Tình yêu - phương dược chữa lành

Tình yêu của Chúa Giêsu biến đổi cuộc đời, chữa lành những vết thương và giải thoát chúng ta khỏi vòng luẩn quẩn của bất mãn, giận dữ và khóc than.

“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2,24).

Thánh Gioan – người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,16). Đối với những người Kitô hữu thì tình yêu chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết họ là môn đệ của Đức Giêsu Kitô (x. Ga 13,35). Tình yêu là tính đặc thù của đời sống Kitô giáo. Mức độ của nó vượt qua tất cả những gì con người có thể làm, vì nó được đo bằng tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã tỏ ra qua việc hiến tế cuộc đời Người để trở nên phương dược chữa lành cho con người.[1] Điều này được thể hiện qua công trình cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô ngang qua Mầu nhiệm Thập Giá. Có thể nói, mầu nhiệm Thập Giá là phương dược tình yêu, để bất cứ ai tin và đón nhận Đức Giêsu Kitô, sẽ được Người chữa lành những tổn thương tận sâu bên trong tâm hồn vốn do tội lỗi gây nên. Nhờ đó, mối tương quan đích thực giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và từng người với chính bản thân được phục hồi. Chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ hơn về ba mối tương quan này.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa

Trước hết, khi nhìn theo phương thẳng đứng, thập giá của Đức Giêsu Kitô là điểm nối kết, là phương thế nhằm tái lập lại mối tương quan tình yêu giữa Thiên Chúa với con người. Chúng ta biết rằng mối tương này đã bị phá hủy do chính con người làm dụng tự do khi bất tuân Thiên Chúa (x. St 3,16tt). Trong suốt dòng lịch sử nhân loại, dường như con người chỉ muốn gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thế nhưng, điều này chỉ dẫn họ đến những bất hạnh, đau khổ và tuyệt vọng. Con người càng vùng vẫy thì càng lún sâu trong sự tội và cuối cùng là sự chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa không thể ngồi yên nhìn con người rơi vào hố sâu của tội lỗi. Tình yêu mà Người dành cho loài thụ tạo tội nghiệp này đã khiến Người đi vào trong lịch sử của nhân loại. Bằng nhiều cách thức khác nhau, Người đã mặc khải cho con người biết ý định yêu thương của Người (x. Hr 1,1tt). Và đỉnh cao của sự mạc khải nơi Người chính là việc Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người, để nói cho con người biết về tình yêu của Thiên Chúa Cha và rồi chịu chết đau thương trên Thập giá hầu cứu con người khỏi án chết (x. Ga 3,16). Bằng lời thưa“Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8), Đức Giêsu đã từ bỏ tất cả vinh quang, danh dự của một vì Thiên Chúa toàn năng, cao cả, chấp nhận hạ mình đến tột cùng mà mang lấy thân phận con người (x. Pl 2,6-7) để đồng thân đồng phận, cùng chung chia và cảm thông với những yếu đuối, đau khổ của kiếp ngườiĐỉnh cao của sự vâng phục Thánh ý Chúa Cha vì yêu thương nhân loại của Đức Kitô chính là cái chết đầy ô nhục và đau đớn của Ngài trên thập giá. Chính nhờ sự chết và phục sinh vinh hiển của Ngài mà con người được cứu chuộc, được phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa. Như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói: “Thập Giá là sự biểu lộ của Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình yêu tự hiến trọn vẹn.”[2] Điều này có nghĩa, “thập giá tiên vàn là vận hành theo hướng từ trên xuống. Thập giá không phải là hành vi làm hòa của nhân loại dâng lên cho Thiên Chúa đang cơn thịnh nộ, nhưng là sự diễn tả tình yêu như điên dại của Thiên Chúa, một tình yêu đến độ tự hiến, tự hạ để cứu độ con người”.[3] Thật vậy, “trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2 Cr 5,19). “Thiên Chúa không chờ tội nhân đến để hòa giải với mình, ngược lại, chính Người đến với họ trước để họ được giao hòa với Người”.[4] Như thế, thập giá theo đúng hướng của nó chính là sự tỏ lộ của một Thiên Chúa luôn yêu con người và hết lòng vì con người.

