Lm. Joseph Tân
Nguyễn, OFM
GIỚI THIỆU: NGÔN
NGỮ TÔN GIÁO
Khi nói về Thiên
Chúa, khó mà khẳng định hoặc bác bỏ sự hiện hữu của Người nếu chỉ dùng các biện
chứng thần học. (1) Vì lẽ mọi ngôn ngữ dùng để diễn đạt đức tin đều nằm trong
phạm vi “tôn giáo,” với những qui luật khác biệt với ngôn ngữ thường ngày hoặc
trong các ngành khoa học khác. Ðối với người tin vào Chúa, hai chữ “Thiên Chúa”
nói đến một Ðấng Tối Cao, hay một Mầu nhiệm Tuyệt Ðối, toàn năng và toàn thiện
mà ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được. Nhưng bên ngoài phạm vi đức
tin, mệnh đề “Thiên Chúa có thật” chỉ là một giả thuyết chưa được minh chứng.
Trước khi xác định mệnh đề này đúng hay sai thì người nghe phải hiểu hạn từ
“Thiên Chúa” nói về gì, và “có thật” là gì? Nếu những điều kiện này không được
thỏa mãn thì mệnh đề trên đây cũng không khác gì với ”X” có thật” mà chúng ta
không biết “X” nói về gì, hoặc sự “có thật” của Thiên Chúa có khác gì với cái
bàn hay chiếc ghế “có thật” hay không? Ví dụ sơ khởi này cho thấy có một sự
khác biệt giữa cách dùng ngôn ngữ trong tôn giáo so với trong văn hóa thông thường.
Nhưng làm thế nào
để phân biệt văn hóa với tôn giáo? Cả hai phạm vi này nối kết với nhau như thế
nào? Paul Tillich, một thần học gia Tin Lành thời 1940-60, cho rằng mọi tôn
giáo đều mặc lấy một hình thức văn hóa, và mọi văn hóa đều hàm chứa một bản chất
tôn giáo. (2) Trong hệ suy tư triết học ngôn ngữ hiện tại, khái niệm “bản chất”
và “hình thức” sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là khi bàn đến vấn đề “bản vị” của tôn
giáo. Tuy nhiên chúng ta phải công nhận là không thể có tôn giáo nếu không có
văn hóa, và ngược lại, văn hóa không thể thành hình nếu không có những nền tảng
đạo đức và tôn giáo duy trì nó từ đời này qua đời kia. Khi các nhà truyền giáo
Tây Phương đến Việt Nam, họ không chỉ đem “bản chất” thuần túy của đạo Kitô,
nhưng một Kitô giáo đã được suy diễn và trưởng thành trong môi trường của văn
hóa Tây Phương. Cũng như thế, Kitô giáo không chỉ mặc lấy một hình thức văn hóa
Việt đơn thuần, nhưng một nền văn hóa đa dạng và đã được thấm nhuần với những
giá trị đạo đức đến từ Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, v.v. Vì thế, hội nhập
văn hóa không phải là sự nối kết giữa “bản chất” của tôn giáo này với “hình thức”
của văn hóa kia, nhưng là một tiến trình sát nhập, gia nhập và hội nhập phức tạp
về cách dùng ngôn ngữ tôn giáo khi hai nền văn hóa gặp gỡ nhau. (3) Sự phát triển
ngôn ngữ tôn giáo trong mỗi giai đoạn sẽ xác định trình độ hội nhập của văn hóa
và tôn giáo. Cách dùng ngôn ngữ tôn giáo trong từng bối cảnh văn hóa sẽ cho ta
cách đánh giá mức độ “bản vị hóa” của tôn giáo trong bối cảnh văn hóa mới.
Nhận thức được tầm
quan trọng của ngôn ngữ trong sự nối kết giữa tôn giáo và văn hóa, các nhà truyền
giáo trước khi đến Việt Nam đều chuẩn bị học tiếng Việt rất kỹ lưỡng. Có những
vị như Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đã dành thời gian nghiên cứu và dùng mẫu
tự Latin để phiên âm giọng nói của người Việt, sau này được gọi là chữ Quốc Ngữ.
(4) Họ muốn làm quen với ngôn ngữ thường dùng để diễn đạt đạo đức và luân lý
trong văn chương, ca dao, tục ngữ, nói chung là nền văn hóa Việt Nam. Mục tiêu
của họ là tìm trong văn hoá Việt những ngôn từ đặc biệt khi nói đến thì có thể
đánh động đến lòng đạo đức hay đời sống luân lý của người Việt, và từ đó, có thể
tạo nên một cầu nối ngôn ngữ thích hợp cho việc truyền bá đức tin và rao giảng
đạo mới. Cha Ðắc Lộ đã thành công trong việc tìm kiếm “môi trường ngôn ngữ”
này. Mục tiêu của ngài là làm thế nào để giảng về “Deus” (God) cho một dân tộc
mà chưa hề nghe đến Thiên Chúa. Ngài ghép chữ “Trời” (có sẳn trong tiếng Việt)
với chữ “Chúa” (người có quyền hành) để tạo thành một cụm từ mới, “Ðức Chúa Trời”
để chuyển dịch chữ “Deus” qua tiếng Việt. Từ đó, đạo mới do các cố Tây giảng sẽ
được gọi là đạo “Ðức Chúa Trời.” Các nhà truyền giáo đã tìm được trong chữ “Trời”
nói lên những nét đặt thù của nền tảng đạo đức của người Việt, và dùng nó như
môi trường để hạt giống đức tin Kitô giáo được phát triển tại xứ sở mới lạ này.
Hai hạn từ “Deus”
và “Trời” có cùng một “ý vị”, đó là Ðấng mà chúng ta tin là Tác Giả của mọi sự
vô hình và hữu hình trên trên đời này, nhưng lại mang “ý nghĩa” khác nhau, tức
là chức năng của nó trong môi trường văn hóa nó được dùng. Vì lẽ, nếu ngôn ngữ đã
trưởng thành từ đời này qua đời kia và tạo nên văn hóa của một dân tộc, thì hẳn
nhiên sẽ có những qui luật khác nhau điều khiển cách dùng hai hạn từ “Trời” và
“Deus.” Bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu cách ngôn ngữ tôn giáo được hình thành
qua văn hóa. Phần đầu sẽ phân tích ý nghĩa của chữ “Trời” trong văn chương truyền
khẩu, văn học Hán Nôm, thư mục lưu ký Việt Nam; phần sau sẽ tìm hiểu các phạm
trù và khái niệm tiêu biểu về “Deus” được dùng trong triết thần Tây Phương. Khi
so sánh các chức năng khác biệt của hai hạn từ này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai
trò của ngôn ngữ trong tiến trình hội nhập văn hóa.
I. CHỮ “TRỜI”
TRONG TIẾNG VIỆT
Trong phần này
chúng ta sẽ tóm lược những ý nghĩa phong phú của chữ “Trời” qua văn học bình
dân và văn học hán-nôm mà nhiều học giả như Trần Phổ, Nguyễn Ðăng Thục, Nguyễn
Ðổng Chi, Bùi Văn Nguyên, Thiện Ðình, Ðổ Thị Hảo, v.v., đã dày công nghiên cứu
và sưu tầm. Trước tiên, chữ “trời” là một từ ngữ rất thông dụng trong tiếng
Việt. Theo cuốn Ðại Tự Ðiển Tiếng Việt (5) có ít nhất 50 cụm từ liên
hệ đến chữ “trời” (trời long đất lỡ, trời xui đất khiến, trời tru đất diệt,
v.v.). Trước tiên, nếu là một danh từ thì “trời” có ba ý nghĩa sau đây: Khoảng
không gian bao phủ trên không (“Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng
giữa trời mà reo”); Thiên nhiên, thời tiết (trở trời, trời hạn, trời
bão, v.v.); Lực lượng siêu nhiên sáng tạo và quyết định mọi sự (trời
hành, trời phạt, v.v.). Nếu dùng như một tĩnh từ thì có hai ý nghĩa chính:
Hoang dại, không do con người vun trồng, nuôi dưỡng (vịt trời, cải trời, của
trời cho, v.v.); Một thời gian rất lâu (ba năm trời xa cách). Cuối
cùng nếu dùng như một thán từ thì có các ý nghĩa như: Tiếng than thở, ngạc
nhiên hay luyến tiếc (trời ơi!, quá trời!, v.v.); Một ẩn dụ, biểu tượng
cho cái gì quá tầm tay con người (Muốn làm trời sao? Những kẻ đội đá vá trời);
Tiếng dùng để chửi mắng (trời đánh trật búa! đồ trời trồng!) (6)
Nếu xét theo nguồn
gốc nguyên tự thì “Trời” là một từ Nôm, thuần Việt, do hai chữ Hán, “Thiên”
và chữ “Thượng” ghép lại. (7) Từ ngữ “Trời” đồng nghĩa với một số từ các
tôn giáo ngoại lai đưa vào Việt Nam: Thiên Hoàng, Thượng Thiên (Nho); Thượng Ðế,
Ngọc Hoàng Thượng Ðế (Lão); Ðức Chúa Trời, Chúa Cả Trời Ðất (Thiên Chúa giáo). Các
thừa sai tại Trung Hoa ở thế kỷ 17 muốn phân biệt “Thiên” (vật lý) và “thiên”
(siêu nhiên) nên đã dùng “Thiên Chủ” để dịch chữ “Deus.” Trong văn chương Việt
Nam, hai chữ “trời” và “thiên” được dùng thay thế nhau: cơ trời, thiên cơ, đạo
trời, thiên đạo, mệnh trời, thiên mệnh. Có nhiều từ như Hoá công, Con tạo, Trẻ
tạo hoá, Hồng quân, Khuôn xanh, v.v.. cũng thấy được dùng thường xuyên trong cổ
văn Việt Nam.
