Paul Phước Tuyển
Có thế
nói, năm Tập Viện là một cuộc Xuất Hành, khi mỗi Tập sinh kinh nghiệm bản thân
được cứu chuộc. Qua đó, anh em nhận biết rằng xuyên suốt hành trình này, anh em
có được sự đồng hành của Đức Kitô, và Tình Yêu của Ngài luôn bao trùm lấy anh
em.
Trong Cựu Ước,
cuộc Xuất Hành là kinh nghiệm được cứu chuộc, qua đó, Thiên Chúa giải thoát dân
Israel ra khỏi thân phận nô lệ cho Ai Cập. Thiên Chúa đã làm cho họ trở nên một
dân có chủ quyền, một cộng đoàn có Ngài làm Chúa và là Mục tử.[1] Thật
vậy, dẫu cuộc Xuất Hành có thành công đi nữa mà dân không nhận biết có một
Thiên Chúa yêu thương và đồng hành cùng họ trên hành trình đó, thì họ đã không
được gọi là dân Thiên Chúa. Tương tự như thế khi gọi năm Tập Viện là một cuộc
Xuất Hành, khi mỗi Tập sinh kinh nghiệm bản thân được cứu chuộc. Qua đó, anh em
ý thức và nhận biết rằng xuyên suốt hành trình của năm Tập viện này, anh em có
được sự đồng hành của Đức Kitô, và tình yêu của Ngài luôn bao trùm lấy anh em.
Nhờ vậy, anh em mỗi ngày được biến đổi, được lớn lên trong tình yêu của Chúa và
được hội nhất với Ngài. Đến nỗi có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Như vậy,
để đi đến được miền đất hứa là được gặp gỡ Đức Kitô và để cho Ngài biến đổi con
người mình, anh em Tập sinh đã phải trải qua những chặng Xuất Hành khác nhau với
những đòi hỏi trong việc nỗ lực cộng tác với ơn Chúa ban.
Một trong những
chặng đầu tiên của một cuộc Xuất Hành có thể kể đến là việc ra khỏi
những che đậy, phòng vệ, để dễ dàng đến với Chúa và tha nhân. Thật
vậy, làm sao người ta có thể đến với nhau cách chân thành, nếu giữa họ còn có
những ẩn khuất và cản trở. Điều này càng đúng hơn nữa đối với một người khao
khát kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện.
Những sự che đậy
diễn ra khi một người cố tình không bộc lộ hết con người của mình và phủ lên
cái tôi thực tế những lớp mặt nạ, thể hiện qua lối ứng xử gượng ép, không mấy tự
nhiên. Ngoài ra, một trong những nguồn gốc khác của sự che đậy chính là hiện tượng
phòng vệ. Hiện tượng phòng vệ xuất hiện khi trong cuộc đời một người gặp những
khó khăn, tổn thương. Lúc này, nơi người đó lập tức xuất hiện những cơ chế nhằm
bảo vệ sự lành mạnh, quân bình đời sống của họ. Một số phản ứng phòng vệ thường
xảy ra như: chối bỏ (phủ nhận thực tế đau buồn, trái ý); chuyển di (chuyển cảm
xúc tiêu cực sang một đối tượng khác); hồi tưởng, thu rút (không muốn đối diện
với thực tế khó khăn, thường nhớ và muốn ở lại trong những kỷ niệm hạnh phúc, dễ
chịu). Những cơ chế phòng vệ này có thể là hữu ích nếu chúng giúp cho một người
vượt qua được những thời khắc khó khăn trong cuộc sống và rồi cho phép họ tiếp
tục theo đuổi các hoạt động mà không phải suy sụp hoàn toàn. Thế nhưng, những
cơ chế này sẽ tỏ ra vô ích, thậm chí nguy hại nếu chúng cứ tiếp tục bảo vệ một
người đã qua cơn nguy khó. Sự việc không khác gì một viên cảnh sát cố chấp, cứ
mặc áo chống đạn, ngay cả khi không còn phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào.[2]
Như thế, việc dứt
khoát bước ra khỏi những che đậy và phòng vệ là điều tiên quyết phải thực hiện
để dễ dàng đi đến với Chúa và tha nhân. Khi một người có thể ý thức về những gì
họ là và xa hơn nữa là ý thức về “những nhu cầu, sự nghèo đói và sự lệ thuộc thực
sự của họ nơi Thiên Chúa.[3] Từ
đó, họ để cho Chúa Kitô lôi kéo cách mạnh mẽ và êm ái tới việc hoán cải liên tục
và trọn vẹn (x. HP 11).