Tương quan giữa con người với con người

Thứ đến, khi nhìn theo phương ngang, thập giá của Đức Giêsu Kitô chính là điểm nối kết, là sự tái lập lại mối tương quan giữa con người với con người. Theo Thánh Kinh, sau khi nguyên tổ phạm tội, con người không chỉ làm tổn thương đến mối tương quan với Thiên Chúa mà còn làm rạn nứt mối tương quan giữa con người với nhau. “Aben em ngươi đâu rồi?” (St 4,9) là câu hỏi mà Thiên Chúa đã hỏi Cain ngay sau khi ông giết em mình. Như vậy, một trong những hậu quả nghiêm trọng của tội nguyên thủy chính là sự bất hòa, anh em giết hại lẫn nhau. Có thể nói, khi không còn sống trong tình yêu của Thiên Chúa, con người đâm ra ích kỉ, ghen tương. Điều này dẫn nhân loại đến chỗ hận thù, oán ghét và thậm chí là sát hại lẫn nhau cách không thương tiếc. Những xung đột gay gắt về sắc tộc, màu da, tôn giáo; những cuộc chiến tranh tàn bạo, khốc liệt; những mối hận thù dai dẳng... vẫn đang tàn phá con người từng ngày. Những điều này là minh chứng cho việc vắng bóng tình yêu Thiên Chúa. Tuy nhiên, hơn 2000 năm trước, Con Thiên Chúa đã đến trần gian để hàn gắn lại sự đổ vỡ trong mối tương quan giữa con người với nhau. Thật vậymột ý nghĩa quan trọng khác của việc Đức Giêsu Kitô chết trên thập giá, chính là để cho nhân loại được giao hòa, nối kết lại với nhau và được cùng chung hưởng một nguồn ơn cứu độ. Bằng cái chết đau thương đó, Ngài đã làm cho trọn ý nghĩa của việc yêu thương cho đến cùng. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13). Quả thật, đó là cách thức mà Chúa chúng ta đã dùng để nói cho nhân loại biết về một tình yêu đích thực và trọn vẹn, một tình yêu loại trừ mọi hận thù, chia rẽ và ích kỷ. Ngài lôi kéo và mời gọi con người cũng hãy biết yêu thương và tha thứ như Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Tình yêu đó đã diễn tả cách cụ thể qua việc Ngài tự ý hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại. Có thể nói, bằng cái nhìn của đức tin, người Kitô hữu biết rằng chỉ trong và qua cái chết của Đức Giêsu Kitô, con người mới có điểm quy chiếu để hòa giải với nhau, mới có thể xóa bỏ mọi hận thù để sống giá trị tình thương mà nhờ đó, những tổn thương mà con người đã gây ra cho nhau mới được chữa lành. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chỉ những gì được yêu mới có thể được cứu. Chỉ những gì được ôm lấy mới có thể được biến đổi. Tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả những mâu thuẫn, những yếu đuối và những nhỏ nhen của chúng ta”.[5]

Tương quan với chính bản thân

Cuối cùng, khi đi từ ngoài vào trong, thì thập giá Đức Giêsu Kitô chính là sự nối kết giúp chữa lành và làm hòa từng người với chính mình. Tác giả Michael Qouist trong cuốn Xây Dựng Con Người Nhân Bản đã khẳng định: “Con người không phải đã được dựng nên cho hoàn tất”.[6] Thật thế, bởi vì bản chất con người là chưa hoàn thiện nên tự nơi con người, luôn có sự đấu tranh giữa thiện và ác, giữa tốt và xấu. Sự mâu thuẫn giữa bên trong và bên ngoài khiến con người dễ bực dọc hay thậm chí muốn nổi loạn với chính mình. Điều này khiến con người đôi khi muốn buông xuôi và đầu hàng với chính mình. Và để che lấp đi sự mâu thuẫn này, nhiều người có xu hướng tìm cho mình sự an toàn giả tạo nơi những đảm bảo về vật chất, danh vọng hay quyền lực và phủ lên bản thân nhiều lớp mặt nạ trong cuộc sống. Thế nhưng, điều đó chỉ làm cho họ càng ngày càng trở nên thu rút, co cụm và đau khổ hơn. Đến đây, con người dường như rơi vào bế tắc với chính mình. Chính ở điểm này mà Hội Thánh muốn nói cho nhân loại biết một phương cách giúp họ làm hòa với chính mình. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Ngài là tất cả cho niềm hy vọng của con người. Thật thế, chính nhờ cái chết trên thập giá mà Ngài đã đưa con người đi vào trong chiều sâu của tâm hồn để nhận biết và hòa giải với chính mình. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Những ai để mình được Thiên Chúa cứu độ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn”.[7] Nói cách khác, chính khi ở lại trong Đức Giêsu Kitô, con người mới nhận ra những tổn thương, đổ vỡ nơi mình, để rồi trong niềm trông cậy nơi thập giá Đức Giêsu Kitô, con người mới có thể tha thứ cho chính mình, biết mở ra và lãnh nhận hồng ân chữa lành của Thiên Chúa.

Như vậy, vì tình yêu vô điều kiện mà Chúa Cha – Đấng luôn yêu thương con người từ muôn thuở, đã sai Con của Ngài đến thế gian để cứu chuộc con ngườiQua chính mầu nhiệm Thập giá được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô, con người đã được chữa lành và nối kết lại trong những mối tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người và từng người với chính bản thân mình. Đó là dấu chỉ xác thực cho việc Thiên Chúa yêu thương con người.

