

THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN THỨ XVI
Kỳ họp
thứ nhất (4-29 tháng 10 năm 2023)
Báo cáo tổng hợp
GIÁO HỘI HIỆP HÀNH
TRONG SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Duc
Trung Vu, C.Ss.R. chuyển ngữ
---------------------------------

GIỚI
THIỆU
Anh
chị em thân mến,
"Tất
cả chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân
thể" (1 Cr 12,13). Đây là kinh nghiệm tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn
mà chúng tôi đã trải qua trong Kỳ họp thứ nhất của Thượng Hội đồng về hiệp hành[1] diễn ra từ ngày 4 đến ngày 29 tháng 10
năm 2023 với chủ đề: “Hướng tới một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia,
sứ mạng". Bất chấp sự đa dạng về xuất xứ, ngôn ngữ và văn hóa, nhờ ân sủng
chung của Bí tích Rửa tội, chúng tôi đã sống những ngày này cùng một tâm hồn và
thần khí. Chúng tôi đã tìm cách hát như một ca đoàn với nhiều giọng hát nhưng
diễn tả một linh hồn. Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng tôi một kinh nghiệm về
sự hòa hợp mà chỉ duy nhất mình Ngài mới có thể tạo nên; đó là một hồng ân và
là một chứng tá trong một thế giới bị chia rẽ và tan vỡ.
Hội
nghị của chúng ta diễn ra trong bối cảnh các cuộc chiến tranh cũ và mới vẫn
đang tiếp diễn trên thế giới, gây ra những hậu quả thảm khốc đối với vô số các
nạn nhân. Tiếng kêu cứu của những người nghèo vang vọng giữa chúng ta, của
những người buộc phải di cư và của những người chịu đựng bạo lực cùng với những
hậu quả tàn phá của biến đổi khí hậu. Chúng ta đã nghe thấy tiếng kêu cứu của
họ không chỉ qua các phương tiện truyền thông, mà còn qua tiếng nói thực tế của
nhiều người có mặt, những người liên quan tới những bi kịch kinh hoàng dù qua
gia đình hay dân tộc của họ. Tất cả chúng ta luôn luôn mang tiếng kêu cứu đó
trong thâm tâm và lời cầu nguyện, tự hỏi Giáo Hội có thể xây dựng những con
đường hòa giải, hy vọng, công lý và hòa bình như thế nào.
Cuộc
họp của chúng tôi diễn ra tại Rôma, tập hợp quanh đấng kế vị Thánh Phêrô, người
đã củng cố đức tin của chúng ta và khích lệ chúng ta mạnh dạn trong sứ mạng của
mình. Thật là một hồng ân khi bắt đầu những ngày này bằng một đêm canh thức đại
kết, trong đó các nhà lãnh đạo và đại diện của các Giáo Hội và cộng đồng Kitô
giáo khác nhau cùng cầu nguyện với Đức Thánh Cha tại mộ Thánh Phêrô. Sự hiệp
nhất một cách thầm lặng đang nảy sinh trong Hội Thánh của Thiên Chúa; chúng tôi
tận mắt chứng kiến, và chúng tôi làm chứng cho điều đó trong niềm vui trọn vẹn.
"Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau" (Tv
133,1).
Theo
sự chỉ dẫn của Đức Thánh Cha, Hội nghị còn chứng kiến sự quy tụ của các thành
phần khác trong Dân Thiên Chúa bên cạnh và xung quanh các giám mục. Các giám
mục, hiệp nhất với nhau và với Giám mục Rôma, biểu lộ Giáo Hội như một sự hiệp
thông của các Giáo Hội địa phương. Giáo dân, tu sĩ nam nữ, phó tế và linh mục,
cùng với các giám mục, là những chứng nhân của một tiến trình có ý định liên
kết đến toàn thể Giáo Hội và mỗi người trong Giáo Hội. Sự hiện diện của họ nhắc
nhở chúng ta rằng Hội nghị không phải là một sự kiện đơn lẻ, nhưng là một phần
không thể thiếu và là một bước cần thiết của tiến trình hiệp hành. Sự đa dạng,
đa nguyên của các ý kiến và lập trường được bày tỏ trong Hội nghị cho thấy một
Giáo Hội đang học cách nắm lấy phong cách hiệp hành và đang tìm kiếm những cách
thức phù hợp nhất để thực hiện điều này.
Đã
hơn hai năm kể từ khi chúng ta bắt đầu hành trình dẫn đến Kỳ họp này. Sau khi
khai mạc tiến trình hiệp hành vào ngày 9 tháng 10 năm 2021, tất cả các Giáo
Hội, mặc dù với tốc độ khác nhau, đã tham gia vào một tiến trình lắng nghe ở
các giai đoạn giáo phận, quốc gia và lục địa, kết quả được ghi lại trong các
tài liệu tương ứng của họ. Kỳ họp này mở ra giai đoạn mà toàn thể Giáo Hội tiếp
nhận những kết quả tham vấn để phân định, qua cầu nguyện và đối thoại, con
đường mà Chúa Thánh Thần đang yêu cầu chúng ta tiến tới. Giai đoạn này sẽ kéo
dài đến tháng 10/2024, khi Kỳ họp thứ hai của Hội nghị sẽ hoàn tất công việc để
trình lên Đức Thánh Cha.
