Sự hiệp thông trong cái chết

 


Hoàng Lượng

Chính trong cái chết, con người được hiệp thông với Đức Kitô. Người đến gặp gỡ con người bằng một sự hiện diện vẫy gọi trong cái chết của người ấy. Nhờ đó, con người có thể cảm thấy hạnh phúc khi chết, vì trong đó người ấy được Đấng Cứu Thế lôi kéo, được Người đón nhận.

Sống trong thế giới thay đổi nhanh chóng như hiện nay, con người dường như đã lãng quên cái chết của chính mình. Tuy nhiên, kể từ khi sa ngã, cái chết, nói theo ngôn ngữ của Heidegger, đã là khả thể bất khả vượt qua của con người. Sự tồn tại của con người luôn hướng về cái chết và rồi họ tự đảm nhận lấy cái chết của chính mình. Cũng trong quan điểm của ông, cái chết là khả thể riêng tư nhất và bất tương quan.[1] Còn trong nhãn giới Kitô giáo, con người không còn phải chịu sự đơn độc trong cái chết nữa, nhưng họ được cùng chết với Đức Kitô và cùng được sống lại với Người.

1.     Quan điểm của Kitô Giáo về cái chết

1       1.1 Tội lỗi-nguyên nhân của cái chết

Hội Thánh dạy rằng, con người sa ngã và hậu quả là cái chết đã xâm nhập vào trần gian. Nhưng ngay từ thuở ban đầu khi tạo dựng, ý định của Thiên Chúa là muốn cho con người được sống và sống dồi dào mà không phải chết.[2] Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma cũng đã khẳng định: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Vì thế, cái chết như là án phạt của tội lỗi. Nó nằm trong con người, đè nặng trên con người và làm liên lụy đến toàn vũ trụ (x. Rm 8,20).

Mặt khác, khi phạm tội, con người từ chối Thiên Chúa và cái chết là hậu quả của sự chọn lựa này. Vì mọi sự đều do Thiên Chúa mà có và tồn tại được nhờ Người (x. Rm 11,36), nên việc từ chối Người đồng nghĩa với cái chết. Trong sự tự do chọn lựa chối bỏ Thiên Chúa, con người đã khuyết mất ánh sáng nên bóng tối xuất hiện, khuyết mất sự thiện nên sự ác xuất hiện và khuyết mất sự sống nên cái chết xuất hiện. Do đó, khi phạm tội, con người trốn tránh Thiên Chúa, làm nô lệ cho tội lỗi và đồng thời quay lưng lại với sự sống của chính mình.

Tuy nhiên, chúng ta đã được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Thư Do Thái viết rằng: “Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10,12). Nhờ đó, con người không còn bị phân tách ra khỏi Thiên Chúa là nguồn sự sống nên không phải chết đời đời nhờ đức tin. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu khẳng định: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào Người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy (Ga 3,36).

1         1.2 Cái chết không còn là án phạt

Qua mầu nhiệm Chết và Phục Sinh, Chúa Giêsu đã gánh lấy án phạt vì tội lỗi của chúng ta. Người đã tiêu diệt sự chết, giải thoát chúng ta khỏi quyền lực sự dữ, khỏi tội lỗi và làm cho con người vượt qua được sự chết (x. 1Cr 15,26). Điều này đã được thánh Phaolô tông đồ quả quyết: “Vậy bây giờ án phạt không có nữa cho những ai ở trong Đức Kitô Giêsu. Vì luật Thần khí ban cho sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã cho ngươi được tự do thoát luật của sự tội và sự chết” (Rm 8,1-2). Vì thế, trong Đức Kitô, cái chết không còn là án phạt đè nặng trên những người tin nữa, nhưng cái chết trở nên ngưỡng cửa đưa họ vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Hằng Sống.

Tự bản chất, con người được dựng nên không phải để bị tiêu vong nhưng là để được sống muôn đời trong tương quan tình nghĩa với Thiên Chúa. Cái chết không phải là ý định của Thiên Chúa nhưng là hậu quả của tội.[3] Tội lỗi đã làm mất đi sự thánh thiện nguyên thủy của con người và cắt đứt tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa. Dẫu vậy, không bỏ mặc con người, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho con người biết thánh ý của Người (x. Ep 1,9). Nhờ đó qua Đức Kitô-Ngôi Lời Nhập Thể và trong Chúa Thánh Thần, con người có thể đến cùng Chúa Cha và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pl 1,4). Người mời gọi và đón nhận con người đến hiệp nhất với Người.[4] Do đó, thay vì là án phạt, cái chết giờ đây đã trở thành dịp để con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa và được thông phần bản tính với Người.