Xanh kia thăm thẳm
từng trên
Vì ai gây dựng cho
nên nổi này. (Chinh
Phụ)
Trẻ tạo hóa đành
hanh quá ngán
Ðắm đuối người
trên cạn mà chơi. (Cung
Oán)
Hồng quân với
khách hồng quần
Ðã xoay đến thế
còn vần chưa tha. (Kiều)
Trong đời sống hằng
ngày, những tiếng “nhờ Trời” hoặc “Trời ơi, hởi Trời!” là những
tiếng kêu đầu môi chót lưỡi của mọi người, bất kể lương hay giáo, trí thức hay
lao động, có tín ngưỡng hay không. Trước những biến cố bất ngờ, bất khả kháng,
người ta kêu Trời để nói lên lòng biết ơn và cảm phục, để than trách và cầu cứu,
và nhất là kêu tự nhiên không cần phải suy nghĩ. (8)
“Trời” trong ca
dao & tục ngữ
Trong tục ngữ, ca
dao “trời” thường là một hậu cảnh, làm cho tăng thêm lời hay ý đẹp:
Trời mưa cho lúa
chín vàng
Cho anh đi gặt cho
nàng đem cơm
Ðem thời bát sứ
mâm son
Chớ đem mâm gổ anh
hờn không ăn.
Nhờ Trời mưa gió
thuận hòa
Nào cầy, nào cấy,
trẻ già đua nhau.
Vái trời đừng gió
đừng mưa
Ðể trăng sáng tỏ
anh đưa em về.
Với cuộc sống nông
nghiệp, người Việt phải xem trời để biết thời tiết, biết ngày giờ trồng trọt,
chăn nuôi. Học giả Thiện Ðình đã sưu tầm một số câu nói quen thuộc hay ngạn ngữ
nói lên luân thường đạo lý, cách học ăn học nói, cách chăm sóc ruộng vườn, buôn
đông bán tây, ăn ở phúc đức, quan hình sát sắc, nhân tình thế thái, phong thổ sản
vật, xét lẽ phải chăng, v.v., nói chung là cái quốc hồn quốc túy của người Việt.
Trong đó, khái niệm “trời” được dùng thông dụng nhất qua ý nghĩa thiên
nhiên và thời tiết: (9)
Trời nắng tốt dưa,
trời mưa tốt lúa.
Trời ấm tốt mạ, trời
giá tốt rau.
Trời nắng chóng
mưa, trời mưa chóng tối.
Gió đông động bể,
nước mưa cưa trời.
Trời đang nắng cỏ
gà trắng thì mưa.
Trời nắng chang chang,
đất càng khó cuốc.
Trời mưa phân phất,
ướt đất dễ cày.
Thấp mạ phải tính
con nước; cấy lúa phải xem thời trời.
Giữa trời có sang
Vân-hán; một năm là mấy tháng xuân.
Trời rộng bể cũng
rộng; trăng cao bóng càng cao.
Trời quang mây tạnh
cũng êm đềm; quãng vắng canh chầy đêm dài đằng đẵng.
Mù trời mới bắt được
két; mưa mãi lấp cả lỗ rươi.
Từ cách quan sát
“trời” để biết thời tiết mà trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi, người Việt cũng rút
tỉa cả những bài học về cách xử thế hoặc về đạo đức mẫu mực cho sự giao tế hằng
ngày. Ðâu là một khái niệm khách quan về Trời, một chân lý đại đồng, đến từ
kinh nghiệm sống với xã hội và thiên nhiên:
Trời cao mấy tất,
đất dày mấy phân; ông trăng một sào, ông sao một mẫu.
Trời đất hương
hoa, người ta cơm rượu.
Biết sự trời một đời
không khó.
Thua trời một vạn
còn hơn thua bạn một ly.
Của trời của
chung.
Chín phương trời,
mười phương phật; một thì loạn, vạn thì bình.
Lộc nước ngôi trời;
quê cha đất tổ.
Trời gần trước mắt
không xa, phúc qui thiên đàng, tội qui địa ngục.
Trời cao có mắt.
Người Việt biết là
có Trời nhưng không cần chứng minh sự hiện hữu của Trời. Họ dùng trực giác và
kinh nghiệm sống để cảm nghiệm sự hiện diện này như là “tác giả” của mọi sự cao
cả quá tầm tay loài người trên đời này. Do đó, có những câu đố hay bài hát vè
mà không cần câu trả lời, vì ai cũng biết câu giải đáp phải là “Trời”:
Non kia ai đắp mà
cao
Sông kia ai bới ai
đào mà sâu?
Ðố ai biết lúa mấy
cây
Biết sông mấy
khúc, biết mây mấy từng?
Thấy anh hay chữ
em hỏi đôi lời\Thủa khai thiên lập địa, ông Trời tròn ai xây?
Người Việt chấp nhận
là mình không biết Trời từ đâu ra, nhưng vẫn tin là phải có Trời thì mới có mọi
sự an bài công minh trên trần gian. Qua một số câu ca dao tục ngữ sau đây chúng
ta thấy ý niệm Trời trong lòng người Việt mang một tính chất rất đại đồng và
bình dân, biểu hiệu một sự trật tự trong chúng sinh, một sức mạnh bảo bọc che
chở vạn vật, để muôn loài dựa vào đó mà sống:(10)
Có Trời thì mới có
ta.
Trời sinh voi, trời
sinh cỏ.
Trời cho ai nấy hưởng.
Trời kêu ai nấy dạ.–
Trời sinh, Trời dưỡng.
Cha mẹ sinh con,
trời sinh tánh.
Trời đánh tránh bữa
ăn.
Trời đánh thánh vật.
Tuy Trời uy quyền
cao cả, nhưng người Việt thích nhân cách hóa Trời là “Ông” và thường xin “Ông
trời” phù trợ, che chở, ban cho nhu cầu riêng tư hoặc những ước mơ thầm kín của
mỗi người.
Bắc thang lên hỏi
ông trời
Sao không bố thí
cho tôi tí chồng?
Ông Trời ngoảnh mặt
lại trông
Mày hay kén chọn,
ông không cho mày!
Lạy Trời mưa xuống
lấy nước tôi uống
lấy ruộng tôi cày
lấy đầy bát cơm
lấy rơm đun bếp,…
Khi gặp nghịch cảnh
hoặc quá khổ cực, người Việt oán trách Trời. Họ kêu Trời để chứng giám và minh
oan, vì họ tin rằng Trời là nguyên lý cho mọi sự công bằng trên đời này.(11)
Trời ơi có thấu
chăng Trời
Công ta vun xới
cho người hái hoa.
Trời ơi! Trời ở
chẳng cân
Người ăn chẳng hết,
người lần không ra.
Người thì mớ bẩy mớ
ba
Người thì áo rách
như là áo tơi.
Ở nhà quê, trước
sân mỗi nhà thường có một trụ gỗ, trên có thắp một cái đèn nhỏ và nắm hương gọi
là “đèn trời.” Ðêm đêm người ta đến đó khấn vái hoặc đem những đau khổ trong cuộc
sống mà than van với Trời:
Mỗi đêm mỗi thắp
đèn Trời
Cầu cho cha mẹ sống
đời với con.
Lá vàng thì ở trên
cây
Lá xanh rụng xuống,
Trời hay chăng Trời.
“Trời” trong các
chuyện cổ tích
Truyện cổ tích Việt
Nam có nhiều sự tích về thần Trụ Trời, các thần hạ bộ trên trời, và cả Bà Trời
nữa. (12)
– Thần Trụ Trời: tổ tiên người Việt
(Cổ Bách Việt) cho rằng trời đất là do công lao của một vị Thần Khổng Lồ, tức
là Thần Trụ Trời (Trụ: do 2 chữ “Mộc” và “Chủ”). Lúc trời đất còn
hỗn mang, Thần ở trong đám mù tịt không biết là bao lâu. Bỗng có lúc Thần đứng
dậy, ngẩng đầu đội trời lên, rồi đào đất khuân đá đắp thành một cái cột lớn để
chống trời. Cột chống cao lên chừng nào thì trời như tấm màng mênh mông được
cao lên chừng ấy. Thần vừa đào, vừa đắp, chẳng bao lâu cột cao dần và đầy trời
lên mãi tận mây xanh, trời đất phân đôi, trời như cái bát úp, đất phẳng như mâm
vuông, nơi giáp nhau gọi là chân trời. Khi vòm trời đã khô, Thần cho là âm
dương đã phân định, cột trụ trời không cần nữa, Thần phá đi, đất đá ném tung khắp
nơi, trở thành núi cao hay hòn đảo giữa biển khơi. Tương truyền đây là cột trụ ở
huyện Kinh Môn tỉnh Hải Hưng nằm trên núi Yên Tử, trên đỉnh cao nhất có Kình
Thiên Trụ, và chùa Tường Lân mà An Sinh Vương Trần Liễu thân sinh Ðại Vương Trần
Hưng Ðạo, từng đóng ở đây. Về sau Trần Nhân Tông, tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm
Việt Nam, rể yêu của Trần Hưng Ðạo, cho lập đền thờ họ Trần tại đây.