Toàn
bộ hành trình, phát xuất từ Truyền Thống của Giáo Hội, đang diễn ra dưới ánh
sáng của giáo huấn công đồng. Thật vậy, Công đồng Vatican II giống như một hạt
giống được gieo trên cánh đồng thế giới và Giáo Hội. Mảnh đất nơi hạt giống nảy
mầm và phát triển là đời sống hàng ngày của các tín hữu, kinh nghiệm của các
Giáo Hội của mọi dân tộc và nền văn hóa, những chứng tá về sự thánh thiện, và
những suy tư của các nhà thần học. Thượng Hội đồng 2021-2024 tiếp tục rút ra
năng lượng từ hạt giống đó và phát triển tiềm năng của nó. Thật vậy, con đường
hiệp hành là thực hiện những gì Công Đồng đã dạy về Giáo Hội như là Mầu Nhiệm
và Dân Thiên Chúa, được kêu gọi nên thánh. Đường lối này đánh giá cao sự đóng
góp của tất cả những người đã được rửa tội, theo ơn gọi tương ứng của họ, trong
việc giúp chúng ta hiểu rõ và thực hành Tin Mừng tốt hơn. Theo nghĩa này, đường
lối hiệp hành là một hành động tiếp nhận Công Đồng một cách chân chính, kéo dài
nguồn cảm hứng của Công Đồng và làm khơi dậy sức mạnh ngôn sứ cho thế giới ngày
nay.
Sau
một tháng làm việc, giờ đây Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi trở lại các Giáo Hội
của mình để trao lại cho tất cả anh chị em những kết quả của công việc và tiếp
tục cuộc hành trình cùng nhau. Ở đây tại Rôma, chúng tôi không có nhiều người,
nhưng mục đích của con đường hiệp hành được Đức Thánh Cha kêu gọi là liên kết
tất cả những người đã được rửa tội. Chúng tôi tha thiết mong muốn điều này xảy
ra và muốn cam kết biến nó thành hiện thực. Trong Báo cáo Tổng hợp này, chúng
tôi đã thu thập các yếu tố chính xuất hiện trong đối thoại, cầu nguyện và thảo
luận những ngày qua. Câu chuyện cá nhân của mỗi người sẽ làm phong phú thêm sự
tổng hợp này với bằng cách truyền đạt tổng hợp các kinh nghiệm, điều mà không
tài liệu nào có thể ghi lại đầy đủ. Do đó, chúng tôi sẽ có thể làm chứng tá cho
sự phong phú trong kinh nghiệm lắng nghe, thinh lặng, chia sẻ, và cầu nguyện.
Chúng tôi cũng sẽ chia sẻ rằng không dễ để lắng nghe những ý kiến khác nhau, mà
không ngay lập tức rơi vào cám dỗ muốn phản biện; hoặc đóng góp ý kiến như thể
làm ơn cho người khác chứ không phải điều gì đó tuyệt đối hoặc chắc chắn. Tuy
nhiên, ân sủng của Thiên Chúa đã giúp chúng tôi đạt được điều này, bất chấp
những giới hạn của mình, và điều này đối với chúng tôi là một kinh nghiệm thực
sự về tính hiệp hành. Thông qua việc thực hành, chúng tôi hiểu nó tốt hơn và
nắm bắt được giá trị của nó.
Thật
vậy, chúng tôi hiểu rằng việc cùng nhau bước đi như những người đã được rửa
tội, trong sự đa dạng về các đặc sủng, ơn gọi và công việc mục vụ, là điều quan
trọng không chỉ đối với các cộng đoàn của chúng ta, mà còn đối với cả thế giới.
Tình liên đới theo tinh thần Tin Mừng giống như một ngọn đèn, không nên đặt
dưới gầm bàn, mà phải đặt trên một giá đèn cho ánh sáng soi rọi khắp nhà (x. Mt
5,15).
Ngày
nay, thế giới cần chứng tá này hơn bao giờ hết. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng
ta không thể trốn tránh trách nhiệm minh chứng và truyền đạt tình yêu và lòng
nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại đầy tổn thương. Công việc của kỳ họp này
được tiến hành theo 'lộ trình' được đặt ra trong Tài Liệu Làm Việc, qua đó Hội
nghị có thể suy tư về các dấu chỉ đặc trưng của một Giáo Hội hiệp hành và các
động lực của sự hiệp thông, sứ mạng và sự tham gia mà nó chứa đựng. Chúng tôi
thảo luận về giá trị của các vấn đề, xác định những chủ đề cần nghiên cứu sâu
hơn và đưa ra một bộ đề xuất sơ bộ. Dựa trên những tiến bộ đã đạt được, Báo cáo
tổng hợp không lặp lại hay nhắc lại tất cả các nội dung của Tài Liệu Làm Việc;
thay vào đó, nó mang lại động lực mới cho những câu hỏi và chủ đề mà chúng tôi
đánh giá là cần ưu tiên. Đây không phải là một văn kiện cuối cùng, nhưng là
công cụ phục vụ cho sự phân định liên tục.
Báo
cáo tổng hợp được cấu trúc thành ba phần. Phần đầu tiên mô tả "diện mạo
của Giáo Hội hiệp hành", trình bày thực hành và hiểu biết về tính hiệp
hành cùng nền tảng thần học của nó. Ở đây, trước hết và quan trọng nhất, tính
hiệp hành được trình bày như một kinh nghiệm thiêng liêng bắt nguồn từ việc
chiêm niệm về Ba Ngôi và được thể hiện qua việc diễn đạt sự hiệp nhất và đa
dạng trong Giáo Hội. Phần thứ hai, mang tựa đề "Tất cả là môn đệ, tất cả
là các nhà thừa sai", đề cập đến tất cả những người tham gia vào đời sống
và sứ mạng của Giáo Hội cùng mối liên hệ giữa họ với nhau. Trong phần này, tính
hiệp hành chủ yếu được trình bày như một hành trình chung của Dân Thiên Chúa và
như một cuộc đối thoại hiệu quả giữa các đặc sủng và sứ mạng, phục vụ cho Nước
Trời ngự đến. Phần thứ ba mang tựa đề "Dệt nên liên kết, xây dựng cộng
đoàn". Ở đây, tính hiệp hành được trình bày chủ yếu như một tập hợp các
tiến trình và một mạng lưới các tổ chức cho phép sự trao đổi giữa các Giáo Hội
cũng như đối thoại với thế giới.
