Trong khi khoa ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ như là một khả năng truyền
thông vượt bậc của con người thì triết học ngôn ngữ muốn đào sâu cách con người
dùng ngôn ngữ để tạo nên ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa của ngôn ngữ thì luôn tồn tại
trong mối tương quan giữa tư tưởng và thế giới, hay giữa ý định và ý vị. Con
người biết thế giới qua ngôn ngữ và dùng ngôn ngữ để tạo nên thế giới cho mình. Tuy cả hai ngành
ngôn ngữ học và triết ngôn ngữ đều tìm hiểu về bản chất và chức năng của ngôn
ngữ nhưng triết học chú tâm đặt biệt hơn đến cách con người thể hiện mình qua
ngôn ngữ. Trong khi khoa ngôn ngữ học quan sát hiện tượng ngôn ngữ để trừu xuất
các quy tắc phổ quát vốn điều phối hành vi, thì triết học thì xem ngôn ngữ như
một thể tồn tại của con người, qua đó con người vượt lên chính mình và thế giới
chung quanh mình, và để tạo nên ý nghĩa cho cuộc sống. Ngày nay, triết học ngôn
ngữ đã chuyển hướng sang phân tích cấu trúc logic của ngôn ngữ cũng như mối tương
quan giữa ý tưởng, ý nghĩa và ý vị. Bài này sẽ sơ lược qua lịch sử phát triển của
triết học ngôn ngữ trước khi đi vào các cấu trúc của ngôn ngữ và khuynh hướng phân
tích hiện tại.[1]
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
TRIẾT NGÔN NGỮ
Triết học ngôn ngữ ở Tây Phương khởi đầu từ các triết gia Hy Lạp đặt vấn
đề về nguồn gốc của tên của sự vật. Plato khẳng định rằng ngôn ngữ đại diện cho ý tưởng và khái niệm vốn tồn
tại độc lập và trước khi có ngôn ngữ, do đó tên gọi sự vật
đến từ bản chất (ý niệm) của nó, còn ngôn từ chỉ đại diện cho ý tưởng, cảm xúc
và thói quen xã hội vốn chỉ đóng một vai trò nhỏ. Ngược lại, phái Ngụy Biện (Gorgias) lý luận rằng vì không có
chân lý tuyệt đối nên ngôn ngữ không thể truyền thông cách trung thực cho thực
tại khách thể. Còn Aristotle chọn thái độ duy thực ôn hóa, ý nghĩa
của một thuộc ngữ (predicate) thì được thiết lập qua việc trừu xuất những nét
tương đồng giữa các sự vật cá thể, ví dụ nhiều loại chó khác nhau nhưng chúng vẫn
mang một số nét tương tự để được nhận ra bản chất của “con chó”. Aristotle gọi
bản chất thực sự của các sự vật là mô thể (form) vốn là nền tảng chung
cho các cách thể hiện cụ thể (matter) của sự vật. Aristotle đã dùng logic tam đoạn luận để áp dụng
các phạm trù siêu hình này vào sự vật cụ thể.
Ý nghĩa của ngôn ngữ cũng được các triết gia Khắc Kỷ đẩy xa thêm một bước,
đó là việc phân tích năm thành phần thiết yếu của diễn ngôn: tên gọi, động từ,
danh từ chung, liên từ và mạo từ. Phái Khắc Kỷ giới thiệu khái niệm “định đề”,
tức là khả năng xác định một mệnh đề là đúng hay sai, dựa trên “lektón” hay ý
nghĩa và chức năng của mỗi hạn từ. Các học giả Kinh Viện thời Trung Cổ chú tâm
hơn về nhiều mức độ ý nghĩa và cách dùng ngôn ngữ (nguyên văn, ẩn dụ, hình luận,
loại suy) vì họ có nhu cầu chuyển dịch những bản văn Hy lạp qua tiếng La tinh.