Trong việc đến
với tha nhân cũng vậy. Khi đã cởi bỏ được những lớp vỏ giáp bên ngoài, người ta
có thể đến với nhau bằng tất cả sự chân thành, cởi mở và cũng dễ dàng để góp ý
trên tinh thần xây dựng mà không cần phải e sợ chạm phải những phản ứng quá
đáng như là những di chứng của các cơ chế phòng vệ.
Một chặng xuất
hành khác cần thực hiện, đó là việc ra khỏi những tổn thương, mặc cảm,
thậm chí là thù hận, để đi đến sự chữa lành và tha thứ. Không khác
những hiện tượng che đậy, phòng vệ, các tổn thương và mặc cảm như những cản vật
làm kiệt quệ một con người, khiến họ phải lê bước trong mọi hành trình họ đi
trong đời, không riêng gì hành trình thánh hiến.
Chẳng hạn với
những tổn thương. Có thể hiểu đây là những biến cố, sự kiện tiêu cực xảy ra
trong cuộc đời một người, khiến cho họ tắc nghẽn và mãi loay hoay nơi những vết
thương đó. Để rồi, trong cuộc sống, có những lúc vô tình đụng phải hay khơi gợi
lên, họ lại trở nên khổ sở và cạn kiệt năng lượng sống. Những mặc cảm cũng như
một dạng tổn thương. Khi một người không bao giờ tự tin về những gì mình là thì
sinh ra thu rút khép mình. Hoặc ở một thái cực khác, người đó cố hết sức bằng mọi
cách bày tỏ chính mình.
Cả những tổn
thương và mặc cảm đều là những sự việc không hề dễ chịu và gây nhiều đau khổ
cho con người. Thay vì tìm cách giải quyết và chữa lành, có không ít người lại
ôm lấy thù hận. Sự thù hận này xem chừng rất tinh vi và khó nhận biết. Như vậy,
chẳng mấy ai cho rằng bản thân có ý định trả thù những người từng làm tổn
thương mình. Thế nhưng, sự dày vò, lời than trách, thậm chí là lòng căm tức thì
cứ mãi được nuôi dưỡng, nhất là đối với tổn thương được gây ra bởi những người
gần gũi, thân yêu.
Những cảm xúc
tiêu cực này có thể tiếp tục đeo bám một người trong mọi cảnh huống cuộc sống
và dĩ nhiên cả trong lúc nguyện gẫm. Lúc này, họ chỉ mãi loay hoay với những vết
thương lòng mà không thể đi vào những tâm tình, tương quan cá vị với Thiên
Chúa.
Vậy làm sao để
ra khỏi những tổn thương, mặc cảm cũng như những hình thái khác nhau của cảm
xúc thù hận? Thưa là hãy để cho phép màu của sự tha thứ tác động. Sự tha thứ và
là tình yêu vĩ đại nhất chính là Đức Giêsu Kitô – Ngài là Con Thiên Chúa đã đến
thế gian để chịu lấy những tổn thương của nhân loại: Nhục hình, phản bội, chối
bỏ, sỉ vả, chế giễu, đòn roi,… và nhất là Ngài đã chịu đóng đinh và chết nhuốc
nha tủi hổ trên cây thập giá. Và rồi, trong giờ phút lâm chung, Đức Giêsu đã
thưa lên với Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ…” (Lc 23,34). Lời
đó như là lời cầu xin cho hết thảy từng người trong nhân loại. Thật vậy, “chỉ
người nào xác tín thâm sâu là chính mình đã làm cho Đức Kitô phải khổ mới thực
sự biết những đau khổ của Ngài”[4],
để rồi mỗi người đi đến xác tín: “Đức Kitô đã cầu xin sự tha thứ cho chính tôi,