Trong
mỗi phần, các chương riêng biệt tập hợp lại các ý kiến được đúc kết, các vấn đề
cần xem xét và các đề nghị nảy sinh từ cuộc đối thoại. Đúc kết các ý kiến xác
định các nội dung cụ thể để định hướng suy tư, tựa như một bản đồ giúp chúng ta
định hướng lộ trình. Các vấn đề cần xem xét tóm tắt những khía cạnh cần thiết
cần tìm hiểu sâu hơn về mặt mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giống như
đang đứng ở ngã tư đường, nơi chúng ta cần phải tạm dừng lại để có thể hiểu rõ
hơn về phương hướng mà chúng ta cần phải đi. Các đề xuất chỉ ra những lộ trình
có thể đi theo. Một số được gợi ý, một số được khuyến khích, một số khác được
yêu cầu với sức mạnh và quyết tâm nhất định.
Trong
những tháng sắp tới, các Hội đồng Giám mục cũng như các cơ cấu phẩm trật của
các Giáo Hội Công giáo Đông phương, với vai trò là cầu nối giữa các Giáo Hội
địa phương và Ban thư ký Thượng Hội đồng, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát triển các suy tư của chúng ta. Xuất phát từ những điểm đúc kết ý kiến
đã đạt được, các tổ chức này được mời gọi tập trung vào những câu hỏi và đề
xuất được coi là cấp bách nhất. Họ được yêu cầu khuyến khích tìm hiểu các vấn
đề cả về mặt mục vụ và thần học, và chỉ ra những hệ luận của chúng về mặt giáo
luật.
Chúng
tôi mang trong lòng ước muốn, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, rằng bầu khí lắng
nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành mà chúng tôi đã trải nghiệm trong những
ngày làm việc chung ở Rôma sẽ tỏa sáng trong các cộng đồng của chúng ta và khắp
nơi trên toàn thế giới, để phục vụ cho sự lớn lên của hạt giống tốt lành của
Nước Thiên Chúa.
PHẦN
I:
DIỆN MẠO CỦA GIÁO HỘI HIỆP HÀNH
1. Tính hiệp hành: Kinh
nghiệm và sự hiểu biết
Đúc
kết các ý kiến
a) Chúng ta hoan nghênh lời
mời gọi nhận ra chiều kích hiệp hành của Giáo Hội với một ý thức mới. Thực hành
hiệp hành đã được chứng thực trong Tân Ước và Hội Thánh sơ khai, mang những
hình thức lịch sử cụ thể trong các Giáo Hội và truyền thống khác nhau. Công
đồng Vatican II "cập nhật" thực hành này, và Đức Thánh Cha Phanxicô
đã một lần nữa khuyến khích Giáo Hội đổi mới nó. Thượng Hội đồng 2021-2024 là
một phần của sự đổi mới này. Qua đó, Dân Thánh của Thiên Chúa đã khám phá ra
rằng một cách thức hiệp hành để thinh lặng, cầu nguyện, lắng nghe và lên tiếng,
bắt nguồn từ Lời Chúa và trong những cuộc gặp gỡ đầy niềm vui, dù đôi khi cũng
đau đớn, sẽ dẫn đến một nhận thức sâu sắc hơn rằng tất cả chúng ta đều là anh
chị em trong Đức Kitô. Một kết quả vô giá của tiến trình này là nâng cao nhận
thức về căn tính của chúng ta là Dân trung tín của Thiên Chúa, trong đó mỗi
người mang phẩm giá bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội, và mỗi người được mời gọi
tham gia đồng trách nhiệm khác nhau cho sứ mạng chung của việc loan báo Tin
Mừng.
b) Tiến trình này đã đổi
mới kinh nghiệm và khát vọng của chúng ta đối với Giáo Hội như là ngôi nhà và
gia đình của Thiên Chúa, một Giáo Hội gần gũi hơn với đời sống của Dân Chúa, ít
quan liêu hơn và trở nên hòa đồng gắn kết hơn. Các thuật ngữ "tính hiệp
hành" và "hiệp hành" đã được gắn liền với kinh nghiệm và khát
vọng này, mang lại một hiểu biết mà giờ đây đòi hỏi phải được làm sáng tỏ thêm.
Đây chính là Giáo Hội mà những người trẻ tuổi đã tuyên bố họ mong muốn vào năm
2018 nhân dịp Thượng Hội đồng về Giới trẻ.
c) Cách thức mà Hội nghị
diễn ra trong Hội trường Phaolô VI, kể cả việc bố trí chỗ ngồi cho mọi người
thành các nhóm nhỏ quanh các bàn tròn, đối với một số nền văn hóa đã được ví
như hình ảnh của tiệc cưới trong Kinh Thánh (Kh 19,9). Điều này được hiểu như
là biểu trưng cho cách thức tồn tại theo kiểu hiệp hành của Giáo Hội và một
hình ảnh Thánh Thể, là nguồn mạch và đỉnh cao của tính hiệp hành, với Lời Chúa
ở trung tâm. Trong một Giáo Hội sống theo tinh thần hiệp hành, các nền văn hóa,
ngôn ngữ, nghi lễ, cách suy nghĩ, và các thực tại khác nhau có thể cùng nhau
tham gia một cách hiệu quả vào việc chân thành tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần.