Peter Abelard, William Ockham và John Duns Scotus là những nhân vật quan trọng
trong dự án này. Họ xem Logic là “khoa học về ngôn ngữ”. Nghiên cứu của họ đã
tiên liệu các mối lưu tâm mà sau này triết học ngôn ngữ hiện đại đã khai triển
sâu rộng hơn như: tính chứng thực hay duy danh ngôn ngữ, mâu thuẫn giữa logic
và cách xác định chân lý của một định đề, cách phân loại chữ và hạn từ.
Trong thời Khai Sáng chú tâm về nguồn gốc nhân loại
đã đưa đến sự truy vấn mới về nguồn gốc của ngôn ngữ. Từ sự kiện Tây Phương khám phá chữ viết Trung Hoa và chữ tượng hình Ai Cập,
các nhà ngôn ngữ học thời Khai Sáng chú tâm đặt biệt đến ý tưởng về một ngôn ngữ
phổ quát như triết học. Từ đó, nhiều nhà văn hóa học cho rằng ngôn ngữ khởi nguồn từ các nỗ lực
thể hiện các cảm xúc bản năng vốn gần gủi với âm nhạc và thi ca hơn là các hình
thức logic của ý tưởng (Rousseau, J.G. Herder). Mặt khác, các triết gia duy lý
xem ngôn ngữ như là những phạm trù bẩm sinh mà chúng ta có thể nhận ra qua cách
lý tính điều phối sự hiểu biết của con người về thế giới (Descartes, Kant).
Tại Âu châu, triết ngôn ngữ thường được xem như là phần của logic học. Trong các thế kỷ cận đại, từ việc khám phá về
các ngôn ngữ tượng hình như Hoa ngữ và Ai Cập, người ta bắt đầu lưu tâm về một
loại ngôn ngữ siêu hình hay phổ quát cho tất cả ngôn ngữ của nhân loại. Các động
lực này đã làm cho việc phân tích ngôn ngữ đóng một vai trò trung tâm và dần dần
thay thế cho những gì siêu hình học và tri thức luận đã cố gắng thiết lập trong
lịch sử triết học Tây phương.[2]
Đầu thế kỷ XX, Ferdinand de Saussure (1916), với sáng tác “Cours de
linguistique générale” và Noam Chomsky đã chuyển hướng nghiên cứu ngôn ngữ sang
việc tìm hiểu những cấu trúc tiên nghiệm và
phổ quát vốn điều phối lối tư duy của con người. Một
trong những câu hỏi quan trọng của triết học ngôn ngữ là “Ngôn ngữ là gi?” Theo
các nhà tín hiệu học cho rằng ngôn ngữ là vấn đề thao túng và dùng các biểu tượng
để gây nên sự chú ý về nội dung muốn truyền đạt. Vì thế, không chỉ loài người
mà cả các loài vật đã phát triển kỷ năng dùng ký hiệu. Nhưng điều gì làm nên
ngôn ngữ của con người? Điều gì làm cho con ngôn ngữ này có thể chuyển dịch
sang ngôn ngữ khác? Noam Chomsky chỉ ra vai trò phổ quát của ngữ phạm và cú
pháp (các quy luật điều phối cấu trúc của một câu). Chomsky tin rằng loài người
được sinh ra với bản năng có sẳn về “ngữ phạm phổ quát” (universal grammar), và
được bản năng này được đánh thức hay kích hoạt bởi môi trường ngôn ngữ mà trẻ
con trải qua trong các năm đầu đời. Chomsky gọi ngôn ngữ nội tâm này là
“I-language”, để phân biệt với “E-languages” vốn được thành hình qua cách dùng
âm hình và ngữ phạm trong phạm vi diễn ngôn công cộng.
Các triết gia thực dụng xem ngôn ngữ có chức năng lắp đầy những khoảng trống trong trải nghiệm của
chúng ta về thế giới, như công cụ dùng để giải quyết các vấn trong tương quan
giữa tư tưởng và thế giới. Vấn đề là liệu tương quan giữa ngôn ngữ và thế giới
có thật sự đồng điệu hay không? Thuyết thực chứng giới hạn ngôn ngữ vào những
gì nó có thể chỉ ra trong thế giới. Trường phái triết học phân tích ở thế kỷ
XX, đặt biệt với tư tưởng của Wittgenstein đã tạo nên “khúc quanh ngôn ngữ”
(linguistic turn) vốn đưa mục đích của triết học ngôn ngữ thành nỗ lực mô tả và
phân tích về hình thức sự sống bao hàm qua hành vi ngôn ngữ.
