Vincent Hoàng Văn
Tài
Ngang qua
4 trụ cột linh đạo của Dòng Chúa Cứu Thế, các tu sĩ DCCT có thể khám phá và làm
mới lại hình ảnh của Đức Kitô nơi họ. Nhờ đó, họ biết “chọn bản vị Đức Kitô làm
trung tâm” (HP 23), để rồi không ngừng thanh luyện các động cơ trong việc phán
đoán và hành động (x. HP 41), hầu trở nên những tôi tớ can trường trong sứ mạng
loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó (x. HP 6).
“Vâng! Lạy Chúa
con đây,
con xin đến để thực
thi ý Ngài” (Hr 10,9)
Đó là lời đáp
trả đầy tự do và hoàn toàn vâng phục của Chúa Giêsu với tiếng gọi tình yêu của
Chúa Cha. Chính lời thưa “xin vâng” đầy yêu thương và khiêm nhượng đó của Chúa
Giêsu, mà sự chết nơi nhân loại đã bị đập tan, để nhường chỗ cho ơn cứu độ khơi
nguồn sự sống mới cho nhân loại. Như thế, có thể nói, sự sống nơi con người được
khởi đi từ tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa. Đối với các tu sĩ Dòng Chúa Cứu
Thế, để có thể đáp trả tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa, không có gì khác là họ
trung tín với đặc sủng và linh đạo của Hội Dòng. Khi tái khám phá và làm mới lại
đời sống thánh hiến của bản thân bằng việc gắn kết và tiến bước trong linh đạo
của Hội Dòng, các tu sĩ DCCT sẽ sống sung mãn và trở nên những dấu chỉ, chứng
tá sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở trần gian (x. HP 1).
Tiếng gọi
tình yêu
Thiên Chúa gọi
và chọn con người bằng tình yêu. Ngài yêu thương nên đã tạo dựng con người giống
hình ảnh của Ngài. Thiên Chúa còn ưu ái khi cho con người quyền quản lý trên
muôn loài, và hơn cả, là được sống trong vòng tay yêu thương của Ngài. Thế
nhưng, vì sự kiêu ngạo và bất tuân mà con người đã phản bội lại tình yêu của
Thiên Chúa, để rồi mang vào mình bao đau khổ và sự chết. Tuy vậy, “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,16), Ngài hằng yêu thương và chưa một lần bỏ
rơi con người. Vì vậy, Thiên Chúa tiếp tục mời gọi con người quay trở về để
luôn được ở trong tình yêu của Ngài. Để thực hiện điều này, Thiên Chúa không lấy
gì làm hơn ngoài việc sai Người Con Một là chính Đức Giêsu Kitô xuống thế làm
người để cứu chuộc nhân loại. Chính sự vâng phục tuyệt đối và đầy tự do của
Chúa Giêsu với tiếng gọi tình yêu của Chúa Cha đã khơi nguồn một kỷ nguyên mới
cho nhân loại: kỷ nguyên của sự sống và ơn cứu chuộc chứa chan nơi chính Đức
Giêsu Kitô (x. Tv 129,7).
Thật vậy, chính
nơi Đức Giêsu Kitô mà một vị Thiên Chúa cao cả, toàn năng và quyền uy lại hoàn
toàn hủy mình ra không (x. Pl 2,6-11), để rồi đến trong lịch sử và làm người, tất
cả là bởi tình yêu[1].
Đỉnh cao cho lời mời gọi tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người chính là việc
Đức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá làm giá chuộc muôn người. Cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá đã trở thành hy tế để Người cứu con người khỏi án chết.
Người đã phục sinh, trao ban Thần Khí và nay Người luôn hiện diện cách sống động
nơi Bí tích Thánh Thể để tiếp tục trở nên nguồn lương thực nuôi dưỡng con người.
Thánh Anphongsô đã kinh nghiệm được tình yêu huyền nhiệm đó nơi cuộc đời của
ngài. Do vậy, thánh nhân đã đáp trả lại tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa khi
ngài từ bỏ tất cả tiền tài, danh vọng, địa vị để đi đến một quyết định dứt
khoát cho cả cuộc đời là thành lập DCCT với sứ mạng: “Theo sát Đức Giêsu Kitô Cứu
Thế bằng cách rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” (x. HP 1).