– Các thần khác nối tiếp
công việc xây dựng thế gian của Thần Trụ Trời như trong bài ca dao:
Ông đếm cát
Ông tát bể
Ông kể sao
Ông đào sông
Ông trồng cây
Ông xây núi
Ông tối trời
Ông cời cua
Ông lùa chim
Ông tìm sâu
Ông xâu cá
– Các thần bộ hạ có quyền
phép như Thần sấm, thần sét, Thần gió, Thần mưa, Sơn Tinh, Thủy Tinh, v..v… Việc
cai trị nhà trời cũng có khi lỏng lẽo nên xảy ra những vụ loài người loài vật
coi Trời bằng nắp vung (Cường Bạo Ðại Vương), hoặc chuyện Thần Mưa chễnh mảng
nhiệm vụ, để dưới thế hạn hán lâu ngày, loài vật dành nhau từng ngụm nước, phải
cử Cóc lên kiện Trời. Cóc đại náo cửa nhà Trời, Trời phạt Thần Mưa và gọi Cóc bằng
Cậu. Từ đó mỗi lần Cóc kêu thì sẽ có mưa!
Con cóc là cậu Ông
trời
Ai mà đánh cóc thì
trời đánh cho!
– Bà Trời: theo nguyên lý
âm dương, đã có Ông Trời thì phải có Bà Trời. Chuyện cổ tích Bà Nữ Oa kể lại một
Thần Cái khổng lồ (chế độ mẫu hệ), có công xây rừng rú, đào sông bể, đội đá vá
trời, san bằng đất với sức khoẻ và sức nóng vô biên. Nữ Oa thách thức Tử Tượng
đấu sức thi tài, nếu thắng sẽ nhận làm chồng. Hẹn trong ba ngày phải xây một ngọn
núi thật cao, núi Tử Tượng xây không được cao, chỉ thấy được các nước lân cận,
núi Nữ Oa nhìn thấy cả bốn chân trời. Nữ Oa đạp đổ núi Tử Tượng, đất đá văng
tung tóe thành đồi và đảo xa, còn núi Bà Nữ Oa có thể là núi Nam giới (Hà tĩnh)
hoặc là núi Bà Ðen (Tây Ninh). Cũng có nhiều truyện về các Nữ Thần như Nàng
Bân, Ả Chức, Nữ Thần Lửa (một bà già rất khô khan và hung dữ), Nữ thần mặt
Trăng, Nữ thần mặt Trời. (13)
– Các chuyện cổ
tích “Chum
Vàng Bắt được,” “Cái Cân Thủy Ngân,” “Chuyện Tấm Cám” thường
nói về “Ông Trời” như một vị Thần thương người thiện, ghét kẻ ác đức, giáng
phúc cho người tốt, họa phúc cho người xấu. Trời rất cao, Trời thấy mọi sự, lưới
Trời lồng lộng, kẻ bất nhân ác đức không lẩn tránh được mắt Trời. Trời đại diện
cho luật công bằng trên đời này, không ai thoát được.
“Trời” trong thư mục
lưu ký
Trong những thư mục
lưu ký, các vua chúa và quan quyền Việt Nam bất kể tôn giáo nào cũng thường hay
dùng “Trời” để gây thêm hiệu lực cho lời nói và tư tưởng của mình. Khái niệm
“Trời” ở đây thường được hiểu như “thiên mệnh,” “Thiên Cơ” hay “Ðạo Trời” của
Nho Giáo. (14)
– Bình Ngô Ðại
Cáo (Nguyễn
Trải) kêu gọi nhân tài ra giúp nước, “Bởi Trời muốn thủ lòng, để trao mệnh
lớn, nên ta càng gắng chí, quyết vượt gian nguy.” Khi ca mừng chiến thắng,
“Càn khôn bỉ rồi lại thái, nhật nguyệt rồi lại minh… âu cũng nhờ Trời đất tổ tông
linh thiêng ngầm giúp mới được như vậy.” (15)
– Sư Viên Thông giãi bày vua
Lý Thần Tông về lẽ trị dân: “Trời đất không thể thay nóng đổi rét liền
mà dần dần ở mùa xuân, mùa thu. Bậc vua chúa không làm hưng hay vong liền mà dần
dần ở sư thiện hay ác. Bậc thánh vương xưa biết thế cho nên mới bắt chước đức
Trời để sửa mình.” (16)
– Vua Lý Thái Tổ dời đô về
Thăng Long có ra chiếu: “Xưa có phải là các vua theo ý riêng của mình,
tự tiện dời đổi đâu, chỉ tại là tính việc muôn đời cho con cháu, trên nghĩ mệnh
trời, dưới theo lòng dân. Thế mà đời Ðinh, Lê, theo ý riêng, quên mệnh trời… cứ
cẩu an ở đây, đến nổi ngôi truyền không bền, ta rất lấy làm buồn, không dời đi
chổ khác được thì không yên.” (17)
– Vua Lý Nhân Tông truớc khi chết
không muốn thiên hạ để tang khóc thương mình lâu dài nên viết một di chiếu để lại: “Trẫm
ít đức không an được trăm họ, kịp đến lúc chết lại bắt muôn dân phải để tang
trên mình… Trẩm không muốn như vậy. Trẫm từ nhỏ được nối ngôi rồng… đã 5,6 năm
nhờ có được Hoàng Thiên tin giúp, bốn biển không lo, biên thùy ít loạn, chết được
liệt sau hàng Tiên quân là may lắm rồi, còn khóc thương mà làm gì.” (18)
– Vua Lý Thái Tông sau khi đánh
thắng quân Nùng (1039), ra bố cáo: “Ta từ khi làm chúa giang sơn lại
nay các bề tôi văn vũ chửa từng sơ suất điều đại tiết. Nay có Tồn Phúc càn rỡ tự
làm lớn, phá hại dân cư ven cõi. Trẫm mới vâng lịnh Trời cất quân đi đánh bắt
được bọn Tồn-Phúc 5 người chém bêu đầu ngoài chợ.” (19)
– Vua Lý Chiêu
Hoàng khi
nhường ngôi cho chồng (năm Ất Dậu, 1225) ra chiếu: “Nhà Lý ta vâng lấy
mệnh Trời, trùm ra bốn biển… không may Thượng hoàng mang bệnh, không kẻ nối
ngôi… Nay Trẩm tính đi toán lại, chỉ có Trần Cảnh, văn chất đầy đủ rõ ràng ra
dáng bậc hiền nhân quân tử, uy nghi lẫm liệt có đủ vẻ thánh thần văn võ… bấy
lâu thử cũng đã kỷ rồi, nên chỉ nhường ngôi lớn để yên ủi lòng Trời, để xứng
đáng lòng Trẩm.” (20)
– Nhà Trần sau hai lần
đại phá quân Nguyên nhưng vẫn nhún nhường sai sứ đi cầu hòa: “Thế tử nước
An-Nam, thần mọn là Trần Nhật Huyến trăm lạy sợ sệt liều chết chịu tội dâng thư
lên đức Hoàng Ðế bệ hạ mệnh Trời dành ngôi…” (21)
– Sách Ðại Việt Sử
Ký (đời
nhà Trần, Lê Văn Hưu, 1272) phê bình về vua họ Lý như sau: “Trời
sinh ra dân mà đặt cho họ một ông vua để chăn dắt, chẳng phải tự cung sung sướng
một mình… Vua Thần Tông xuống chiếu bắt con gái các quan để chọn xong rồi mới
gã đó là chẳng phải bụng làm cha mẹ dân nữa.” (22)
– Nguyễn Phi Khanh tả chỗ ở hưu
trí của ông nhạc mình (Trần Nguyên Ðán) như sau: “Kẻ hiền đạt, khi xuất
khi xử, động cũng theo lẽ trời vui cũng theo lẽ trời. Trời là thế nào? Là một bậc
lớn trong rất trổng mà thôi. Bốn mùa lên năm mà không kể công, muôn vật đội ơn
mà không lộ dấu. Không phải bật rất trong rất trổng thì ai làm được như thế?” (23)
Ngoài ra, trong
các tác phẫm Hán ngữ như Việt Ðiện U Linh Tập (Lý Tế Xuyên, 1329),
Truyền Kỳ Mạn Lục (Nguyễn Dữ, đời Lê), Công Du Tiệp Ký (Vũ
Phượng Ðế, 1755), Hoàng Việt Thần Kỳ Tục Tổng Sách (cuối thế kỷ
18), Tục Truyền Kỳ (Ðoàn Thị Ðiểm), khái niệm Thượng Ðế được
xem như là một vị Thần uy quyền trên các Thần, trên cả vua (Thiên Tử). Chữ
“Trời” thường dùng trong bối cảnh của thuyết Thiên Mệnh, Thiên Ðạo hay Thiên Cơ
của Nho giáo. (24) Một trong những bài thơ nổi danh về thuyết Thiên Mệnh là bài
thơ của Lý Thường Kiệt. Năm 1076 hơn tám vạn quân Tống tấn công rất hăng ở sông
Như Nguyệt (Bắc Ninh). Lý Thường Kiệt sợ quân thối chí, làm một bài thơ nói là
của Thần cho, ba quân chuyền nhau đọc, ai ai cũng nức lòng đánh giặc:
Nam quốc sơn hà
nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh
tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm
Nhũ đẳng hành khan
thủ bại hư.