CẤU TRÚC CỦA NGÔN NGỮ
Có ba yếu tố căn bản
tạo nên ngôn ngữ: âm hình (morpheme), cú pháp (syntax), và ý nghĩa (semantics).
Rất nhiều loại sinh vật dùng ký hiệu để truyền thông (âm thanh, đáng điệu, mùi
vị, màu sắc, cảm xúc, sự vật trong tự nhiên, etc.), nhưng chỉ có loài người mới
có khả năng tạo nên những âm hình phức tạp và trừu tượng mà không thể có trong
tự nhiên. Chỉ có loài người mới có thể đưa âm thanh, sự vật trong tự nhiên lên
mức độ ẩn dụ và biểu tượng. Hơn nữa, đối với con người ngôn ngữ không chỉ là những
hình vị ngẫu nhiên, nhưng được sấp xếp theo một cú pháp hay ngữ phạm có sẳn để giúp
ta nhận diện và hiểu các ngôn ngữ khác nhau. Cuối cùng, biết dùng ngôn ngữ là
tham dự vào một hình thức sự sống nào đó, tức là khả năng hiểu cách cộng đồng
đó diễn tả ý nghĩa như thế nào. Ý nghĩa của ngôn ngữ thì không chỉ bị giới hạn
bởi ngữ nghĩa (sense) của một từ mà còn về ý vị (reference) mà hạn từ đó chỉ ra
trong thế giới nữa. Ví dụ, “Sao Mai” và “Sao Hôm” là hai ngữ nghĩa khác nhau
nhưng ám chỉ cùng một “ý vị” là Sao Hỏa. Một khi dùng ngôn ngữ là công cụ để diễn
đạt ý nghĩa, nếu ta không ý thức về ba yếu tố này thì ngôn ngữ sẽ trở nên vô dụng.
Triết học ngôn ngữ
muốn tìm hiểu cách con người nhận diện “ý nghĩa” của ngôn ngữ. Một cách đơn giản
nhất, ý nghĩa của một hạn từ là “nội dung” mà ta dùng hạn từ đó để truyền
thông. Khi ta nhắn tin, đối thoại, sáng tác hay diễn tả cái gì đó, ta phải dựa
vào âm hình và cấu trúc của ngôn ngữ để diễn tả ý tưởng của chúng ta về một ý vị
nào đó. Như thế, ý nghĩa của ngôn ngữ thì nằm trong mối tương quan giữa tư tưởng
và thế giới, kết nối ý định của người phát ngôn và ý vị của diễn ngôn. Chúng ta
có thể tóm tắc các học thuyết về mối tương quan này lại thành ba nhóm.
Nhóm thứ nhất có
hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Thuyết ý tưởng (idealism) cho rằng ngôn ngữ
chỉ là những ký hiệu hay biểu tượng bên ngoài, còn ý nghĩa chân thực của ngôn
ngữ là nội dung của tiến trình tư duy bên trong con người. Bản chất của ý nghĩa
là hoàn toàn tinh thần, được gợi lên bởi dấu hiệu. Trường phái duy nghiệm Anh
quốc như John Locke, George Berkekey và David Hume khai triển quan điểm này. Ngược lại, thuyết ý vị (reference) do Tyler
Burge và Saul Kripke cổ võ, vốn khẳng định rằng ý nghĩa của ngôn ngữ là sự vật trong
thế giới được kết nối với các ký hiệu. Như khi ta dùng ngón tay để giải thích
hình của “Chị Hằng” trên mặt trăng, thì ý nghĩa của phát ngôn không phải là
ngón tay mà là hình dáng xuất hiện trên mặt trăng mà chúng ta phải cố gắng mường
tượng ra.
