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ là những người
không có gì, cho đi mọi thứ, và “vui luôn trong Chúa” (Pl 4,4).
3. “Thiên
Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài”. Nhận thức
gây sốc thứ ba đúng theo nghĩa đen là thư Rôma 8,28: “Thiên Chúa làm cho mọi sự
đều sinh lợi ích đối với những ai yêu mến Ngài”. Đây chắc chắn là câu gây kinh
ngạc nhất trong Kinh Thánh, vì chắc chắn không có vẻ gì mọi thứ đều tốt đẹp. Cuộc
sống của chúng ta chứa đựng toàn những thứ khủng khiếp! Nhưng nếu Thiên Chúa, Đấng
Tạo Hóa toàn năng, Đấng thiết kế và chu cấp cho cuộc sống của chúng ta, là tình
yêu trăm phần trăm, thì nhất thiết theo sau đó, như đêm tiếp sau ngày, là mọi
thứ trong thế giới của Ngài, từ lúc sinh đến lúc tử, từ những nụ hôn đến những
cái tát, từ kẹo ngọt đến ung thư, đều đến với chúng ta từ tình yêu tích cực
hoặc khoan dung của Thiên Chúa.
Điều đó
vô cùng đơn giản và hoàn toàn hợp lý. Chỉ có sự phức tạp của người lớn chúng ta
mới khiến nó có vẻ u tối. Như G.K. Chesterton nói: Cuộc sống luôn phức tạp đối
với ai không có nguyên tắc. Đây là sự đơn giản sáng ngời: Nếu Thiên Chúa là
tình yêu hoàn toàn, thì mọi sự Ngài muốn cho tôi phải đến từ tình yêu của Ngài
và vì lợi ích của tôi. Bởi đó là bản chất của tình yêu, muốn điều tốt cho người
mình yêu. Và nếu Thiên Chúa có tình yêu tuyệt đối này cũng toàn năng nữa và có
thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn, thì tiếp theo là mọi thứ phải phối hợp hoạt động
vì lợi ích tối hậu của tôi.
Không nhất
thiết phải nhầm lợi ích trước mắt của tôi, vì tổn thất tầm ngắn có thể là con
đường cần thiết để đạt được lợi ích tầm xa. Và không nhất thiết phải vì lợi ích
rõ ràng của tôi, vì vẻ bề ngoài có thể đánh lừa. Như thế, đau khổ dường như
không tốt. Nhưng nó luôn có tác dụng nhằm lợi ích thực sự và tối hậu của
tôi. Thậm chí những điều xấu tôi và những người khác làm, dù chúng không đến từ
Thiên Chúa, cũng được Chúa cho phép vì chúng được tính trong kế hoạch của
Ngài. Bạn không thể chiếu hết, dồn Ngài vào thế bí, gây bất ngờ hoặc đánh bại
Ngài. “Ngài có cả thế giới trong tay”, như điệp khúc một bài thánh ca xưa đã
nói. Và Ngài cũng có cả cuộc sống của tôi trong tay Ngài. Ngài có thể lấy đi bất
kỳ sự dữ nào do thiên nhiên, con người hoặc ma quỷ - như đập một con ruồi. Ngài
cho phép điều đó chỉ vì đến cuối cùng nó sinh lợi ích lớn hơn cho chúng ta, giống
như Ngài đã làm với ông Gióp.
Trong thực
tế, mỗi nguyên tử trong vũ trụ đều chuyển động cách chính xác như nó đang chuyển
động chỉ vì Đấng Tình Yêu toàn năng đã định cho nó như vậy. Dante đã đúng: đó
là “tình yêu làm chuyển động mặt trời và tất cả các vì sao”. Đây không phải là
sự tưởng tượng thơ mộng nhưng là sự thật hữu lý và lành mạnh. Do đó, điều sâu
sắc nhất bạn có thể nói chính là lời kinh trước bữa ăn của các trẻ thơ:
“Lạy Thiên Chúa cao cả và nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng
con thực phẩm này. Amen!”. Tôi đã luôn tin vào tình thương và sự toàn năng của
Thiên Chúa. Nhưng một khi tôi đã đặt hai ý tưởng này lại với nhau, đã thấy được
hệ luận chắc chắn hợp lý này (Rm 8,28), và đã áp dụng chân lý ấy vào cuộc
sống của mình, thì tôi không bao giờ có thể nhìn thế giới như trước nữa. Nếu
Thiên Chúa cao cả (toàn năng) và Thiên Chúa nhân hậu (yêu thương), thì mọi việc
xảy ra đều là thức ăn tinh thần cho chúng ta; và chúng ta có thể và phải biết
ơn Ngài vì điều đó. Tuy nhiên, biết bao lần chúng ta không nhận ra và cảm kích
chân lý đơn giản nhưng sâu sắc này.
Tôi nghĩ
đây là ba tư tưởng sâu sắc nhất mà tôi từng có. Tuy nhiên, có một tư tưởng tôi
nghe được và tôi nghĩ còn sâu sắc hơn. Đó là câu trả lời của Karl Barth cho
một người đã hỏi ông: “Thưa giáo sư Barth, thầy đã viết hàng chục cuốn sách
hay, và nhiều người chúng tôi cho thầy là nhà thần học vĩ đại nhất trên thế giới.
Trong tất cả những tư tưởng của thầy, tư tưởng nào là sâu sắc nhất mà thầy có?”
Không một giây do dự, nhà thần học vĩ đại trả lời: “Chúa Giêsu thương mến tôi”.
Chuyển
ngữ: Nhóm dịch thuật Gioan XXIII
Nguồn: giaophanmytho.net