d) Trong Hội nghị của chúng
tôi, có sự hiện diện của anh chị em đến từ các vùng đất bị tàn phá bởi chiến
tranh, chịu tử đạo, bị bách hại và nạn đói kém dày vò. Mặc dù đa số người dân
của họ không thể thường xuyên tham gia vào tiến trình hiệp hành nhưng hoàn cảnh
khó khăn của họ đã trở thành một phần trong chu trình thảo luận và cầu nguyện
của chúng tôi, làm sâu sắc thêm ý thức hiệp thông của chúng tôi với họ và quyết
tâm của chúng ta để trở thành những người kiến tạo hòa bình.
e) Hội nghị thường xuyên
nói về hy vọng, chữa lành, hòa giải và phục hồi lòng tin là những hồng ân mà
Chúa Thánh Thần đã tuôn đổ trên Giáo Hội trong tiến trình hiệp hành này. Việc
cởi mở lắng nghe và đồng hành với tất cả mọi người, kể cả những ai đã phải chịu
lạm dụng và tổn thương trong Giáo Hội, khiến nhiều người từ lâu cảm thấy bị bỏ
rơi nay được chú ý tới. Hành trình dài hướng tới hòa giải và công lý, bao gồm
việc giải quyết các yếu tố cấu trúc tiếp tay cho sự lạm dụng như vậy, vẫn còn
phía trước chúng ta và đòi hỏi những hành động sám hối cụ thể.
f) Chúng ta biết rằng
"tính hiệp hành " là một thuật ngữ xa lạ với nhiều thành phần Dân
Chúa, gây ra một số sự nhầm lẫn và lo ngại. Trong số những nỗi sợ hãi được bày
tỏ, có lo lắng rằng giáo huấn của Giáo Hội sẽ bị thay đổi, khiến chúng ta rời
xa đức tin Tông truyền của các lớp tiền nhân và do đó, thất bại trong việc đáp
ứng nhu cầu của những ai đói khát Thiên Chúa ngày nay. Tuy nhiên, chúng tôi tin
tưởng rằng tính hiệp hành là một biểu hiện của Truyền thống năng động và sống
động.
g) Không phủ nhận tầm quan
trọng của nền dân chủ đại diện, Đức Thánh Cha Phanxicô đáp lại mối quan ngại
của một số người rằng Thượng Hội đồng có thể trở thành một cơ quan ra quyết
định theo đa số, tước đi đặc tính Giáo Hội và thiêng liêng của nó, do đó gây
nguy hiểm cho bản chất phẩm trật của Giáo Hội. Rõ ràng là một số người sợ họ bị
buộc phải thay đổi; những người khác lo sợ sẽ không có gì thay đổi cả hoặc
không đủ can đảm để để tiến nhanh theo tốc độ của Truyền thống sống động. Ngoài
ra, sự bối rối và phản đối đôi khi có thể che giấu nỗi sợ mất quyền lực và đặc
quyền đi kèm. Tuy nhiên, trong mọi bối cảnh văn hóa, các thuật ngữ "hiệp
hành" và "Tính hiệp hành" nói lên cách thức hiện hữu của Giáo
Hội tích hợp sự hiệp thông, sứ mạng, và tham gia. Một ví dụ là Hội nghị Giáo
Hội Amazon (CEAMA), một hoa trái của tiến trình hiệp hành trong khu vực.
h) Theo nghĩa rộng nhất,
tính hiệp hành có thể được hiểu là các Kitô hữu bước đi trong sự hiệp thông với
Chúa Kitô hướng về Nước Trời cùng với toàn thể nhân loại. Định hướng của nó là
hướng tới sứ mạng và việc thực hành của nó liên quan đến việc quy tụ trong các
hội nghị ở mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Nó liên quan đến lắng nghe lẫn
nhau, đối thoại, phân định cộng đoàn và tạo ra sự đồng thuận như một cách thế
diễn tả Đức Kitô hiện diện trong Chúa Thánh Thần, mỗi người đưa ra quyết định
phù hợp với trách nhiệm của mình.
i) Thông qua kinh nghiệm và
những cuộc gặp gỡ, chúng ta đã cùng nhau lớn lên trong nhận thức này. Tóm lại,
ngay từ những ngày đầu tiên, Hội nghị đã được định hình bởi hai xác tín: thứ
nhất là kinh nghiệm chúng ta đã chia sẻ trong suốt những năm qua là một trải
nghiệm đích thực của Kitô giáo và nên được đón nhận đầy đủ trong sự phong phú
và sâu sắc của nó; thứ hai là các thuật ngữ "hiệp hành" và "tính
hiệp hành" đòi hỏi phải làm rõ chính xác hơn các cấp độ ý nghĩa của chúng
trong các nền văn hóa khác nhau. Sự đồng thuận cơ bản đã xuất hiện, với sự làm
sáng tỏ cần thiết, tính hiệp hành đại diện cho tương lai của Giáo Hội.
Các
vấn đề cần xem xét
j) Dựa trên nền tảng công
việc suy tư đã được tiến hành, cần làm rõ ý nghĩa của tính hiệp hành ở các cấp
độ khác nhau, về khía cạnh mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giúp tránh
nguy cơ khái niệm hiệp hành nghe có vẻ quá mơ hồ hoặc chung chung hoặc xuất
hiện như một mốt nhất thời hoặc xu hướng chóng qua. Nó cho phép chúng ta đề
xuất một sự hiểu biết rộng rãi về việc đồng hành cùng nhau với sự tìm hiểu sâu
sắc hơn và làm sáng tỏ về mặt thần học hơn nữa. Tương tự, cần phải làm rõ mối
liên hệ giữa tính hiệp hành và hiệp thông cũng giữa tính hiệp hành và tính hiệp
đoàn (collegiality).
k) Một mong muốn nảy sinh
nhằm tăng cường sự hiểu biết và đánh giá cao những khác biệt trong thực hành và
hiểu biết về tính hiệp hành giữa truyền thống của Kitô giáo Đông phương và
truyền thông Latinh, kể cả trong tiến trình hiệp hành đang diễn ra này, bằng
cách thúc đẩy các cuộc gặp gỡ giữa hai truyền thống.