Nhóm thứ nhì gồm hai
quan điểm nhấn mạnh về tính trung thực và sự sai lầm khi dùng ngôn ngữ. Thuyết
“điều kiện chân lý” (truth condition) khẳng định ý nghĩa của một mệnh đề thì
thuộc về những điều kiện dùng để xác định mệnh đề đó là đúng hay sai. Có nhiều mô
hình được dùng để kiểm chứng tính chân thực của một mệnh đề như thuyết “nguyên
tử logic”, thuyết “hình ảnh”, thuyết “nội hàm” (Frege, Moore, Russell). Carnap đi
xa hơn với thuyết “thực chứng logic” (logical positivism) khi cho rằng chỉ những
mệnh đề mà ý vị của nó có thể kiểm chứng được thì mới có ý nghĩa. Thuyết thực
chứng được dùng để củng cố chân lý của ngôn ngữ khoa học, nhưng sẽ gặp nhiều giới
hạn khi phải giải thích về ngôn ngữ triết học, thần học hay luân lý.
Cuối cùng, nhóm thứ
ba hướng về khía cạnh thực tế của hành vi ngôn ngữ. Các triết gia W. James,
C.S. Peirce lập ra trường phái thực dụng ở đầu thế kỷ XX, và cho rằng chân lý của
một mệnh đề không nằm trong hình thức logic nhưng nơi hiệu quả thực tế mà mệnh
đề đó mang lại trong thế giới. Wittgenstein thì sáng tạo hơn với khái niệm “trò
chơi ngôn ngữ” (language game) của khi cho rằng ý nghĩa của ngôn ngữ thì được
sáng tạo qua cách dùng của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ thể hiện một hình thức sự sống
(lifeform) thì ý nghĩa của ngôn ngữ lệ thuộc vào bối cảnh, và ý định của người
tham dự vào “trò chơi ngôn ngữ” vốn tạo nên ý nghĩa của nó.[3]
VÒNG TRÒN Ý NGHĨA:
“TƯ TƯỞNG-NGÔN NGỮ-THẾ GIỚI”
Hiểu ngôn ngữ
không phải là một vấn đề đơn giản, vì ý nghĩa (semantics) của ngôn ngữ thì luôn
nằm trong mối tương quan của ba yếu tố, tư tưởng-ngôn ngữ-thế giới, hay ý định-ngôn
ngữ-ý vị. Mỗi yếu tố của vòng tròn thông diễn này sẽ cho thấy tầm quan trọng của
việc tìm hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ. Khi
ta nhấn mạnh vào “ý định” thì ngôn ngữ được xem như là công cụ để biểu đạt tư
tưởng. Mọi trạng thái tinh thần: niềm
tin, nổi lo âu, hy vọng, khao khát, etc., đều luôn luôn hướng về cái gì
đó. Do đó, ngôn ngữ là “hành vi” cho sự
“hướng về” hay “ý định”, vốn có thể được biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau,
không nhất thiết phải là ngôn từ. Mặc khác, khi ta nhấn mạnh vào khả năng dùng
ngôn ngữ để nói về thực tại thì ý nghĩa của ngôn ngữ có thể đến từ ngữ cảnh
(sense) của một mệnh đề, hoặc từ khả năng kết nối với ý vị (reference) trong thế
giới. Theo trường phái thực chứng, chỉ có ngôn ngữ mà sự kết nối với ý vị được
kiểm chứng mới có ý nghĩa, các loại ngôn ngữ như siêu hình hay tôn giáo là mơ hồ
và cần phải loại bỏ. Tuy nhiên, nếu nhìn từ nhãn quan cấu trúc của cú pháp
(syntax) thì ý nghĩa được xác định theo chức năng của một hạn từ trong một mệnh
đề, hay ngữ cảnh của nó trong bản văn mà không cần ra ngoài phạm vi của ngôn từ.