Nguyễn Ðổng Chi dịch
như sau:
Nước Nam Việt có
vua Nam Việt
Trên sách Trời
chia biệt rành rành
Cớ sao giặc dám
dòm hành
Rồi đây bay sẽ tan
tành cho coi!
Ba quân tướng sĩ
lên tinh thần vì họ tin có Ông Trời và ý Trời, tư tưởng ấy khi gặp thuyết Thiên
Ðịnh của Nho giáo, bùng lên như một sức mạnh bất khuất, không khác gì khái niệm
“Trời” đã có sẳn trong ca dao truyền khẩu bình dân từ thời Hai Bà Trưng, Lý
Bôn, Ngô Quyền, Ðinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Lê Hoàn:
Nước non là nước
non Trời,
Ai cắt được nước,
ai dời được non!
“Trời” trong văn học
chữ Nôm
Trong các bản văn
nôm nổi tiếng của Việt Nam, đặc biệt là Chinh Phụ Ngâm, chữ “trời” được
dùng rất là súc tích, theo cả ba ý nghĩa thiên nhiên, nhân cách hóa, và luân lý
đại đồng:
Thủa trời đất nổi
cơn gió bụi
Khách má hồng lắm
nổi truân chuyên.
Trời hôm tựa bóng
ngẩn ngơ
Trăng khuya nương
gối bơ phờ tóc mai.
Mũi đồng bác đôi lần
hăm ở
Ðã lòng trời gìn
giữ người trung.
Ơn trên ấm tử thê
phong
Phân vinh thiếp
cũng được chung hương trời.
Nhưng khi “Trời”
dùng để nói đến một đấng công bằng và thưởng phạt phân minh, thì người Việt
không ngần ngại tỏ lời oán trách hoặc đổ thừa cho Trời là vô tình và thiếu cảm
thông cho nổi khổ của kiếp người. Trong cả ba tác phẩm chữ Nôm của Việt Nam,
Cung Oán Ngâm Khúc, Thiên Nam Ngữ Lục và Chinh Phụ Ngâm, đều thấy rõ điều này:
Quyền họa phúc Trời
tranh mất cả
Món tiện nghi chẳng
giả phần ai. (Cung
Oán)
Ai công cho bằng đạo
trời
Phụ người chưng bấy
thấy tươi nhãn tiền. (Thiên
Nam Ngữ Lục)
Trách trời sao để
nhỡ nhàng,
Thiếp rầu thiếp lại
rầu chàng chẳng quên. (Chinh Phụ)
Cuối cùng, Truyện
Kiều, một di sản quí báu mà Nguyễn Du đã để lại cho tiếng Việt, mang nhiều ý niệm
phong phú nhất về “Trời.” Trước hết bầu trời là một hậu cảnh hữu tình, hiểu
theo ý nghĩa thiên nhiên:
Cỏ xanh chạy cuối
chân trời
Long lay đáy nước
in trời
Trong vời trời bể
mênh mông
Tác giả Truyện Kiều
tin có ý Trời và mệnh Trời. Trời quyết định tất cả mọi sự trên đời. Trời điều
khiển số phận con người và không ai thoát khỏi mệnh trời.
Ngẫm hay muôn sự tại
trời
Trời kia đã bắt
làm người có thân
Bắt phong trần phải
phong trần
Cho thanh cao mới
dự phần thanh cao.
Cũng liều nhắm mắt
đưa chân
Thử xem con tạo
xoay vần đến đâu.
Nghĩ mình phận mỏng
cánh chuồn
Khuông xanh có biết
vuông tròn hay không.
Rủi may âu cũng sự
trời
Ðoạn trường ai chọn
mặt người vô duyên
Các nhân vật trong
Truyện Kiều khi gặp gian nan đều kêu Trời để chứng giám và minh oan, vì họ tin
rằng Trời phân xử rất công minh và đoái hoài đến kẻ gặp gian nan:
Vưong bà nghe bấy
nhiêu lời
Tiếng oan đã muốn
vạch trời kêu lên
Một lời đã trót
thâm giao
Dưới dày có đất,
trên cao có trời
Qua nhiều đoạn trường
đau khổ con người sẽ từ từ thấu hiểu “mệnh trời” và chấp nhận thân phận của
mình. Tuy nhiên, Nguyễn Du cũng tin là trong thế cuộc, có phần của Trời và cũng
có phần của người. Mỗi người có số phận, nhưng công đức trên đời cũng do bàn
tay con người mà ra. Ðây là ảnh hưởng từ Phật giáo:
Có trời mà cũng có
ta
Tu là cõi phúc
tình là giây oan.
Nàng rằng lồng lộng
trời cao
Hại nhân nhân hại,
sự nào tại ta.
Ðã mang lấy nghiệp
vào thân
Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa
Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài.
II. NGÔN
NGỮ VỀ “DEUS” TRONG TRIẾT-THẦN TÂY PHƯƠNG
Trong tinh thần
tham thông của người Việt, từ cõi thượng thiên cho đến cõi phàm chưa bị phân
cách, hai thế giới vô hình và hữu hình đều có thể hiện diện đan quyện với nhau
trong cùng thời gian và không gian. Tuy nhiên, triết thần Tây Phương không chấp
nhận điều đó; vì thế giới mà chúng ta đang sống là một thực tại hữu hình, mọi
biến cố hay hiện tượng xảy ra trong thế giới này đều có thể cảm nhận hoặc minh
chứng bằng các nguyên lý thực nghiệm, những gì xảy ra “bên ngoài” thời gian và
không gian thì không có sự bảo đảm tri thức. Ðây là một thử thách cho triết thần
Tây Phương khi phải dùng ngôn ngữ của thế giới hữu hình để nói về “Deus” là Ðấng
Vô Hình, hay phải diễn đạt bản chất “tuyệt đối” của Thiên Chúa qua ngôn ngữ
tương đối và tránh những hố sâu của chủ quan hay chủ nghĩa duy thực nghiệm.
Mặt khác, những từ
quen thuộc như “Deus,” “Dieu,” “Dios,” “God,” và “Chúa” là những ngôn từ mà tiếng
Latin, Pháp, Tây Ban Nha, Anh và Việt dùng để diễn tả một mầu nhiệm “Tuyệt đối”
mà con người cảm nghiệm, chứ không phải là “tên xưng” của Thiên Chúa. Khi
Môisen đến hỏi Chúa tên gì thì Ngài chỉ trả lời, “Ta là Ðấng Hiện Hữu” tức là đối
với muôn thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai, Ngài luôn luôn sẽ là Thiên Chúa
của họ. (25) Do đó, khi biết dùng chữ “Chúa” hay “God” không có nghĩa là chúng
ta có một bảo đảm tri thức về Thiên Chúa. Nhưng thần học không muốn giữ thái độ
bất khả tri hay tiêu cực về sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần học không thể
thinh lặng về Thiên Chúa khi đứng trước một thế giới với kỷ thuật tân tiến và
phát minh khoa học, nhưng vẫn còn đầy dẫy bất công, đói rách, kỳ thị chủng tộc,
chiến tranh và khủng bố mà con người tiêu diệt lẫn nhau chỉ vì sự khác biệt về ngôn
ngữ tôn giáo!
Trong quá khứ, thần
học Tây Phương đã tìm cách diễn đạt sự tuyệt đối của “Deus” qua các phạm trù
như: tối cao, vĩ đại, toàn năng và toàn thiện. Ðây là những ngôn từ biểu hiệu
cho sự hoàn hảo tối cao, nguồn gốc của mọi sự trên đời, hay sự thiện toàn đáng
cho loài người tôn thờ. Từ đó, thần học dựa theo những mô thức triết học đương
thời mà khai triển những cách nói về Thiên Chúa sau đây: Bản thể Tất Yếu,
Nguyên Nhân của vũ trụ, và Nền tảng của luân lý. Gần đây, qua ảnh hưởng của hiện
tượng và hiện sinh học, thần học dùng ngôn ngữ “cảm nghiệm” (cả tích cực và
tiêu cực) để nói về sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử. Chúng ta hãy lược
sơ qua bốn loại ngôn ngữ tiêu biểu này.