l) Đặc biệt, cần cân nhắc
để suy tư sâu hơn về nhiều cách biểu hiện đời sống hiệp hành trong bối cảnh văn
hóa nơi người ta quen với việc cùng cùng nhau bước đi như một cộng đồng gắn kết
và nơi mà chủ nghĩa cá nhân chưa bén rễ. Theo cách này, thực hành hiệp hành
đóng một vai trò quan trọng trong phản ứng mang tính ngôn sứ của Giáo Hội đối
với chủ nghĩa cá nhân khiến con người quay vào bản thân, chủ nghĩa dân túy chia
rẽ, và toàn cầu hóa đồng nhất và san bằng mọi thứ. Mặc dù không giải quyết được
những vấn đề này, nó vẫn cung cấp một cách thức hiện hữu và hành động khác cho
thời đại của chúng ta, kết hợp đa dạng các quan điểm khác nhau. Đây là một giải
pháp thay thế đầy hy vọng cần được khám phá và làm sáng tỏ thêm.
Đề
nghị
m) Sự phong phú và sâu sắc
của tiến trình hiệp hành cho thấy giá trị của việc mở rộng sự tham gia, và vượt
qua những trở ngại để tham gia đã xuất hiện cho đến nay.
n) Cần phải tìm cách mời
gọi hàng giáo sĩ (phó tế, linh mục, giám mục) tham gia tích cực hơn vào tiến
trình hiệp hành trong suốt năm tới. Một Giáo Hội hiệp hành không thể thiếu
tiếng nói, kinh nghiệm hay sự đóng góp của họ. Chúng ta cần hiểu rõ hơn lý do
tại sao một số người có cảm thấy kháng cự lại tiến trình hiệp hành.
o) Văn hóa hiệp hành cần
phải trở nên liên thế hệ hơn, với những không gian cho người trẻ được nói lên
tiếng nói của mình một cách tự do, trong gia đình, với bạn bè và cha xứ của họ,
bao gồm cả việc thông qua các kênh truyền thông kỹ thuật số.
p) Hội nghị đề nghị thúc
đẩy việc tìm hiểu sâu hơn về khái niệm và thực hành tính hiệp hành trước kỳ họp
thứ hai trên phương diện thần học, dựa trên di sản phong phú của nghiên cứu
thần học kể từ Công đồng Vatican II và đặc biệt là các tài liệu của Ủy ban Thần
học Quốc tế về tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội (2018) và
Sensus fidei - cảm thức đức tin - trong đời sống Giáo Hội (2014).
q) Các hệ quả về mặt giáo
luật của tính hiệp hành cũng cần được làm sáng tỏ cách tương tự. Đối với những
điều này, chúng tôi cũng đề xuất thành lập một ủy ban đặc biệt liên lục địa gồm
các chuyên gia thần học và giáo luật, trước Kỳ họp thứ hai của Đại hội.
r) Cuối cùng, việc sửa đổi
rộng rãi hơn Bộ Giáo Luật và Bộ Giáo Luật của các Giáo Hội Phương Đông Các nhà
thờ được đề xuất vào thời điểm này. Do đó, cần có một nghiên cứu sơ bộ.
2. Được quy tụ và được sai đi
bởi Ba Ngôi Thiên Chúa
Đúc
kết các ý kiến
a) Theo giáo huấn của Công
đồng Vatican II, Giáo Hội là "một dân được quy tụ lại với nhau nhờ sự hiệp
nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (LG 4). Chúa Cha, qua sứ
mạng của Chúa Con và ơn huệ của Chúa Thánh Thần, liên kết chúng ta vào một động
lực hiệp thông và sứ mạng đưa chúng ta đi từ cái "tôi" đến cái
"chúng ta" và đặt chúng ta phục vụ thế giới. Tính hiệp hành diễn tả
diễn tả động lực Ba Ngôi mà qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại thành các
thái độ tâm linh và các tiến trình của Giáo Hội. Để điều này xảy ra, điều cần
thiết là tất cả những người đã được rửa tội phải cam kết thực thi ơn gọi, đặc
sủng và sứ mạng của họ. Chỉ bằng cách này, Giáo Hội mới có thể thực sự trở
thành một "cuộc đối thoại" (x. Ecclesiam suam, số 67) bên trong chính
mình và với thế giới bên ngoài, bước đi bên cạnh mọi con người theo phong cách
của Chúa Giêsu.
b) Ngay từ đầu, hành trình
hiệp hành của Giáo Hội hướng tới Nước Trời, một hành trình sẽ được hoàn thành
trọn vẹn khi Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự. Chứng tá của tình huynh đệ Giáo
Hội và sự tận hiến thừa sai để phục vụ những người bé mọn nhất sẽ không bao giờ
sánh được với Mầu nhiệm mà chúng cũng là một dấu chỉ và công cụ. Giáo Hội không
suy tư về cấu trúc hiệp hành để đặt mình vào trung tâm của việc rao giảng, mà
là để thực hiện tốt nhất công việc phục vụ cho sự ngự đến của Nước Trời, thậm
chí trong sự bất toàn vốn có của mình.
c) Việc canh tân cộng đồng
Kitô hữu chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhận ra tính chủ đạo của ân sủng.