Ý ĐỊNH
Một khái niệm quan
trọng khác trong triết học ngôn ngữ là “ý định, hay tính “hướng về”. Một cái gì
đó về những cái gì khác. Ý định là từ dùng cho tâm trạng được hướng về những đối
tượng hay biến cố gì đó trong thế giới. Như thế, tất cả “ý định” như niềm tin,
nỗi lo sợ, hy vọng và khao khát đều có đối tượng nào đó. Điều này đã được đề cập
đến từ thời Trung Cổ, nhưng trong thế kỷ XIX được triết gia và tâm lý gia Franz
Brentano khôi phục. Brentano khẳng định rằng chỉ các hiện tượng tinh thần mới
thể hiện tính ý định, và ông dùng nó để chứng tỏ rằng hiện tượng tinh thần
không giống như một sự vật thể lý.
Các triết gia ngôn
ngữ học sau này như J. L. Austin và John Searale đưa ra vấn đề: làm thế nào tâm
trí và ngôn ngữ chúng ta dùng, lại có thể áp đặt ý định lên sự vật mà bản chất
vốn không phải là có ý định? Làm thế nào trạng thái tinh thần làm cho sự vật hiện
diện hay đại diện cho thế giới thật? Austin giải thích ý định là những hành vi
phát ngôn dựa trên quy ước hiệu lực. Học thuyết hành vi phát ngôn (speech-act
theory) của Searle xem ngôn ngữ như một hình thức của hành vi, vì khi ta nói về
cái gì đó thì ta cũng đang làm cái gì đó. Từ đó, Searle kết luận là các hành vi
tự chúng có mang tình ý định rồi.
Ý VỊ
Chủ đề “ý vị” liên
quan đến cách ngôn ngữ kết nối với thế giới. John Stuart đề nghị thuyết ý vị trực
tiếp, tức là ý nghĩa của một diễn từ nằm nơi nó chỉ ra trong thế giới. Ông cho
rằng ngôn ngữ là sự biểu thị (nghĩa nguyên từ) và sự hàm ý (hậu cảnh chủ quan về
văn hóa hay cảm xúc gắn kết với một hạn từ). Theo Mill, các danh từ riêng (tên
gọi của nhân vật hay địa phương) mới có biểu thị vì nó có ý vị trong thế giới
thật. Người tạo nền tảng lý thuyết cho thuyết ý vị trực tiếp là Gottlob Frege vốn
cho rằng các hạn từ ám chỉ sự vật nơi thế giới bên ngoài, nhưng ý nghĩa thì rộng
hơn là những gì một tên gọi ám chỉ về sự vật. Frege chia nội dung của ý nghĩa của
một phát ngôn ra thành hai phần: Sinn (sense, hay ngữ nghĩa) và Bedeutung
(meaning, reference, hay ý vị). Ý nghĩa (sense)
của một câu nói thì có thể mơ hồ, phổ quát và khách quan, nhưng đó là cách nó
thể hiện của sự vật mà nó nói đến. Ý vị (Bedeutung) là sự vật trong thế giới mà
các ngôn từ chỉ ra, và đại diện cho giá trị chân thực (có thể được xác định là
đúng hay sai). Có thể có nhiều tên (mỗi tên mang ý nghĩa khác nhau) nhưng ám chỉ
cùng một sự vật. Ví dụ, “sao Mai” và “sao Hôm” có cùng một ý vị là “Sao Hỏa”
nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau.
Bertrand Russell, tiếp
nối quan điểm mô tả ngôn ngữ của Frege, khi cho rằng ý nghĩa của một hạn từ thì
đồng nghĩa với cách người phát ngôn mô tả một bối cảnh mà có thể thay thế bằng
tên gọi. Danh từ riêng về nhân vật hay địa phương là những định nghĩa ngắn gọn,
đại diện cho mô tả chi tiết hơn về tính cách của một người hay nơi chốn. Các diễn
từ như “tôi”, “nơi này”, “lúc này” là “danh tự logic” thì được cho là vô nghĩa
vì tự chính nó vì không có ý vị trực tiếp. Saul Kripke phản biện lại thuyết mô
tả vì ông cho rằng các tên gọi thường là những ký hiệu cô đọng và không nói lên
mọi thế giới mà cá nhân đó tồn tại.