Ngài yêu thương và tha thứ cho tôi, mặc cho những bất xứng và xúc phạm của
tôi.” Vì sự yêu thương vô bờ bến đó, Đức Giêsu đã đến ở giữa nhân loại để cứu
chuộc nhân loại đang giãy giụa, đớn đau trong vũng lầy của tội lỗi. Ở giữa thế
gian, Con Thiên Chúa đã trở nên một trẻ thơ được sinh ra nằm trong máng cỏ, một
cậu bé trong xưởng mộc, rồi sau đó là một tội phạm trên thập giá; và bây giờ là
tấm bánh trên bàn thờ. Có điều gì Chúa chưa làm để cho Ngài được yêu.[5]
Còn về phần mỗi
người trên hành trình của sự tha thứ, chữa lành, cần đáp trả lại tình yêu của
Thiên Chúa qua việc để cho mình cảm nhận được tình yêu thương và sự tha thứ của
Thiên Chúa trên bản thân. Và từ đó, mỗi người khiêm tốn cầu xin sự trợ lực của
Chúa trong việc tha thứ cho những người, những biến cố đã gây nên tổn thương và
mặc cảm trong cuộc đời. Bởi như Chúa đã nói: “Không có Thầy, anh em
không thể làm gì được” (Ga 15,5) và như Chúa đã mời gọi: “Ai ở
lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái.” (Ga
15,5). Như vậy, việc ở lại trong tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa giúp
cho một người có thể trở nên sai hoa lắm quả là ân huệ của sự tha thứ để họ có
thể bước ra khỏi những tổn thương, mặc cảm, tự ti…
Trái ngược với
những mặc cảm, tự ti là sự tự tôn. Điều này cũng là một cản trở lớn trên hành
trình thiêng liêng này, cũng cần lắm một cuộc xuất hành nhằm ra khỏi
những sự tự hào, tự tôn bởi những giá trị thế gian, để đi đến sự khiêm nhường. Đó
là một đòi hỏi kiên quyết để gặp được Chúa.
Có thể nhìn nhận
rằng đã là người, ai cũng có những giá trị đặc biệt, những điều đáng tự hào để
có thể trở nên quan trọng giữa tha nhân. Còn có những người thiện chí đã “từ bỏ
mọi sự” để bước theo Chúa Kitô trong đời thánh hiến thì sao? Nói là “từ bỏ” thế
nhưng, khi từ đời bước vào nhà Dòng, lắm khi người tu còn mang lấy nơi mình những
tự hào mà họ cho rằng chúng đến từ nỗ lực cá nhân, chằng hạn như bằng cấp các
loại, những mối tương quan rộng rãi và đặc biệt, những trải nghiệm, các tài
năng… Không phủ nhận các giá trị này thật hữu ích trong việc phục vụ những người
nghèo khổ. Tuy nhiên, những giá trị đó sẽ là cản trở nếu người sở hữu chúng tự
coi những gì mình có là nhất; văn hóa quê tôi là nhất; bằng cấp của tôi là xịn
nhất; mối quan hệ của tôi là rộng nhất; quan điểm, cách nhìn nhận của tôi là
đúng nhất… Với những nhìn nhận đó, một người sẽ mãi ảo tưởng trong các “cái nhất”
của mình mà không bao giờ có thể học hỏi những “cái nhất” của người khác. Để rồi,
khi có dịp buộc phải trao đổi học hỏi thì cũng chỉ dừng ở thái độ hờ hững: “Cái
này tôi biết rồi”; “cái này không có gì mới”… và thật sự, họ chỉ để ý tìm thấy
điều dở, điều đã biết mà tiếp nhận, chứ không mảy may lưu tâm học hỏi những điều
hay ho, mới mẻ từ tha nhân.