Nếu thiếu độ sâu về chiều kích thiêng liêng, tính hiệp hành sẽ chỉ còn là hình
thức. Tuy nhiên, điều chúng ta được kêu gọi không chỉ là chuyển tải các kinh
nghiệm thiêng liêng đạt được ở nơi khác thành các quy trình cho cộng đoàn, mà
còn sâu xa hơn, là để trải nghiệm các mối quan hệ hỗ tương là nơi chốn và hình
thức của một cuộc gặp gỡ chân thật với Thiên Chúa. Theo nghĩa này, trong khi
dựa trên di sản tinh thần phong phú của Truyền thống, quan điểm hiệp hành góp
phần đổi mới các hình thức của nó: lời cầu nguyện mở ra cho sự tham gia, sự
phân định được thực hiện cùng nhau, và năng lượng truyền giáo phát sinh từ việc
chia sẻ và tỏa sáng dưới hình thức phục vụ.
d) Đối thoại trong Thần Khí
là một công cụ nhưng cho phép lắng nghe chân thành để phân định những gì Chúa
Thánh Thần đang nói với các Giáo Hội. Việc thực hành đối thoại đã đem lại niềm
vui, sự ngỡ ngàng và lòng biết ơn và đã được trải nghiệm như một con đường canh
tân biến đổi các cá nhân, các nhóm và Giáo Hội. Từ "đối thoại" diễn
tả nhiều hơn là nói chuyện đơn thuần: nó đan xen suy nghĩ và cảm xúc, tạo ra
một không gian sống chung được chia sẻ. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói
rằng sự hoán cải đang diễn ra trong cuộc đối thoại. Đây là một thực tại nhân
chủng học được tìm thấy trong các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, những người
tập trung lại với nhau trong tình đoàn kết để giải quyết và quyết định các vấn
đề quan trọng đối với cộng đồng. Ân sủng làm trọn vẹn kinh nghiệm nhân loại
này. Đối thoại "trong Thần Khí" có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ
trong ánh sáng đức tin và tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa trong một bầu khí Tin
Mừng đích thực nơi tiếng nói không thể nhầm lẫn của Chúa Thánh Thần có thể được
nghe thấy.
e) Vì tính hiệp hành được
hướng đến sứ mạng, nên các cộng đồng Kitô hữu phải tham gia vào tình liên đới
với những người thuộc các tôn giáo, niềm tin và văn hóa khác, do đó tránh, một
mặt, nguy cơ tự quy chiếu và tự bảo tồn, và mặt khác, nguy cơ mất đi bản sắc.
Logic của đối thoại, được diễn tả trong việc học hỏi lẫn nhau và cùng đồng hành
phải trở thành đặc trưng của việc loan báo Tin Mừng, phục vụ những người nghèo
khó, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và nghiên cứu thần học.
Các
vấn đề cần xem xét
f) Để thực hiện sự lắng
nghe thực sự ý muốn của Chúa Cha, cần phải làm sâu sắc thêm các tiêu chí phân
định của Giáo Hội từ góc độ thần học để việc tham chiếu đến sự tự do và tính
mới mẻ của Chúa Thánh Thần được phối hợp một cách thích hợp với thực tế rằng
Chúa Giêsu Kitô đến "một lần là đủ" (Hr 10,10). Trước hết, điều này
ngụ ý xác định mối liên hệ giữa việc lắng nghe Lời Chúa được chứng thực trong
Thánh Kinh, việc tiếp nhận Truyền thống và Huấn Quyền của Giáo Hội, và việc đọc
các dấu chỉ của thời đại.
g) Để đạt được mục tiêu
này, điều quan trọng là phải thúc đẩy các tầm nhìn nhân học và thiêng liêng có
khả năng tích hợp và không chỉ đơn thuần đặt cạnh nhau các chiều kích trí tuệ
và cảm xúc của kinh nghiệm đức tin, vượt qua bất kỳ khuynh hướng giản lược và
nhị nguyên giữa lý trí và cảm xúc.
h) Quan trọng là phải làm
sáng tỏ cách thức cuộc đối thoại trong Thần Khí có thể tích hợp những đóng góp
của tư tưởng thần học và khoa học xã hội và nhân văn, cùng các mô hình phân
định khác của Giáo Hội được sử dụng như cách tiếp cận "quan sát, phán
đoán, hành động" hoặc các bước "nhận ra, giải thích, lựa chọn".
i) Những đóng góp mà Lectio
Divina và các truyền thống linh đạo khác nhau, cổ xưa và gần đây, có thể cung
cấp cho việc thực hành phân định nên được phát triển. Thật vậy, thật thích hợp
để đánh giá cao sự đa dạng của các hình thức và phong cách, phương pháp và tiêu
chí mà Chúa Thánh Thần đã gợi ý qua nhiều thế kỷ và là một phần của di sản
thiêng liêng của Giáo Hội.
Các
đề xuất
k) Đề xuất rằng các Giáo
Hội nên thử nghiệm và điều chỉnh việc đối thoại trong Thần Khí, cũng các hình
thức phân định khác theo cách mà họ coi là phù hợp, lấy cảm hứng từ nhiều
truyền thống tâm linh đa dạng liên quan đến nhu cầu và văn hóa của các bối cảnh
cụ thể. Các hình thức đồng hành thích hợp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
thực hành này, giúp nắm bắt logic của nó và vượt qua những kháng cự có thể xảy
ra.
l) Mỗi Giáo Hội địa phương
được khuyến khích trang bị cho mình những người thích hợp được đào tạo để hỗ
trợ và đồng hành trong các quá trình phân định của Giáo Hội.