VAI TRÒ TRUNG GIAN
CỦA NGÔN NGỮ
Nếu ngôn ngữ đóng
vai trung gian giữa tư tưởng và thế giới thì chúng ta có thể nói là qua ngôn ngữ
con người học biết về thế giới và đầu tư ý tưởng của mình về thế giới. Mặc
khác, thế giới chỉ có thể đến với chúng ta qua hình ảnh của nó chính là ngôn ngữ.
Hai khía cạnh “đầu tư ý tưởng qua ngôn ngữ” và ”thế giới đến với chúng ta qua
hình ảnh” tạo nên vòng tròn giải thích của ngôn ngữ. Muốn hiểu biết thế giới
chúng ta phải đi qua con đường của ngôn ngữ, và ngôn ngữ cũng là hình ảnh đầu
tiên chúng ta có về thế giới. Hiểu một ngôn ngữ
chính là biết cách tồn tại qua ngôn ngữ đó. Trong lịch sử, cách tồn tại qua
ngôn ngữ này được lý giải bằng nhiều mô hình triết học khác nhau như “bản thể
luận” (Heidegger), “trò chơi ngôn ngữ” (Wittgenstein), hoặc qua thói quen gọi
tên thực tại (Quine).
Khi nhận diện ngôn
ngữ như là sự đầu tư của hiểu biết về thế giới, chúng ta cũng có thể lần mò ra
cách tư tưởng điều phối thế giới qua ngôn ngữ, ví dụ như nguồn gốc của não trạng
đối xử phân biệt và cách dùng ngôn ngữ về giới tính, chủng tộc, hay giai cấp xã
hội, v.v. Mặc khác, khi nhấn mạnh về ngôn ngữ như là hình ảnh của thế giới đi
vào tâm trí con người, thì chúng ta đang cân nhắc về khả năng trung thực của
ngôn ngữ như là hình ảnh của thực tại.
Chúng ta muốn biết ngôn ngữ có thực sự phản ảnh thực tại trong thế giới
hay không. Ý nghĩa của một mệnh đề tùy thuộc vào sự tương tác giữa ngôn ngữ và
thế giới bên ngoài. Sự tương tác này là logic hay cú pháp chứ không nhất thiết
phải là bối cảnh xã hội hay sự vật. Ricoeur cho rằng ý nghĩa của ngôn ngữ không
lệ thuộc vào chủ thể hay sự kiện bên ngoài mà là khả năng nối kết của tình tiết
và cấu trúc của ngôn ngữ qua đó nó có thể mở ra thực tại hay chân trời mới như
trong tiểu thuyết hay các trình thuật.
Công việc chuyển dịch
và chú giải đưa đến các vấn đề khác cho triết học ngôn ngữ. W.V. Quine trong thập
niên 50 đã biện hộ cho tính bất định của ý nghĩa và ý vị căn cứ trên nguyên tắc
chuyển dịch triệt để, tức là khi chuyển dịch ngôn ngữ của những bộ tộc sơ khai
mà không có dữ liệu lịch sự nào trước đó để tra cứu cho chính xác. Quine cho rằng
trong trường hợp đó, chúng ta không có cách nào khẳng định một cách tuyệt đối ý
nghĩa hay ý vị mà người phát ngôn thuộc bộ lạc gắn kết với ngôn từ họ dùng, và
nếu ý vị là bất định thì có thể tạo nều nhiều lối chuyển dịch hay chú giải mà
không có lối nào chính xác hơn tất cả. Học trò của Quine là Donald Davidson,
cũng đã khai triển một lý thuyết tương tự cho rằng ý nghĩa áp đặt lên mỗi câu
thì chỉ có thể được xác định qua cách gán ý nghĩa đó lên tất cả những gì cá
nhân đó khẳng định cũng như về trạng thái tinh thần và thái độ của người đó.