Đó là trong cuộc
sống thường ngày. Còn trong hành trình tìm Chúa, người tự tôn sẽ mãi chẳng bao
giờ tìm được điều gì mới mẻ, bởi lòng họ đã đầy và ân sủng không bao giờ rót
vào được nữa. Như vậy, để có thể lớn lên và trở nên phong phú trong tương quan
gặp gỡ Chúa, người theo Chúa cần ra khỏi sự tự tôn mà sống sự khiêm nhường. Như
Hiến pháp số 6 của nhà Dòng đòi hỏi mỗi tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế: “Tự buộc mình
trở nên những tôi tớ khiêm tốn và can trường của Tin Mừng Đức Kitô, là Đấng Cứu
Thế và là Chúa, là nguyên lý và là mẫu mực của nhân loại mới”. Tinh thần khiêm
nhường ấy cũng thật cần thiết cho sứ vụ của một tu sĩ thừa sai DCCT, để có thể
mở ra đối thoại với thế giới như Hiến pháp số 19 đề cập: “Để công việc thừa sai
được phát triển và thành công thực sự, cần thiết phải có kiến thức đầy đủ và
kinh nghiệm thực tiễn về thế giới cũng như sự cộng tác trong Hội Thánh. Vì lý
do đó, các tu sĩ của Dòng dẫn thân một cách tự tin vào cuộc đối thoại với thế
giới này trong tinh thần thừa sai”.
Và rồi với tất
cả những tâm tình đó, ta để cho “Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế và là Chúa, là
nguyên lý và là mẫu mực của nhân loại mới” (HP 6), chứ không phải những giá trị
của thế gian như quyền lực, thế giá, khoa bảng, địa vị… làm nguyên lý. Từ đó để
cho Đức Kitô làm nguyên lý đời mình khi dám xác tín như thánh Phaolô: “Những
gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi, so với
mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành
mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl
3,7-9).
Có thể nói rằng,
đối với thánh Phaolô, việc nhận biết Đức Kitô không chỉ dừng lại ở biến cố trên
đường đi Đamas, nhưng là cả một chuỗi đáp trả khi thánh nhân mau mắn, nhạy bén
mà cộng tác với ơn Thiên Chúa trên hành trình rao giảng Tin Mừng Đức Kitô cho
dân ngoại. Đối với mỗi người đi theo Chúa cũng vậy, họ cần ra khỏi sự
vô tâm và vô ơn để đi đến sự nhạy bén, nhận biết và cộng tác với ơn Chúa.
Cũng như mặc cảm
và tự tôn, sự vô tâm và vô ơn được sinh ra bởi lòng chỉ quy về mình. Chỉ biết để
ý đến những tổn thương của mình hay những gì mình “nhất”… mà không biết để ý đến
những hồng ân, những hành động của Chúa đã làm cho họ trên cuộc đời như sự bao
bọc, chở che, huấn luyện, yêu thương… Do không nhận biết nên không thể lớn lên
về phương diện đức tin cũng như không có sự đáp trả qua việc biến đổi và hoán cải
đời sống.
Đó là sự nhạy
bén nhận biết Chúa khi nhìn lại lịch sử cuộc đời như là một lịch sử cứu độ. Thế
nhưng, việc nhận biết Thiên Chúa và những ơn lành của Người không chỉ dừng lại ở
đó, mà còn rộng ra nơi tha nhân và vạn vật xung quanh. Chẳng hạn như việc “nhận
ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi người, trong phẩm giá của con người là hình ảnh của
Thiên Chúa và là con của Chúa Cha”[6] hoặc
có lấy nơi bản thân “khả năng cất tiếng ca tụng Chúa một cách hạnh phúc chỉ bởi
cảm nhận được làn gió nhẹ thổi qua mình”…[7]
Và như vậy, khi vượt qua được sự vô tâm, vô ơn mà đi đến sự nhạy bén và tri ân, người theo Chúa sẽ nhận biết và xác tín rằng họ “đã được nghĩ đến trước, trước khi học biết suy nghĩ, đã được yêu trước khi biết yêu thương và đã được khao khát trước khi bắt đầu biết khao khát”[8]. Thật vậy, con người được nghĩ đến, được yêu, được khao khát bởi Thiên Chúa Cha – “Đấng đã yêu thương ta trước và đã sai Con của Người làm của lễ đền tội chúng ta” (1Ga 4,10; HP 6). Và rồi, khi nhận biết được chân lý tình yêu đó, người Kitô hữu được thôi thúc đáp trả bằng chính đời sống của mình.