Chúng ta tự hỏi, mỗi người cần phải làm gì để chính Đức Kitô chữa lành các tổn thương trong những mối tương quan này, cách đặc biệt là các tu sĩ thừa sai DCCT? Trước hết, đó là sự hoán cải nội tâm nơi họ. Quả thế, với sự hoán cải tâm hồn không ngừng, đồng thời qua việc bỏ mình, loại trừ tính ích kỷ, mở rộng con tim cho người khác và hiến mình cho người khác vì Đức Kitô, các tu sĩ sẽ mặc lấy con người mới, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi chết, nhờ đó họ sẽ đạt được sự tự do nội tâm, sự tự do đem lại sự hợp nhất và hài hòa cho đời sống của họ (x. HP 41). Chính sự tự do nội tâm này, cùng với việc năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải và đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tu sĩ có thể bước ra khỏi con người cũ của mình – con người bị tính xác thịt chi phối, để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, có được những tâm tư tình cảm, nên một lòng một trí ý với Ngài và có thể vượt thắng được những giằng xé trong nội tâm của mình (x. HP 25).

Tiếp đến, chính là tầm quan trọng của việc sống tình thân hữu Tin Mừng. Điều này giúp mang lại sự sống cho cộng đoàn tông đồ cũng như duy trì và đem lại sự triển nở cho đời sống cộng đoàn của các tu sĩ thừa sai DCCT (x. HP 34). Hơn nữa, chính tình thân hữu Tin Mừng này cũng là lời đáp trả của họ trước tình yêu của Thiên Chúa trong việc hàn gắn mối tương quan giữa con người với nhau. Bởi lẽ, với tình thân hữu Tin Mừng, qua việc sống bình đẳng, đồng trách nhiệm, các tu sĩ cùng nhau góp phần vào việc sống và thi hành sứ vụ mà chính Đức Kitô đã trao cho họ (x. HP 35). Thêm vào đó, bằng việc quy tụ nhau trong sự hiệp nhất về ý chí trong Đức Kitô và trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau (x. HP 38), cũng như qua việc rao giảng mầu nhiệm Đức Kitô cách minh nhiên hay qua sự hiện diện huynh đệ âm thầm (x. HP 10), cách nào đó họ đang làm chứng cho sự hiện hữu của Đức Kitô giữa nhân loại, cho việc Thiên Chúa yêu thương con người, luôn tha thứ và mời gọi họ sống giới răn yêu thương mà Người đã ban qua Đức Giêsu Kitô. Đây cũng là dấu chứng cho mọi người nhận ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến qua sự hiện diện biểu lộ trong Chúa Giêsu: yêu thương và tha thứ mọi tội lỗi của con người cho đến chết. 

Vậy còn mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa? Đối với các tu sĩ thừa sai DCCT, đó là đời sống cầu nguyện kết hiệp với Người. Chính Cha thánh Anphongsô đã nói: “Ai cầu nguyện chắc chắn được cứu vớt. Ai không cầu nguyện chắc chắn sẽ bị trầm luân”. Đối với Cha thánh, phương thế phát triển tình yêu vô vị lợi dành cho Thiên Chúa, cho Đức Kitô và tha nhân là lời cầu nguyện. Cầu nguyện là mở lòng mình cho Chúa, gặp gỡ Ngài và cộng tác với Ngài. Cầu nguyện là phương thế cần thiết cho việc cứu rỗi.[8] Chính các tu sĩ, một khi thấm nhuần tinh thần cầu nguyện của Cha thánh thì cũng sẽ diễn tả tinh thần ấy qua chính đời sống của họ dưới mọi hình thức: cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn (x. HP 26) mà qua đó, họ khám phá và sống mầu nhiệm Đức Kitô (x. HP 29).

Nói tóm lại, với sự hoán cải nội tâm không ngừng, cùng với tình thân hữu Tin Mừng và đời sống cầu nguyện theo linh đạo của Cha thánh Anphongsô, là một trong những phương thế giúp các tu sĩ thừa sai DCCT luôn kết hiệp mật thiết với Chúa, được thăng tiến và bền đỗ trong tình yêu Chúa. Chính từ đó mà họ ra đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo (x. HP 1) và giúp cho mọi người nhận ra “Ơn Cứu Chuộc chứa chan nơi Đức Kitô”. Đó là lời đáp trả tình yêu của các tu sĩ thừa sai DCCT trước tình yêu nhưng không – tình yêu chữa lành của Thiên Chúa.

Joseph Hoàng Việt




[1] Walter Kasper, Lòng thương xót, Nguyễn Khương Duy chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn giáo, 2016), 157.

[2] Joseph Ratzinger, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, 303.

[3] Ibid., 304.

[4] Ibid., 304.

[5] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Christus vivitHội đồng Giám mục Việt Nam chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2019), 75.

[6] Michael Quoist, Xây dựng con người nhân bản, Nguyễn Thị Chung chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2000), 22.

[7] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Christus vivit, 75.

[8] Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Linh đạo Dòng Chúa Cứu Thế (Hà Nội: NXB. Tôn giáo, 2006), 129-131.

Tình yêu phương dược chữa lành

Học viện Thánh Anphongsô