Như Đấng Tổ Phụ,
các tu sĩ DCCT cũng được mời gọi lắng nghe và mau mắn đáp trả lại tiếng gọi
tình yêu của Thiên Chúa bằng chính cuộc đời của mình. Để làm được điều này,
thánh Anphongsô đã chỉ ra cho các tu sĩ DCCT cách thức không gì khác là “yêu mến
Chúa Giêsu”. Việc này đòi hỏi các tu sĩ phải có được một kinh nghiệm cá vị và
thiết thân với Đức Giêsu. Nhờ những kinh nhiệm này, họ sẽ dùng chính cuộc đời của
mình mà làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa Cha, “Đấng đã yêu
thương ta trước và đã sai Con của Ngài làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga
4,10; x. HP 6). Muốn có được kinh nghiệm cá vị với Đức Giêsu Kitô, và khám phá
tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa, các tu sĩ DCCT được mời gọi phải vun trồng đời
sống cầu nguyện để khám phá và sống mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô (x. HP 29). Mầu
nhiệm này đã được Đức Giêsu tỏ lộ trên con đường mà Người đã đi, đó là: Nhập Thể,
Thập Giá, Thánh Thể và Sự đồng hành của Mẹ Maria.
Mầu nhiệm Nhập
Thể
Thánh Gioan đã
khẳng định: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến
Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm
của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4,10). Thật vậy, tình yêu Thiên
Chúa là tài sản quý giá nhất mà nhân loại có được. Tài sản này đã được Thiên
Chúa trao ban nơi Ngôi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã vì tình
yêu trung tín của Thiên Chúa với nhân loại, mà trút bỏ mọi vinh quang, danh dự
(x. Pl 2, 6-11), để rồi hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha xuống thế làm người
nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria mà cứu độ nhân loại. Chính Người đã tự nguyện
chọn thân phận nghèo hèn, chọn sống và cư ngụ giữa con người như một người bình
thường, ngoại trừ tội lỗi, để rồi đi vào trong dòng lịch sử của nhân loại bằng
sự thân mật, gần gũi và yêu thương: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14). Trong hang đá Bêlem năm xưa, nơi
máng cỏ nghèo hèn, đơn sơ, một Thiên Chúa quyền năng, vô hình, cả vũ trụ không
chứa nổi, nay lại trở nên hữu hình trong hình hài của một Hài Nhi bé bỏng, yếu ớt
và cần đến sự che chở của con người. Sự hạ mình đến tột cùng như thế của Chúa
Giêsu là minh chứng sống động và xác đáng nhất cho thấy một Thiên Chúa yêu con
người đến độ trở nên đồng thân đồng phận mà ôm trọn lấy cái nghèo, cái xù xì,
cái thô ráp của kiếp người lầm than, để cho dù con người có là ai và ở trong
hoàn cảnh nào thì Thiên Chúa vẫn luôn ở cùng và ở giữa họ. Như thế, ngang qua mầu
nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã cho thấy Ngài yêu con người hết mực và vô điều kiện,
sẵn sàng làm tất cả mọi sự chỉ vì con người.
Khi chiêm ngắm
Chúa Giêsu nơi mầu nhiệm Nhập Thể, các tu sĩ DCCT cũng được mời gọi hãy lắng
nghe và đáp trả tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa, bằng cách tự buộc mình trở
nên những tôi tớ khiêm tốn và can trường của Đức Kitô khi ở giữa người ta (x.
HP 6). Họ trở nên những tông đồ trong mọi việc lành và bày tỏ bản chất phổ quát
của ơn cứu độ (x. HP 19) cho hết thảy mọi người. Nhờ đó Tin Mừng sẽ được rao giảng
cách trọn vẹn (x. HP 9).
Mầu nhiệm Thập
Giá
Khi con người hờ
hững và tiếp tục quay lưng với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa, thì Ngài
không nản lòng hay từ bỏ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi con người thiết tha
hơn và yêu thương nhiều hơn bằng việc để cho Đức Giêsu Kitô tự nguyện chịu chết
trên cây thập giá. Nơi thập giá, chính Chúa Giêsu vì tình yêu dành cho con người
đã hoàn toàn xin vâng theo thánh ý của Chúa Cha để rồi chịu chết mà cứu chuộc
nhân loại. Trên cây thập giá, máu, mồ hôi, nước mắt, những mũi đinh và cuối
cùng là cả mạng sống của Chúa Giêsu đã hòa quyện, kết tinh và đổ ra từng giọt để
rồi thấm nhuần vào trong từng vùng tối tăm của thực tại tội lỗi nơi con người.