Đi cùng với hồng
ân nhận biết Chúa qua những chặng của cuộc Xuất Hành, người theo Chúa cảm nhận
mình được yêu thương và lắng nghe lời mời gọi ngày một rõ ràng hơn trong việc
“theo gương Chúa Giêsu Cứu Thế” bằng cách rao giảng Lời Chúa cho người nghèo
khó” (x. HP 1). Đứng trước lời mời gọi hệ trọng này, nhiều người không khỏi lắng
lo về sự bất xứng, bất trung và yếu đuối của bản thân. Lại một lần nũa, người
theo Chúa được mời gọi bước ra khỏi sự loay hoay của những tâm trạng
e dè, hoài nghi của chính mình, mà đi đến sự phó thác nơi tình yêu và sự quan
phòng trong Đức Kitô – Con Thiên Chúa. Thật vậy, khi gắn với
tình yêu của Đức Kitô, như lời Chúa mời gọi: “Hãy ở lại trong tình
thương của Thầy” (Ga 15,9), mỗi người ý thức rằng bản thân được đón nhận
một tình yêu hiến mạng, một tình yêu với trái tim không ngơi nghỉ, những mong
muốn bằng mọi cách bày tỏ tình yêu. Và dĩ nhiên, trong tương quan của tình yêu
thì không thể thiếu sự đáp trả, rằng Thiên Chúa cần được yêu.[9] Như
vậy, chính nhờ việc ở lại trong tình yêu của Chúa mà người thánh hiến có thể vượt
qua khó khăn, nghi nan. Từ đó, họ dễ dàng đáp trả qua việc tin tưởng, cộng tác
với sự đồng hành thật gần gũi và thiết thân của Chúa.
Sự ở lại, gắn
bó thiết thân với Đức Kitô trong đời sống cầu nguyện giúp mỗi người trở nên người
hơn. Thật vậy, “con người sẽ hoàn toàn là mình khi không còn bám vào bản thân,
không còn khép kín nơi mình, khẳng định mình, mà ngược lại, hoàn toàn khai mở
ra với Thiên Chúa.”[10] Hay
nói cách khác là ra khỏi con người cũ của mình để mặc lấy con người mới là Đức
Kitô – Con Thiên Chúa. Qua việc biết cộng tác với ân sủng của Chúa mà biến đổi,
hoán cải mỗi ngày. Và “khi chúng ta thay đổi, chúng ta trở thành công cụ tình
yêu cứu độ của Thiên Chúa”[11].
Cũng trong tiến trình thay đổi này, “không cần phải nói với Thiên Chúa điều Người
phải làm nhưng phải học chấp nhận Người, như Người tự biểu lộ cho chúng ta;
không muốn tự nâng mình lên vị trí cao cả của Thiên Chúa, nhưng trong sự khiêm
tốn của phục vụ, dần dần uốn nắn theo hình ảnh đích thực của Thiên Chúa.”[12] Ngoài
ra, trong Hiến pháp số 41 của DCCT cũng có những hướng dẫn nhằm giúp các tu sĩ
sống sự hoán cải: “Các tu sĩ phải hết sức lưu tâm mặc lấy con người mới, được tạo
dựng theo hình ảnh của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi chết, hầu
thanh luyện các động cơ của mình trong việc phán đoán và hành động. Việc hoán cải
tâm hồn và canh tân lòng trí không ngừng phải là nét đặc thù của toàn bộ đời sống
thường nhật của họ”.
Trong việc mặc
lấy con người mới là Đức Kitô, đòi hỏi mỗi người phải biết rõ Ngài, phải có
kinh nghiệm cá vị và thâm sâu với Ngài. Một cách rất cụ thể là biết Đức Kitô nhờ
thói quen đọc và suy gẫm Kinh Thánh mỗi ngày. Bởi “ai không biết Kinh Thánh là
không biết Đức Kitô” (thánh Giêrônimô). Để rồi từ đó có thể đi tới xác tín rằng:
“Tôi biết Đức Kitô là ai. Và trong mức độ khả năng của tôi, tôi muốn trở thành
Đức Kitô cho anh em khi Ngài thực sự sống cuộc đời của Ngài giữa anh em, cho
anh em cùng với anh em trong ân sủng và Thần khí Ngài.”[13]
Sống cuộc đời của
Đức Kitô cho tha nhân một cách rất riêng đối với tu sĩ DCCT là ra đi “rao giảng
Lời Chúa cho người nghèo” mà Hiến pháp số 1 đã nêu rõ. Đây chính là mục đích và
linh đạo DCCT. Khi nói về linh đạo, một tác giả đã đưa ra định nghĩa khá thú vị
như sau: “Chúng ta thức dậy trong ray rứt với ước muốn cháy bỏng, với cuồng nộ,
chúng ta xử sự thế nào với sự cuồng nộ ấy thì đó là linh đạo của chúng ta.