“Deus” như là “Thực
Tại Tối Hậu”
Có ba cách diễn tả
về “Thực Tại Tối Hậu.” Trước tiên, Augustinô, Giám Mục thành Hippo ở đầu thế kỷ
thứ 5, cho rằng Thiên Chúa đại diện cho Chân lý tối cao, và chân lý thì phải có
thật. Cho dù kẻ đa nghi cách mấy, khi tranh luận cho đường lối suy tư của họ
cũng phải dựa trên một nền tảng chân lý nào đó để có thể thách đố hoặc bác bỏ
những lý lẽ của đối phương. (26) Ðối với Augustinô, Chúa là Chân Lý vĩnh viễn,
bao gồm cả mọi sự thiện lành và hoàn hảo, và là nền tảng của mọi hình ảnh và
tích hiệu ngôn ngữ mà con người dùng để nói lên khác vọng bề sâu của tâm hồn. Thứ
đến, Anselmô, một đan sĩ dòng Beneditô ở cuối thế kỷ thứ 11, dùng ngôn ngữ “Đấng
Vĩ Đại Nhất” để nói về Thiên Chúa. Ông ta chứng minh rằng, nếu Thiên Chúa thật
sự là Đấng nào vĩ đại nhất mà không gì vĩ đại hơn mà ta có thể tưởng tượng đến
được, thì Thiên Chúa phải có thật, tức là luận cứ bản thể luận (ontological
argument) (27). Vì lẽ, vĩ đại tuyệt đối ở đây không chỉ về tư tưởng, mà cả
về bản thể thì mới thật sự là “vĩ đại nhất”. Nếu chúng ta từ chối điều sự
hiện hữu của Thiên Chúa thì chúng ta sẽ bị mâu thuẩn với sự hiểu biết của mình
về Đấng Vĩ Đại nhất. Cuối cùng, triết gia Descartes ở thế kỷ thứ 17 muốn thiết
lập nền tảng chắc chắn cho tri thức qua sự hoài nghi về tất cả mọi sự có thể
hoài nghi được. Nhưng trong đầu ông vẫn có khái niệm “hoàn hảo” mà tự trí khôn (cogito)
không thể tạo nên được. Nếu việc “hoài nghi” đòi hỏi phải có một chủ thể để nghi
ngờ, thì khái niệm “hoàn hảo” cũng phải do một “Chủ Thể Hoàn Hảo” đặt nó vào
trí khôn của ông. Do đó, Descartes đi đến kết luận là phải có một Ðấng Hoàn Hảo
tuyệt đối đặt tư tưởng “hoàn hảo” vào trí khôn con người, cho dù trong thế giới
cũng không có gì là tuyệt đối hoàn hảo cả. (28)
Cả ba cách diễn đạt
trên đây liên kết yếu tính “tối cao” hay “hoàn hảo” của Thiên Chúa với những
khát vọng sâu sa nhất nơi con người. Khi “Ðấng Tối Cao” trở thành đối tượng của
tri thức, thì con người cũng đương nhiên trở thành một chủ thể có khả năng tìm
kiếm vô hạn. Ngôn ngữ về khác vọng bề sâu đánh động đến đức tin và tâm linh con
người, vì nó nói đến bản chất vô thường, vô thủy, vô chung của Thiên Chúa mà
con người không có được. Nhưng trở ngại vẫn là làm sao biết chắc là những khác
vọng về chân lý hay sự hoàn hảo đến từ một “Bản Thể” tuyệt đối? Làm sao bảo đảm
được rằng mọi khái niệm về sự “tối cao” hay “hoàn hảo” đều có nội dung thật sự,
thay vì là những phạm trù trống rỗng?
“Deus” như là “Nguyên
Nhân tác thành của vũ trụ”
Trong khi đó,
thánh Tôma Aquinô đã suy diễn từ sự “hiện diện” của vũ trụ đến sự “hiện hữu”
thay vì “bản thể” của Thiên Chúa. Lý luận của Thánh Tôma đi từ hiệu quả (vũ trụ)
đến nguyên nhân (tác giả) được gọi là luận cứ vũ trụ luận (cosmological
argument). “Deus” được hiểu như Nguyên Nhân của mọi sự kiện hữu hình và vô
hình trên đời này. Thánh Tôma đưa ra năm “cách” nói về Thiên Chúa, nhưng chúng
ta chỉ tóm tắt lại ba nhóm chính sau đây: (29)
– Trước nhất,
thánh Tôma cho rằng mọi tạo vật trên đời này được tạo thành đều phải do một
nguyên nhân nào đó đã có trước nó, và nguyên nhân đó cũng phải từ một nguyên
nhân có trước nó mà ra. Nhưng cuối cùng, phải có một Nguyên Nhân đầu tiên, tự
nó mà có, nếu không thì chúng ta phải tiếp tục lý luận ngược mãi cho đến vô cực
và sẽ trở thành vô lý. “Nguyên nhân đệ nhất” này cũng chính là tên để
nói về Thiên Chúa.
– Tương tự như thế,
mọi sự biến đổi trên đời này phải đi từ bản thể này qua bản thể khác, cũng như
gổ cháy thành than, nước sôi bốc thành hơi. Nhưng bản thể tự mình nó không thể
có được, mà phải xuất phát từ một bản thể nào trước đó. Chúng ta không thể lý
luận ngược mãi cho đến tận nguồn là một bản thể bất tất, tức là do một bản thể
nào trước đó mà ra. Do đó phải có một Bản Thể tất yếu hay thường hằng mà qua đó
mọi biến đổi bản thể có thể xảy ra được. “Bản Thể tất yếu” này là
tên để nói đến Thiên Chúa.
– Cuối cùng thánh
Tôma quan sát rằng mọi tạo vật đều phát triển theo như mục đích đã được phát họa
sẵn. Một hạt giống cây khi gặp môi trường thích hợp sẽ triễn nở nên cây cối xum
tươi, giống như cây mẹ của nó. Từ một vi khuẫn nhỏ bé cho đến những ngôi sao vĩ
đại, tất cả đều tuân theo mục tiêu và phát họa đã được qui định sẳn. Sự
thiện của một hữu thể được định nghĩa bởi tiến trình hoàn thành của chính nó.
Do đó phải có một Tri Thức hoàn hảo nào đó đã đặt nên mục tiêu và phát họa cho mọi
sự trong vũ trụ phát triển và đạt đến cứu cánh thiện hảo của nó. “Tri Thức hoàn
hảo” hay “Sự Thiện tối cao” cũng là tên mà chúng ta gọi Thiên Chúa.
Những cách thức “gọi
tên” Thiên Chúa của thánh Tôma trên đây có phần thực tế và đi gần với trực giác
hơn. Chỉ cần quan sát vũ trụ là con người có thể liên tưởng ngay đến Tác Giả
hay Nguyên Nhân nào đó đã tác thành mọi sự. Tuy nhiên, trở ngại ở đây là các
khái niệm “Nguyên Nhân đệ nhất,” “Bản Thể tất yếu,” hay “Tri Thức hoàn
hảo” là những phạm trù của tri thức, chứ không phải là những thực thể mà
chúng ta có thể cảm nhận trong cuộc sống hằng ngày. Nếu chúng ta trải nghiệm được
những thực thể này thì nó không còn là “đệ nhất,” “tất yếu,” hay
“hoàn hảo” nữa! Khi dùng những thực thể tuyệt đối này như “tên gọi” về
Thiên Chúa thì chúng ta cũng chưa có một sự bảo đảm tri thức thật sự.
“Deus” như là “Nền
Tảng của luân lý”
Triết gia Immanuel
Kant ở thế kỷ XVIII đã cố gắng vượt qua trở ngại trên đây bằng cách vạch trần
những giới hạn trong cách dùng ngôn ngữ tôn giáo. Kant cho rằng đa số ngôn ngữ
đều đến từ cảm nghiệm của giác quan, nhưng cũng có một số ít như, “nguyên
nhân,” “thời gian,” hay “không gian” là khái niệm mà thôi, tức
là chúng ta không thể nối kết các từ ngữ này với một thực thể nào đang hiện diện
trong thế giới của chúng ta. Nhưng không phải vì thế mà “khái niệm” không có thật,
vì nếu “thời gian” hay “không gian” không có thật thì chúng ta
không thể trải nghiệm hay trao đổi tư tưởng được, v.v., nói chung là sống trong
thế giới. Tương tự như thế, con người có khái niệm “Thiên Chúa” không phải
vì con người trải nghiệm Ngài qua giác quan, hay Thiên Chúa hiện diện với chúng
ta như cái bàn hay chiếc ghế đang ở trong phòng. Trái lại, không ai có thể “thành
nhân”, tức là trở trưởng thành với sự hiểu biết về lương tâm và trách nhiệm
làm lành lánh dữ, nếu chúng ta không có sẵn một khái niệm nào đó về “Deus.”