Nhờ đó, ánh sáng của ơn cứu độ được chiếu tỏa trên con người. Xưa kia, nhân loại
giống như đoàn dân đang lần bước trong đêm đen của thế gian điên dại, của nhơ
nhớp tội lỗi, của sự chết, thì nay nhờ cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã
phá tan bóng tối của sự chết, của tội lỗi phủ vây nhân loại, và khai mở một sự
sống mới vĩnh cửu nơi Thiên Chúa (x. Is 9,1). Như thế, với tình yêu của Chúa
Cha và sự đáp trả tuyệt đối của Chúa Giêsu, cùng trao ban Thần Khí khi Chúa
Giêsu trút hơi thở, thì nói như lời ĐGH Bênêđictô XVI: “Thập Giá không phải là
hành vi làm hòa của nhân loại dâng lên cho Thiên Chúa đang cơn thịnh nộ, nhưng
là sự diễn tả Tình Yêu như điên dại của Thiên Chúa, một Tình Yêu đến độ tự hiến,
tự hạ để cứu con người. Thập Giá là hành vi của Thiên Chúa đến với chúng ta chứ
không phải ngược lại.”[2]
Sự sừng sững của
thập giá Đức Giêsu giữa đất trời vẫn luôn là tiếng gọi tình yêu đầy sống động
mà Thiên Chúa mời gọi các tu sĩ DCCT hãy đáp trả trong từng ngày sống của họ.
Tình yêu của Đức Kitô trên thập giá thúc bách các tu sĩ DCCT kinh nghiệm và đi
vào trong sự đáp trả tình yêu ấy bằng cách “tham dự vào sự bỏ mình của Đấng chịu
đóng đinh, sự tự do thanh khiết của trái tim Ngài và sự toàn tâm dâng hiến
chính Ngài cho sự sống trần gian” (HP 51). Điều này đòi hỏi các tu sĩ phải là
người thực sự kinh nghiệm được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm
Thập Giá. Có như thế, họ mới có thể can đảm để chọn bản vị Đức Kitô làm trung
tâm cho cuộc sống mình (x. HP 23). Để rồi từ đó, người tu sĩ DCCT bước theo Đức
Kitô Cứu Thế bằng việc “bỏ mình và luôn sẵn sàng đảm nhận những công việc khó
khăn” (HP 20). Họ hiến mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân (x. HP 1) đặc biệt
nơi những con người nghèo khổ, tất bạt để nhờ đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa được
dẫy tràn xuống trên nhân loại.
Mầu nhiệm
Thánh Thể
Mặc dù đã nhập
thể làm người, chịu chết trên thập giá, phục sinh vinh hiển và trao ban Thần
Khí để cứu độ con người, nhưng tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho con người lúc
nào cũng như ngọn lửa bừng cháy trong tim, khiến Người không chịu ngồi yên mà
tiếp tục hủy mình ra không nơi tấm bánh bé nhỏ, đơn sơ, hầu có thể ở lại với
con người luôn mãi và mời gọi con người cũng hãy ở lại trong tình yêu của Thiên
Chúa (x. Mt 28,20).
Trong Bí tích
Thánh Thể, tình yêu đã khiến Chúa Giêsu trao hiến chính mình Người cho nhân loại: “Đây
là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (Lc 22,19). Người chấp nhận ẩn mình
trong tấm bánh trắng tinh đơn sơ, bé nhỏ để sẵn sàng bẻ nhỏ thân mình ra làm của
ăn nuôi sống linh hồn con người: “Tôi là Bánh Trường Sinh, ai đến với
tôi không hề phải đói” (Ga 6,35). Để rồi, dù chúng ta có là ai, là người
như thế nào, thì vẫn được Chúa bao bọc, nuôi dưỡng và bổ sức tâm linh, như lời
ĐTC Bênêđictô XVI đã khẳng định: “Đức Giêsu đã phô bày Thiên Chúa ra cho chúng
ta nhìn ngắm và đụng chạm”[3]
Với các tu sĩ
DCCT, Thánh Thể luôn là chóp đỉnh và nguồn mạch của toàn bộ đời sống tông đồ
cũng như là dấu chỉ của tình liên đới thừa sai (x. HP 29). Do đó, để đáp lại tiếng
gọi tình yêu của Thiên Chúa cách cụ thể và sống động, các tu sĩ DCCT được mời gọi
thường xuyên đến với Bí tích Thánh Thể, để Thánh Thể trở nên nguồn sống nuôi dưỡng
toàn bộ đời sống thiêng liêng của họ cách dồi dào, bền bỉ hơn (x. HP 31). Chính
trong và qua Bí tích Thánh Thể, người tu sĩ DCCT gặp gỡ được một Đức Giêsu cách
cá vị, thiết thân trong chính cuộc sống của họ. Nhờ đó, các tu sĩ DCCT kinh
nghiệm được tình thương và ơn cứu độ của Chúa trên cuộc đời của họ (x. HP 27).