m) Để làm sáng tỏ đời sống
Giáo Hội, việc thực hành phân định có thể được áp dụng một cách hữu ích trong
lĩnh vực mục vụ, theo cách thức phù hợp với từng bối cảnh. Điều này sẽ làm cho
chúng ta có thể dễ dàng nhận ra các đặc sủng hiện diện trong cộng đoàn, để ủy
thác các nhiệm vụ và sứ mạng một cách khôn ngoan. Vượt qua việc chỉ lên kế
hoạch hoạt động đơn thuần, chúng ta sẽ có thể hoạch định những lộ trình mục vụ
trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
3. Gia nhập cộng đồng Đức
tin: Khai tâm Kitô giáo
Đúc
kết các ý kiến
a) Khai tâm Kitô giáo là
cuộc hành trình mà Thiên Chúa, qua thừa tác vụ của Giáo Hội, giới thiệu chúng
ta nhận biết đức tin Phục sinh và mở lối cho chúng ta bước vào sự hiệp thông
mang chiều kích Ba Ngôi và Giáo Hội. Cuộc hành trình này có nhiều hình thức
khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi bắt đầu và những điểm nhấn khác nhau đặc trưng
của truyền thống phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, việc lắng nghe Lời Chúa
và hoán cải đời sống, cử hành phụng vụ và sự tham gia vào cộng đoàn cùng với sứ
mạng của nó luôn gắn bó với nhau. Chính vì lý do này, hành trình dự tòng với sự
tiệm tiến của các giai đoạn và bước đi, là mô hình cho mọi kinh nghiệm của Giáo
Hội về việc cùng nhau bước đi.
b) Việc khai tâm đưa chúng
ta tiếp xúc với rất nhiều ơn gọi và thừa tác vụ trong Giáo Hội. Tất cả những
điều này diễn tả khuôn mặt từ mẫu của Giáo Hội, một chứng tá thực tế dạy con
cái mình bước đi bằng cách bước đi với chúng. Giáo Hội lắng nghe mọi thành phần
và, khi trả lời những nghi ngờ và câu hỏi của họ, Giáo Hội được làm phong phú
bởi sự mới mẻ mà mỗi người mang lại qua lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của họ.
Qua hoạt động mục vụ này, cộng đoàn Kitô hữu gặp gỡ tính hiệp hành lần đầu
tiên, mà thường không hoàn toàn ý thức được điều đó.
c) Trước bất kỳ sự phân
biệt nào về đặc sủng và thừa tác vụ, "tất cả chúng ta đều được rửa tội bởi
một Thánh Thần để trở thành một thân thể" (1Cr 12,13). Do đó, giữa tất cả
những người đã được rửa tội, có một sự bình đẳng thực sự về phẩm giá và trách
nhiệm chung đối với sứ mạng, tùy theo ơn gọi của mỗi người. Nhờ sự xức dầu của
Chúa Thánh Thần, Đấng " dạy mọi sự" (1Ga 2,27), tất cả các tín hữu
đều có một bản năng tiếp nhận sự thật của Tin Mừng, cảm thức đức tin. Điều này
bao gồm một sự đồng nhất tự nhiên nào đó với các thực tại thiêng liêng và khả
năng nắm bắt những gì phù hợp với chân lý đức tin bằng trực giác. Các tiến
trình hiệp hành làm tăng cường hồng ân này, cho phép sự đồng thuận của các tín
hữu (consensus fidelium) được xác nhận. Tiến trình này cung cấp một tiêu chuẩn
chắc chắn để xác định xem một học thuyết hay thực hành cụ thể có thuộc về đức
tin tông truyền hay không.
d) Ân sủng của Lễ Hiện
Xuống vẫn hiện hữu trong Giáo Hội qua Bí Tích Thêm Sức. Nó làm phong phú các
tín hữu với sự dồi dào của các ân huệ của Chúa Thánh Thần. Nó kêu gọi họ phát
triển ơn gọi riêng biệt của họ, bắt nguồn từ phẩm giá của bí tích rửa tội mà họ
đã lãnh nhận, trong sứ mạng truyền giáo. Tầm quan trọng của nó đòi hỏi phải
được nhấn mạnh nhiều hơn và cần được đặt trong mối quan hệ với sự đa dạng của
các ân sủng và thừa tác vụ tạo nên diện mạo hiệp hành của Giáo Hội.
e) Việc cử hành Thánh Thể,
đặc biệt là vào Chúa Nhật, là hình thức đầu tiên và cơ bản mà qua đó Dân Thánh
của Thiên Chúa quy tụ và gặp gỡ nhau. Khi điều này không thể thực hiện được,
cộng đoàn vẫn quy tụ lại để cử hành Phụng vụ Lời Chúa. Trong Thánh Thể, chúng
ta cử hành mầu nhiệm ân sủng được ban cho chúng ta. Bằng cách kêu gọi chúng ta
tham dự vào Mình và Máu của Người, Thiên Chúa biến chúng ta thành một thân thể,
với nhau và với chính Người. Bắt đầu với việc Thánh Phaolô sử dụng thuật ngữ
koinonia (x. 1Cr 10,16-17), truyền thống Kitô giáo đã trân trọng từ "hiệp
thông" để chỉ sự tham gia đầy đủ vào Bí tích Thánh Thể, và bản chất của
các mối quan hệ giữa các tín hữu và giữa các Giáo Hội. Trong khi nó mở ra cho
chúng ta sự suy ngắm về đời sống thiêng liêng, đến chiều sâu khôn lường của mầu
nhiệm Ba Ngôi, thuật ngữ này cũng đề cập đến 'tính thường nhật' trong các mối
quan hệ của chúng ta: trong những cử chỉ đơn giản nhất mà qua đó chúng ta mở
lòng ra cho nhau, hơi thở của Chúa Thánh Thần thực sự thổi nơi đây. Đó là lý do
tại sao sự hiệp thông, xuất phát từ Bí tích Thánh Thể và được cử hành trong đó,
định hình và hướng dẫn con đường hiệp hành.
f) Từ Thánh Thể, chúng ta
học cách nói rõ sự hiệp nhất và đa dạng: sự hiệp nhất của Giáo Hội và sự đa
dạng của các cộng đồng Kitô hữu; sự hiệp nhất của mầu nhiệm bí tích và sự đa
dạng của các truyền thống phụng vụ; sự hiệp nhất của việc cử hành và đa dạng
các ơn gọi, đặc sủng và các thừa tác vụ. Không có gì cho thấy rõ hơn Thánh Thể
rằng sự hài hòa được tạo ra bởi Chúa Thánh Thần không phải là sự đồng nhất và
mọi hồng ân của Giáo Hội đều nhằm mục đích xây dựng chung.