(30)
Kant giải thích rằng
làm người ai cũng tìm hạnh phúc, và hạnh phúc cao đẹp nhất là hạnh phúc đem đến
sự trọn lành tự chính nó, chứ không phải do một lý do nào khác. Nhưng muốn được
trọn lành toàn vẹn nhiều khi phải hy sinh, chịu đau khổ, cho dù ai cũng muốn bảo
vệ quyền lợi riêng tư của mình và lo tích tụ quyền lực cho mình. Tuy nhiên,
không phải vì thế mà con người sống buông thả. Trái lại trong thâm tâm con người
luôn bị lôi kéo bởi tiếng nói của lương tâm. Nhưng sự tự do theo đuổi hạnh phúc
và trách nhiệm sống trọn lành chỉ có ý nghĩa khi con người tin vào sự hiệp nhất
của hạnh phúc và trọn lành vốn sẽ tồn tại vượt giới hạn của thời gian và không
gian (sự bất tử của linh hồn). Tương tự như thế, chúng ta chấp nhận
sự mâu thuẩn giữa thế giới thực tại (natural world) và thế giới luân lý
(moral word) chỉ vì chúng ta đã tin là cả hai đều xuất phát từ một nguồn
gốc hay nền tảng Thiện Hảo tuyệt đối (“Thiên Chúa”). Do đó khi chúng ta
đi tìm hạnh phúc và sự trọn lành trên đời này tức là chúng ta đã có “khái niệm”
sơ khởi nào đó về Thiên Chúa!
Như thế, qua lộ
trình của lý tính thực hành, Kant đã giải quyết sự bế tắc của triết học dựa
trên lý tính thuần túy về sự tồn tại của Thiên Chúa. Lối lý giải dựa như nền tảng
luân lý tuy thiếu nội dung tín lý cụ thể về Thiên Chúa, nhưng cũng đã giúp đưa
khái niệm “Deus” đến gần với đời sống thực tế của con người hơn. Cho dù chưa ai
thấy Thiên Chúa, nhưng ai cũng giả định rằng Thiên Chúa là nền tảng cho những
theo đuổi các giá luân lý đạo đức và hy sinh thiện hảo trên đời này. Hay nói cách
khác, con người không có tự do thật sự để theo đuổi hạnh phúc, nếu đã không có
sẳn khái niệm về “Deus” như một nền tảng hiệp nhất của theo đuổi hạnh phúc và sự
thiện hảo của con người. Tuy nhiên, khi nói về Thiên Chúa như một “khái niệm” thì
còn xa vời đối với nhiều tín hữu, vì lẽ người ta không tôn thờ một “khái niệm”
nhưng phải là một Ðấng Từ Bi, Ðấng Tối Cao hoặc Ông Trời.
“DEUS” LÀ GIỚI HẠN
CỦA TRẢI NGHIỆM CON NGƯỜI
Gần đây hơn, với ảnh
hưởng của hiện tượng học và hiện sinh học, thần học Công giáo có khuynh hướng
dùng ngôn ngữ “cảm nghiệm” như là một chân trời tri thức để nói về sự mặc khải
của Thiên Chúa. Con người không chỉ muốn biết về thế giới chung quanh mình,
nhưng muốn hiểu cả về ý nghĩa của mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhất là ý
nghĩa về cuộc sống của chính mình khi con người đứng trước sự chết và những giới
hạn khác của đời người. Nói cách khác, với một chân trời tri thức vô hạn và phải
sống trong một thế giới hữu hạn, con người trở thành “mầu nhiệm” cho chính
mình, từ đó bị thúc đẩy đi tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống cả bên trong và ngoài
lịch sử. Con người hy vọng rằng những khắc khoải sâu xa nhất cuối cùng sẽ được
thỏa mãn. Thần học cho rằng những khát vọng sâu sa này không phải tự con người
mà có, nhưng là vì mầu nhiệm Tối Cao Vô Hạn đã “hiện diện” và “thôi thúc” tri
thức con người trước khi con người bắt đầu biết cách đặt câu hỏi và cảm nhận
chân trời vô hạn này. Nhưng làm sống trong thế giới và bị giới hạn bởi lịch sử
tính con người lại có thể “cảm nhận” được mầu nhiệm Tối Cao? Thần học gia
Rahner cho rằng qua chân trời vô hạn của tri thức và tự do, con người cũng là một
linh thể hữu hạn (finite spirit), và có khả năng “lắng nghe” và “thấu đạt”
sự mặc khải của Thiên Chúa. (31) Con người sẽ cảm nghiệm nó như một “món quà”
vô điều kiện: Thiên Chúa đã tự hiến mình để đến cùng chung sống với loài người.
Khi tiếp nhận “món quà” này như là sự hiện diện của Thiên Chúa, con người sẽ cảm
nhận được sự mặc khải và sẳn sàng tìm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể cùng
trong lịch sử con người.
Một số thần học
gia khác như Schillebeeckx thì cho rằng mặc dù chân trời tri thức của con người
là vô hạn, nhưng không có bảo đảm về “nội dung” của sự mặc khải Thiên Chúa
trong cảm nghiệm của con người. Nói cách khác, là linh thể hửu hạn và có khả
năng tìm kiếm mầu nhiệm vô hạn, nhưng sự mặc khải của Thiên Chúa cũng có thể
trái ngược với những mong chờ và ước vọng của con người. Trong khi đi tìm Thiên
Chúa qua tình yêu và sự tự do, thì con người cũng nên để ý đến sự hiện diện của
Ngài qua những kinh nghiệm đa đoan hay cảm nghiệm tiêu cực (negative
experience). Những bài học về đau khổ hay thất bại trong quá khứ cho thấy
là chân trời tri thức và sự tự do của con người không đơn thuần và vô tư như ta
tưởng, nhưng luôn lẫn lộn với những ý thức hệ và ước vọng bạo hành khác. Khi phản
đối và nói không với sự dữ vô nghĩa trong thế giới, con người học được những
bài học quí giá về biện chứng pháp tiêu cực (negative dialectics). Từ
đó, con người tin rằng chỉ có Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, cuối cùng sẽ
thoả mãn mọi ước vọng và khác khao sâu sa nhất của loài người. Trong niềm tin
đó, người tín hữu tìm cách giảm bớt đau khổ và góp tay xây đựng một xã hội công
bình và bác ái hơn. Do đó, lịch sử của đau khổ và kinh nghiệm tiêu cực trong cuộc
sống sẽ là “dấu chỉ” đưa con người tìm đúng hướng để đến với Thiên Chúa. Những
trải nghiệm về giới hạn của tri thức và đạo đức nơi con người sẽ là những “bước
nhảy” của đức tin giúp con người đào sâu ý nghĩa của mầu nhiệm “Deus” đang thôi
thúc con người chống lại sự dữ qua thực hành đức tin của mình.(32)
III. SO SÁNH HAI LỐI
DÙNG NGÔN NGỮ TÔN GIÁO
Khi so sánh hai hạn
từ “Trời” và “Deus” chúng ta sẽ có dịp quan sát các chức năng của ngôn ngữ tôn
giáo đang tác động lên các nền văn hóa khác nhau. Ðây cũng là những “qui luật” giúp
thành hình nét đặt thù của tiến trình hội nhập của tôn giáo và văn hóa.
1. Chức năng của “Trời”
trong tiếng Việt
Khái niệm “Trời” rất
là phong phú về nội dung qua tục ngữ ca dao, văn chương và văn hóa Việt Nam. Khái
niệm này đã đâm rễ sâu trong tâm hồn và huyết mạch của người Việt, nói lên tinh
thần tham thông với siêu nhiên và bản tính tín ngưỡng của dân tộc Việt. Nguyễn
Ðăng Thục đã nhận định ba ý nghĩa chính của chữ Trời trong tiếng Việt sau đây:
(33)
- THỂ LÝ: Trời chỉ
là những hiện tượng thiên nhiên, cụ thể, hữu hình bao gồm vạn vật.
- TÂM LÝ: Trời như
là một ngôi vị có ý chí thưởng phạt (Tạo hóa, Ông Xanh); hoặc là một thế lực
thiện, che chở bảo vệ chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật, để cho nhân loại nương tựa
vào đấy mà sống còn, kính sợ, làm lành lánh dữ. Khi dân quá đau khổ thì lại
than thân trách phận, cho rằng Trời thiên vị bất công.
- KHÁCH QUAN: Trời
là tiếng nói của “lẽ phải” như là một đạo lý đại đồng (collective
wisdom), bảo tồn trật tự của nhân sinh và vũ trụ. Ðạo Trời đồng nhất với bản
tính thiên nhiên của chúng sinh và nhân loại, vượt qua giới hạn của tính chất
sinh lý hay tâm lý di truyền của huyết thống, “Cha mẹ sinh con, Trời sinh
tánh.” Ðây là quan niệm về Trời vừa hữu hình vật chất (physical) vừa
siêu hình luân lý (moral) đã có sẳn trong tục ngữ phong dao của người Việt
trước khi chịu ảnh hưởng của văn hoá Hoa và Ấn.