Điều này sẽ làm cho lời rao giảng của họ trở nên có giá trị và là chứng tá sống
động về ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho từng người (x. HP 27).
Từ đây có thể
khẳng định, Thánh Thể chính là “con tim” của đời sống Hội Dòng. Chính khi ở lại
và kết nối với Bí tích Thánh Thể, tu sĩ DCCT mới biết “lưu tâm đến việc mặc lấy
con người mới, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống
lại từ cõi chết, hầu thanh luyện các động cơ của bản thân trong việc phán đoán
và hành động” (HP 41). Nhờ đó, họ có thể dễ dàng trong việc bẻ đời mình ra để đến
với tha nhân, nhất là với những người nghèo và người bị bỏ rơi hơn cả, hầu trở
nên “dấu chỉ và chứng tá về quyền năng phục sinh của Đức Kitô trước mặt người đời,
khi loan báo sự sống mới và vĩnh cửu” (HP 51).
Sự đồng hành
của Đức Maria
Đối với Đức
Maria, Mẹ không chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu nhưng còn là người môn đệ trung tín
luôn theo sát Đức Kitô Cứu Thế. Giống như Chúa Giêsu, Mẹ cũng luôn trung thành
và mau mắn trong việc đáp trả lại tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa ở nơi cuộc
đời của Mẹ.
Khi thưa lên
hai tiếng “xin vâng” với lời truyền tin của sứ thần Gabriel (x. Lc 1,38), Mẹ
hoàn toàn vâng phục và ngoan ngùy bỏ ngỏ cuộc đời của mình cho Thiên Chúa dẫn dắt.
Mẹ Maria đã hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa một trật với việc hiến mình cho
sứ mạng của Đức Kitô nơi công trình cứu chuộc. Mẹ đã xin vâng trong sự tin tưởng,
phó thác để đón nhận Ngôi Hai nhập thể trong cung lòng của Mẹ. Mẹ xin vâng
trong nghịch cảnh khi cùng con trốn sang Ai Cập, xin vâng trong âm thầm khi sống
ẩn dật cùng Chúa Giêsu tại Nadarét. Mẹ còn xin vâng trong niềm cậy trông vào
Con Mẹ tại tiệc cưới Cana và cuối cùng là xin vâng trong sự trung tín đến tột
cùng khi đứng dưới chân thập tự trên đỉnh đồi Calvario năm xưa. Chính khi ở dưới
chân thập giá, Mẹ Maria đã lãnh nhận sứ mạng mà Chúa Giêsu trao phó: “Thưa
Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26), để rồi từ đây, Mẹ trở thành Mẹ của
nhân loại và chăm sóc cho Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Như thế, Đức Maria là
gương mẫu tuyệt vời về việc thánh hiến hoàn hảo, vì Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên
Chúa và hiến dâng trọn vẹn bản thân”.[4]
Như thánh Gioan
năm xưa, các tu sĩ DCCT cũng được mời gọi: đón nhận Đức Trinh nữ Maria rất
thánh về nhà mình (x. Ga 19,27).[5] Họ
hãy “quảng đại trong việc hun đúc lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, nhất là
lòng tôn sùng có tính phụng vụ” (HP 32). Để nhờ Mẹ và qua Mẹ, tu sĩ DCCT biết mạnh
mẽ đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và mau mắn lên đường trên hành trình làm chứng
cho Tin Mừng (x. HP 32).
Như vậy, ngang
qua bốn trụ cột trong linh đạo của Dòng Chúa Cứu Thế: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập
Giá, Thánh Thể, và sự đồng hành của Mẹ Maria, cùng với sự ngoan ngùy để cho Thần
Khí hướng dẫn (x. HP 25), các tu sĩ DCCT có thể khám phá và làm mới lại hình ảnh
của Đức Kitô nơi họ. Nhờ đó, họ biết “chọn bản vị Đức Kitô làm trung tâm” (HP
23), để rồi không ngừng thanh luyện các động cơ trong việc phán đoán và hành động
(x. HP 41), hầu trở nên những tôi tớ can trường trong sứ mạng loan báo Tin Mừng
cho người nghèo khó (x. HP 6).
[1] x.
Joseph Ratzinger, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, 53.
[2] Ibid.,
304.
[3] Ibid.,
53.
[4] ĐGH
Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời sống thánh hiến (Vita
Consecrata), Phan Tấn Thành chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn giáo, 2015), 56.
[5] Ibid., 57.