Chúng ta làm gì với ước muốn cháy bỏng đó, làm sao để định hướng nó, thì đó là
linh đạo của chúng ta”[14].
Vậy, là một người
trẻ, người theo Chúa có mang trong mình những ước muốn cháy bỏng, những cảm thức
không ngơi nghỉ đối với thế giới và nhân loại mà họ đang thuộc về hay không? Là
một tu sĩ thừa sai DCCT, họ có ôm lấy những trăn trở, thao thức của Đức Kitô
là ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người nghèo khổ nhất hay
không? Chính những “cảm thức không nghỉ yên như một hạt giống, sau
này sẽ được gieo và sẽ sinh nhiều hoa trái”[15].
Thế nhưng, khi ôm lấy trong lòng những hạt giống thao thức cháy bỏng đó, người
theo Chúa đã cộng tác với ân sủng ra sao để làm cho hạt giống đó nảy nở và trổ
sinh? Họ đã có những dốc quyết dấn thân cụ thể nào trong hoàn cảnh hiện tại?
Còn đối với việc cầu nguyện, học hành và trau dồi các khả năng thì sao? Tất cả
những điều này để nhằm mục đích duy nhất là trở nên một thừa sai đích thực “hiến
mình một cách đặc biệt cho Thiên Chúa và cho hoạt vụ thừa sai” (x. HP 1).
Như vậy, mỗi Tập
sinh cùng với Đức Kitô thực hiện cuộc xuất hành, tức là ra khỏi những miền đất
nô lệ, tối tăm, miền đất của sa mạc, đồng hoang cỏ cháy đầy những giá trị chết
chóc, để đi đến miền đất của sự sống, của tự do trong Đức Kitô. Vậy là cuộc
hành trình thiêng liêng có một không hai trong đời sắp kết thúc. Lại mở ra một
hành trình mới sắp tới với không ít thách đố, đòi hỏi người tu cần tiếp tục dò
tìm mà dứt khoát ra khỏi những miền đất tối tăm còn tồn tại trong tâm hồn khiến
họ rời xa Đức Kitô. Từ đó, họ thật sự thong dong, tự do và tràn đầy lòng yêu mến
mà nhiệt thành đáp trả lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt
28,19-20).
[1] x. Johh O’Donnell, C.Ss.R,
Những suy tư về Hiến pháp DCCT (Kỳ 3,
tiếp theo), Nguyễn Thanh Bích chuyển ngữ.
[2] x.
Jean Monbourquette, Làm sao tha thứ,
Trần Minh Huy chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn giáo, 2020), 246.
[3] x.
Michael Brehl, Cầu nguyện trong tinh thần và truyền thống thánh Anphongsô Liguori, 297.
[4]
Raniero Cantalamessa, Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, Trần Đình Quảng chuyển ngữ (Đồng Nai: NXB. Đồng
Nai, 2020), 41.
[5] x.
Lưu Quang Bảo Vinh, Ơn Cứu Độ trong cảm thức thừa sai của thánh Anphongsô (Kỳ 3).
[6] ĐTC Phanxicô, Sống tốt, 158.
[7] Ibid., 92.
[8] Ibid,. 95.
[9] x. Lưu Quang Bảo Vinh, Ơn Cứu Độ trong cảm thức thừa sai của thánh Anphongsô (Kỳ 3).
[10]
Joseph Ratzinger, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, 248.
[11] Michael Brehl, Cầu nguyện trong tinh thần và truyền thống thánh Anphongsô Liguori, 30.
[12]
Joseph Ratzinger, Đức Giêsu thành
Nazareth – phần II, Nguyễn Văn Trinh chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn giáo,
2011), 94.
[13]
Anphongsô Phạm Gia Thụy lược soạn, Lịch sử
và linh đạo Anphong, 286.
[14] Tỉnh
Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Ơn Cứu Chuộc chan chứa nơi Người – Linh Đạo Dòng Chúa Cứu Thế, 97.
[15] ĐTC Phanxicô, Sống Tốt, 29.