Linh Mục Leopold
Cadiere, một nhà nhân chủng học và truyền giáo sau 50 năm tại Việt Nam đã đưa
ra những nhậnh xét rất tinh túy về bản tính tôn giáo và khái niệm “Trời”
trong văn hóa Việt:
“Hình như những ý
nghĩa chính chúng ta thấy gán cho Trời thuộc về cái vốn Triết học riêng của dân
tộc Việt, vì ý niệm Trời đã ăn sâu vào trong tâm hồn dân Việt. Trời coi như
nguyên lý hiện tượng và nhân cách hóa; Trời coi như một Ðấng toàn năng ảnh hưởng
vào vận mệnh của loài người. Cái ý nghĩa Ðấng Toàn Năng đã được trau dồi phát
triển với ảnh hưởng các tư tưởng Trung Hoa, nhưng ngay từ thời khởi thủy trong
ý thức Việt Nam đã có sẵn mầm mống của ý niệm ấy rồi. Cái ý niệm ấy đã thấm nhuần
quá sâu vào tâm hồn người Việt, và đã biểu hiệu quá phổ thông trong ngôn ngữ
bình dân để cho người ta có thể nhìn thấy ở đây không chỉ là cống hiến ngoại
lai.” (34)
Nói chung, khái niệm
“Trời” trong tiếng Việt chưa bị chi phối bởi những phạm trù tri thức về
thời gian và không gian như trong khái niệm “Deus.” “Ông Trời” không phải
là một Ðấng Tuyệt đối vô hạn và hoàn toàn biệt lập với con người và vũ trụ, để
từ đó con người phải trở về và tìm cách phối hợp như trong triết thần Tây
Phương. Cõi địa đàng và cõi thiên đàng chưa bị phân chia như trong Sách Sáng Thế,
nhưng cả hai vẫn hiện diện song song với nhau, với con người là trung tâm của mọi
sự: “thiên thời, địa lợi, nhân hòa.” Ông bà tổ tiên vẫn “sống”
bên cạnh để trông nom và phù hộ cho con cháu. Người quá cố vẫn về “báo mộng”
hoặc nhờ kẻ sống giúp giải oan. Bất cứ một địa thế nào, như một gốc cây cổ thụ
hay vực sông, một ngọn núi cao hay một gốc âm-u, đều là cơ sở của thần linh. Sống
trong tín ngưỡng và thế giới thần linh đó, người Việt được thúc đẩy đi cúng
vái, tôn thờ thần thánh mọi nơi mọi chốn, vì tất cả cũng từ thần thánh mà ra. Do
đó, sự hiện diện của “Trời” không cần phải minh chứng hay biện hộ qua lý trí vì
đã có sẳn trong trực giác và cảm nhận trong cuộc sống hằng ngày.
2. Chức năng của “Deus”
trong Triết-Thần Tây phương
Người Tây Phương
không dùng ngôn ngữ trực giác như khi người Việt nói về “Trời,” nhưng họ cũng
không thể thinh lặng hay giữ một thái độ vô tri về sự mặc khải của Thiên Chúa
trong lịch sử. Bốn mô thức ngôn ngữ sau đây: Bản Thể tối cao, Nguyên Nhân của
vũ trụ, Nền Tảng của luân lý, Giới Hạn của cảm nghiệm, đều là những khái niệm đến
từ suy luận và cảm nghiệm của con người. Ðây là những ngôn từ được vay mượn từ
các phạm trù triết học: “bản thể” từ “substance” trong triết Hy Lạp,
“nguyên nhân” từ “causality” trong triết kinh viện, “nền tảng” từ “foundation”
trong tri thức luận, “giới hạn” từ “limit” trong hiện tượng học và triết
hiện sinh. Thiên Chúa được diễn tả như “điều kiện ắt có” để thế giới này có thật,
hoặc để những khác vọng tri thức sâu sa nhất của con người được toàn mãn. Vì
người Tây Phương đã giới hạn “thực tại” là những gì thuộc về thời gian và không
gian, nên họ phải vận động mọi khả năng của tri thức và cảm nghiệm để giải
thích cho những gì thuộc về “thần linh” mà trong đó, mầu nhiệm “Deus” đã
xâm nhập vào thế giới và ngôn ngữ con người, làm cho con người băn khoăn và khắc
khoải, thúc đẩy mọi thế hệ phải tìm cách giải thích.
Ngôn ngữ về “Deus”
do đó không phải là ngôn ngữ của một người đang sống trong một môi trường quen
thuộc như chữ “Trời” trong tiếng Việt, nhưng là ngôn ngữ của một người
đang đi tìm “Nước Trời,” và phải nói về mục tiêu, nguyên nhân, hướng đi,
ước vọng, luân lý, v..v…, để tự nhắc nhở về sự hiện diện của Ðấng Vô Hình trên
bước đường lữ thứ. Người Việt có thể dùng cùng một chữ “Trời” lẫn lộn trong cả
ba ý nghĩa thiên nhiên, nhân cách hóa và luân lý đại đồng khách quan một cách dễ
dàng. Nhưng đối với người Tây Phương, chữ “Deus” chỉ có một ý nghĩa duy nhất,
đó là Ðấng Tuyệt Ðối hay Mầu nhiệm Tối Cao đáng cho mọi tạo vật cung kính và
tôn thờ, và bên cạnh đó không có gì khác có thể so sánh được. Nội dung của từ
ngữ “Trời” đến từ trực giác và cảm nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Trái
lại, nội dung của từ ngữ “Deus” đến từ những khái niệm tuy “có thật”
nhưng không thể đối chiếu nó với bất cứ một thực thể nào trong thế giới. Do đó,
triết thần Tây Phương phải luôn thao thức, tìm cách diễn đạt sự “có thật” của
Thiên Chúa qua mọi phạm trừ tri thức, cảm nghiệm, đời sống luân lý, hay ước vọng
khắc khoải nhất của con người.
Khi so sánh hai
quan niệm khác nhau về Thiên Chúa của Việt Nam và Tây Phương trên đây, học giả
Nguyễn Ðăng Thục đã đưa đến một nhận xét sau đây:
“Giữa một bên là
quan niệm về Thượng Ðế để cho cá nhân cầu tìm phối hợp, và một bên tin tưởng vạn
vật nhất thể đễ cho cá nhân có sự khác nhau căn bản… Nhưng có quan niệm về Thượng
Ðế còn phải tín ngưỡng vào Thượng Ðế nghĩa là Sống cái quan niệm ấy khiến cho
hình ảnh Ngài luôn luôn hiện diện trong tâm hồn tôi, làm động cơ cho tất cả ý
nghĩa và hành động của tôi. Ðây là mục đích cầu tìm phối hợp cá nhân với Thượng
Ðế, tức là tìm cái “tái đáo Thiên Thai,” trở lại cái tâm trạng hồn nhiên của
cái cảnh “le paradis perdu” thủa trước… Tóm lại, một đàng có quan niệm về Thượng
Ðế vì đã mất hình ảnh đồng nhất thể nguyên thủy, tách lý trí với tín ngưỡng ra
làm hai, lý với tình trở nên mâu thuẫn, đễ lại nối lại, còn một đàng cố giữ lấy
cái kinh nghiệm thuần túy, cái đồng tâm nhất thể ấy trên con đường thực hiện ý
thức biện chứng trực giác… Ðây là tâm trạng của hai nữa nhân loại, một đàng mất
Mẹ đi tìm, một đàng vẫn giữ lấy Mẹ để trưởng thành trong lòng Mẹ, không dời một
bước. (35)
KẾT LUẬN
Bài tiểu luận này
được đặt trên một giả thuyết cho rằng, tôn giáo hay văn hóa cũng đều là những
môi trường ngôn ngữ, nhưng khác nhau ở “cách dùng” ngôn ngữ trong mỗi môi trường.
Những “qui luật” hiểu ngầm này sẽ xác định bản chất tôn giáo cho mỗi hoàn cảnh
văn hóa khác nhau (Wittgenstein). (36) Sau khi so sánh ý nghĩa và
tác năng khác nhau giữa hai từ ngữ “Trời” và “Deus” trên đây, chúng ta nhận thấy
tiến trình hội nhập văn hóa không chỉ là việc trao đổi giữa “bản chất” Kitô
giáo với “hình thức” văn hóa Việt Nam, nhưng trước tiên là sự gặp gỡ hay hội ngộ
của hai cách dùng ngôn ngữ tôn giáo khác nhau. Sự gặp gỡ này có thể là một va
chạm, gia nhập hay hội nhập, nhưng tất cả đều xảy ra trong một bối cảnh văn hóa
linh động mà chúng ta gọi là “truyền giáo.” Trong bối cảnh văn hóa này, một loại
ngôn ngữ tôn giáo mới cũng bắt đầu thành hình, và qui luật điều khiển “cách
dùng” ngôn ngữ tôn giáo đó cũng từ từ được chấp nhận như là điều hiển nhiên. Do
đó, khi Cha Ðắc Lộ dùng cụm từ “Ðức Chúa Trời” để nói về “Deus,” người Việt Nam
không còn bỡ ngỡ nữa. Trái lại, họ cũng hiểu rằng có một cái gì khác biệt giữa
cách dùng chữ “trời” hay “ông Trời” quen thuộc xưa nay trong tiếng Việt với cụm
từ mới này. Từ đó, Cha Ðắc Lộ mới có thể khai triển thêm những khái niệm khác về
nguồn gốc của vũ trụ và con người, mục tiêu và ý nghĩa của cuộc sống thế nhân,
lịch sử của mặc khải và ơn cứu độ, sự sống đời sau và sự phán xét cuối cùng,
v.v. (Phép Giảng Tám Ngày). Nói cách khác, môi trường ngôn ngữ mới này là vùng
đất mầu mỡ cho hạt giống Kitô giáo được trưởng thành và trổ sinh một lối sống
Kitô qua nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt.