2.     Hiệp thông trong cái chết

2.1 Hiệp thông với Đức Kitô

          Chính trong cái chết, con người được hiệp thông với Đức Kitô. Người đến gặp gỡ con người bằng một sự hiện diện vẫy gọi trong cái chết của người ấy. Trong cái chết cá vị của một người, sự hiện diện của Đức Kitô kêu gọi và lôi kéo người ấy về với Người. Đức Kitô đưa người ấy vượt qua cái chết.[5] Nhờ đó, con người có thể cảm thấy hạnh phúc khi chết, vì trong đó người ấy được Đấng Cứu Thế lôi kéo, được Người đón nhận.

          Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê viết rằng: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23). Với câu này, nhà thần học Francois Xavier Durrwell cho thấy hai động từ “ra đi” và “ở với” trong bản gốc bằng tiếng Hy Lạp đều diễn ra cùng một lúc. Nghĩa là, việc “ở với” không theo sau cái chết nhưng là trong sự hiệp thông với Đức Kitô.[6] Nơi cái chết của mình, Đức Kitô đã ôm lấy tất cả cái chết của con người và cho họ được cùng chết với Ngài. Hơn nữa, khi được dìm vào nước thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, chúng ta đã được dìm vào trong cái chết của Người (x. Rm 6,3). Như vậy, chúng ta sẽ được hiệp thông trong cùng một cái chết với Đức Kitô và được cùng chết với Người (x. 2 Tm 2,11). Bên cạnh đó, nhờ cái chết, người tín hữu được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” trong hành vi yêu mến và vâng phục trọn vẹn với Thiên Chúa (x. Pl 2,6-8; Mt 17,33; Cv 20,14).[7]

2.2 Hiệp thông với Hội Thánh

Xét về mặt hữu hình, cái chết là một sự đoạn tuyệt với mọi mối tương quan. Tuy nhiên, trong Đức Kitô, cái chết là việc đi vào trong sự hiệp thông hoàn toàn không chỉ với Thiên Chúa mà còn cả với người khác.[8] Vì khi hiệp nhất với Đức Kitô trong cái chết, người ấy thoát khỏi điều ngăn cách chính mình với tha nhân. Đức Kitô đã chết cái chết của mọi người khi bị treo trên Thập giá. Người đã chết cho mỗi cái chết trong cái chết của mình.[9]

Đối với Kitô hữu, bí tích Thanh Tẩy giúp chúng ta được ở với Đức Kitô và được chết với Người (x. Rm 6,3). Cũng nhờ bí tích này, những người tin được liên kết thành Thân Mình Mầu Nhiệm của Đức Kitô (x. Ep 1,23; Cl 1,18). Thân Mình ấy có Đức Kitô là Đầu và các tín hữu là những chi thể có những chức năng khác nhau, như thánh Phaolô đã nói: “Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,27). Vì là thân thể của Đức Kitô nên chúng ta có sự liên đới trọn vẹn với Người và với nhau ngay cả trong cái chết.

3. Kết luận

          Như vậy, đối với Kitô giáo, nhờ đức tin con người không còn bị phân tách ra khỏi Thiên Chúa là nguồn sự sống. Cũng vậy, trong Đức Kitô, cái chết không còn là một án phạt nữa nhưng là một cơ hội để các Kitô hữu có thể hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa-Đấng mà họ yêu mến. Hơn nữa, chúng ta không còn phải chết trong đơn độc nhưng được cùng chết với Đức Kitô trong sự hiệp thông với Hội Thánh. Điều này có nghĩa là chúng ta đón nhận và tháp nhập vào cái chết của Đức Kitô để được thông phần sự sống của Người (x. Rm 6,8).



[1] x. Martin Heidegger, Hữu thể và thời gian II, Trần Công Tiến chuyển ngữ (Sài Gòn: NXB. Quê Hương, 1973), 38.

[2] x. Sách giáocủa Hội Thánh Công giáo, Ủy ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2011), # 402.

[3] x. Vũ Chí Hỷ, “Cánh chung học – Đạo lý về niềm hy vọng Kitô giáo,” Giáo trình (Chưa xuất bản),     190.

[4] x. CĐ. Vaticanô II, Hiến Chế Dei Verbum, #2.

[5] x. F.X. Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết, Vân Thúy chuyển ngữ (Média Paul & Paulines), 45.

[6] x. F.X. Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết, 46.

[7] x. Vũ Chí Hỷ, “Cánh chung học – Đạo lý về niềm hy vọng Kitô giáo,” 200.

[9] x. F.X. Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết, 52.

Sự Hiệp Thông Trong Cái Chết

Học viện Thánh Anphongsô