Tuy nhiên, văn hóa
và ngôn ngữ không phải là một cái gì cố định nhưng sẽ tiếp tục thay đổi theo
hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính trị mà chúng ta đang sinh sống. Ðến một lúc
nào đó, những giá trị đạo đức quen thuộc trước đây sẽ không còn ý nghĩa gì với
các thế hệ mới nữa. Trách nhiệm hội nhập do đó không chỉ là vấn đề bảo trì văn
hóa hay tiếng Việt, mà phải còn tìm cách phát huy và sáng tạo nên những “môi
trường ngôn ngữ” thuận lợi khác để Lời Chúa không bị giới hạn vì những dị biệt
của thế hệ và ý thức hệ. Khó mà dùng giá trị đạo đức hay trình độ tôn giáo của
nhóm này để phán đoán hay đánh giá cho đời sống đạo của nhóm kia được. Bất cứ
nhóm hay tập thể xã hội nào cũng đều có những ngôn ngữ về đạo đức riêng biệt. Không
thuộc các kinh cầu ngày Chủ Nhật không có nghĩa là thiếu đức tin, hay không
tham dự linh thao cũng không có nghĩa là không biết cách sống đạo. Người Công
Giáo tại hải ngoại đang chứng kiến một cuộc tiến hóa về cách dùng ngôn ngữ tôn
giáo và đức tin ngay trong mỗi cộng đoàn. Thử thách của chúng ta hiện nay là phải
hiểu “cách dùng” ngôn ngữ tôn giáo đang tiến hóa và thành hình như thế nào
trong mỗi môi trường khác nhau, và từ đó mới có thể đi đến một sự đối thoại. Chúng
ta cần phải tạo ra những “môi trường” mới để ngôn ngữ của Thánh Kinh, truyền thống
của giáo hội, kinh nghiệm của người lớn tuổi và cảm nghiệm của tuổi trẻ được gặp
gỡ nhau. Từ đó các qui luật “hiểu ngầm” về giá trị đạo đức và tôn giáo khác
nhau được trao đổi, giúp cho đời sống đức tin của cộng đoàn được sống động hơn.
Do đó, hội nhập văn hóa không chỉ xảy ra ở xứ truyền giáo, nhưng trong tất cả mọi
hoàn cảnh mà Lời Chúa đang tìm môi trường thuận tiện để nẫy mầm và sinh trưởng.
Chú thích:
(1) x. Nguyễn Ðoàn
Tân, “Thượng Ðế có hay không?” - Sứ Ðiệp #5 (Mùa Xuân 2000), 11-17.
(2) Nguyên văn:
“Religion as ultimate concern is the meaning-giving substance of culture, and
culture is the totality of forms in which the basic concern of religion
expresses itself. In abbreviation: religion is the usbstance of culture,
culture is the form of religion.” Paul Tilllich, Theology of Culture,
Oxford University Press, 1959, p. 42. Một thời gian sau, khi đi sâu vào phương
pháp và thần học hệ thống, với ảnh hưởng của hiện sinh học Tillich không dùng
mô thức “form và substance” nữa, thay vào đó dùng mô thức “câu hỏi và trả lời”
(existential question và theological answer) để kết nối mầu nhiệm mặc khải với
những ưu tư khao khác của con người (x. Systematic Theology V.I (University
of Chicago Press, 1951), 18-27.
(3) Giáo sư Trần
Ðoàn dùng “critical theory” để lột trần các nguyên lý “domination,”
“participation” và “intergration” đã được áp dụng trong tiến trình truyền giáo
tại Việt Nam, và cho thấy những trở ngại phải vượt qua nếu Việt thần muốn đạt đến
trình độ “bản vị hóa.” Tác giả đề nghị dùng từ ngữ “bản cách hóa” để diễn đạt
toàn vẹn hơn nguyên lý “communication” tiềm tàng trong Việt thần (x. “Sát nhập,
hội nhập và bản cách hóa,” trong Triết Ðạo I (1, 2001), 59-102.
(4) x. Peter C.
Phan về tên “Ðức Chúa Trời Ðất” trong cuốn Mission and Cetechesis,
Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam (New
York: Orbis Book, 1998), 164-165.
(5) Nguyễn Như Ý
chủ biên, Ðại tự điển tiếng Việt (Hà Nội: NXB. Văn hóa Thông Tin, 1998).
(6) Văn Tân và
Nguyễn Văn Ðảm (bổ túc), Từ điển tiếng Việt (Hà Nội: NXB. Khoa học Hà
Nội, 1994), 823-824.
(7) Linh mục Trần
Phổ, “Thờ Trời” và “Thờ tổ tiên” (Thủ Đức, Học Viện Phanxicô).
(8) Trần Phổ, “Thờ
Trời,” 2
(9) Thiện Ðình,
“Nói có sách,” Nam Phong tạp chí, 141: 211-223 (Tháng Tám, 1929).
(10) x. Nguyễn Lân, Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Hà Nội: NXB. Hà Nội, 1990).
(11) Nguyễn Văn Ngọc, Tục
ngữ phong dao (Hà Nội: NXB. Hà Nội, 1991).
(12) x. Bùi Văn
Nguyên, Việt Nam thần thoại và truyền thuyết (Hà Nội: NXB. Hà Nội, 1993).
(13) Ðỗ Thị Hảo, Các
nữ thần Việt Nam (Hà Nội: NXB. Phụ nữ, 1993).
(14) x. Nguyễn Ðổng
Chi, Việt Nam cổ văn học sử (Sài Gòn: NXB. Trẻ, 1993).
(15) Ibid., 89.
(16) Ibid., 11.
(17) Ibid., 137.
(18) Ibid., 140.
(19) Ibid., 142.
(20) Ibid., 156.
(21) Ibid., 216.
(22) Ibid., 258
(23) Ibid., 412.
(24) Trần Phổ, “Thờ
Trời,” 11-12.
(25) Nguyên văn của
đoạn này: “Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Ðấng Hiện Hữu.” Ngươi nói
với con cái It-ra-en thế này: ÐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên
Chúa của Ap-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến
với anh em. Ðó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng
mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia.” (Xh 3:13-15).
(26) Trong cả hai
tác phẩm Confessions và De Trinitate (any edition), Thánh
Augustinô diễn tả linh hồn như hình ảnh của Thiên Chúa. Linh hồn là cửa sổ mở
ra thế giới bên ngoài thời gian và không gian, giúp nhận thức được Thiên Chúa
là nền tảng vô hạn của mọi sự chân, thiện, mỹ trên đời này.
(27) Lối chứng
minh này (ontological argument) là kết quả của cuộc tranh luận giữa Anselmô và
Gaulinô, một tu sĩ dòng Benedictô (x. St. Anselm’s Prologion, M. J.
Charlesworth chuyển ngữ và chú thích (Oxford University Press, 1965).
(28) x. René
Descartes, “Meditations” (1641) trong cuốn The Philosophical Works of
Descartes, E. S. Haldane và G.R.T. Ross chuyển ngữ và chú giải (London,
1967).
(29) Thánh Tôma
Aquinô bàn về năm cách “chứng minh” này trong Summa Theologiae, Phần
I, Câu hỏi #2, Ðề tài #3, và trong Summa Contra Gentiles (Quyển I,
Chương 13).
(30) Hai cuốn sách
tiêu biểu của Immanuel Kant về tôn giáo và luân lý là Groundwork of the
Metaphysics of Morals, H. J. Parton chuyển ngữ (New York, 1964) và Religion
without the Bounds of Reason Alone, T.H. Green chuyển ngữ (New York, 1960).
(31) x. Karl
Rahner, Foundations of Christian Faith (Crossroad, NY, 1975), đặc biệt
Chưong II, 44-89.
(32) Về sự liên kết
giữa kinh nghiệm đau khổ với tri thức mặc khải, xem Edward Schillebeeckx, Church:
the Human Story of God (Crossroad, NY, 1990), 28-33.
(33) Nguyễn Ðăng
Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Quyển I, 417.
(34) Ibid., 417.
(35) Nguyễn Ðăng
Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, 24.
(36) Ludwig Wittgenstein cho rằng ngôn ngữ không phải chỉ là “công cụ” để diễn đạt tư tưởng hay khái niệm, nhưng là môi trường mà qua đó chúng ta sống và tạo nên thế giới. Mỗi môi trường có những qui luật riêng biệt, điều phối cách dùng ngôn ngữ như qui luật điều khiển các trò chơi (x. Philosophical Investigations (Blackwell, UK, 1958) và On Certainty, Anscombe và von Wright, eds. (Harper Torchbooks, New York, 1969).