Các
vấn đề cần xem xét
g) Bí tích Rửa tội không
thể được hiểu một cách riêng lẻ hoặc bên ngoài logic của việc khai tâm Kitô
giáo, cũng không thể được hiểu theo cách cá nhân chủ nghĩa. Do đó, chúng ta cần
khám phá thêm về sự đóng góp mà một quan điểm thống nhất hơn về việc khai tâm
Kitô giáo có thể mang lại cho sự hiểu biết về tính hiệp hành.
h) Việc thực hành một cách
chín chắn cảm thức đức tin (sennsus fidei) không chỉ đòi hỏi việc lãnh nhận Bí
tích Rửa tội mà còn là một đời sống trong vai trò môn đệ chân chính để phát
triển ân sủng của Bí tích Rửa tội. Điều này cho phép chúng ta phân biệt hành
động của Chúa Thánh Thần với các hình thức tư duy hoặc điều kiện văn hóa thịnh
hành, hoặc với những vấn đề không phù hợp với Tin Mừng. Hiểu được việc thực
hành cảm thức đức tin phải được đào sâu với suy tư thần học phù hợp.
i) Suy tư về tính hiệp hành
có thể mang lại cái nhìn mới mẻ về Bí tích Thêm sức, qua đó ân sủng của Chúa
Thánh Thần thể hiện sự đa dạng của các ơn huệ và đặc sủng trong sự hài hòa của
Lễ Hiện Xuống. Dựa trên các kinh nghiệm khác nhau của Giáo Hội, cần phải cân
nhắc những cách thức để làm cho việc chuẩn bị và cử hành Bí Tích này trở nên
hiệu quả hơn, để đánh thức nơi tất cả các tín hữu lời mời gọi xây dựng cộng
đoàn, sứ mạng truyền giáo trên thế giới và làm chứng cho đức tin.
j) Về mặt thần học mục vụ,
điều quan trọng là phải tiếp tục nghiên cứu xem làm thế nào con đường dự tòng
có thể truyền cảm hứng cho các con đường mục vụ khác, chẳng hạn như việc chuẩn
bị hôn nhân, hoặc đồng hành trong việc lựa chọn các cam kết nghề nghiệp và xã
hội, hoặc đào tạo cho chức thánh, trong đó toàn thể cộng đoàn Giáo Hội cần tham
gia.
Các
đề xuất
k) Nếu Thánh Thể định hình
tính hiệp hành, thì bước đầu tiên chúng ta nên thực hiện là cử hành Thánh Lễ
theo cách xứng đáng với ân sủng, với một ý nghĩa đích thực về tình bằng hữu
trong Đức Kitô. Phụng vụ được cử hành với tính xác thực là trường học đầu tiên
và cơ bản của vai trò người môn đệ. Vẻ đẹp và sự đơn giản của nó nên huấn luyện
chúng ta trước bất kỳ chương trình đào tạo chính thức nào khác.
l) Bước thứ hai đề cập đến
nhu cầu rộng rãi được báo cáo là cần làm cho ngôn ngữ phụng vụ dễ tiếp cận hơn
với các tín hữu và thể hiện sâu sắc hơn trong sự đa dạng văn hóa. Mà không đặt
câu hỏi về sự liên tục với truyền thống và nhu cầu đào tạo phụng vụ tốt hơn,
cần có suy tư sâu sắc hơn. Các Hội đồng Giám mục nên được ủy thác trách nhiệm
rộng rãi hơn trong vấn đề này, theo Motu Proprio Magnum principium.
m) Bước thứ ba bao gồm cam
kết mục vụ nhằm mở rộng việc cầu nguyện cộng đoàn vượt ra ngoài việc cử hành
Thánh lễ. Các hình thức cầu nguyện phụng vụ thay thế, cũng như các thực hành
lòng đạo đức bình dân, trong đó phản ánh sự khác biệt của các nền văn hóa địa
phương, là những yếu tố có tầm quan trọng lớn trong việc thúc đẩy sự tham gia
của tất cả các tín hữu. Chúng giới thiệu các tín hữu với mầu nhiệm Kitô giáo và
đưa những người ít quen thuộc với Giáo Hội đến gần hơn với cuộc gặp gỡ với
Thiên Chúa. Trong số các hình thức đạo đức bình dân, lòng sùng kính Đức Mẹ nổi
bật vì khả năng nuôi dưỡng và bồi đắp đức tin của nhiều người.
4. Người nghèo, những chủ thể
trong hành trình của Giáo Hội
Đúc
kết các ý kiến
a) Người nghèo mong đợi từ
Hội Thánh tình yêu thương. Yêu thương đồng nghĩa với tôn trọng, chấp nhận và
ghi nhận vai trò của họ trong lòng Giáo Hội. Nếu thiếu vắng yêu thương, mọi
việc hỗ trợ thực phẩm, tiền bạc hoặc các dịch vụ xã hội tuy là quan trọng nhưng
chưa đủ, cần phải xem xét đến phẩm giá con người và đối xử tôn trọng họ. Mỗi
người cần được trao quyền để tự quyết định phương thức phát triển của riêng
mình hơn là trở thành đối tượng của hoạt động từ thiện của người khác. Được
công nhận và tôn trọng là những cách mạnh mẽ giúp họ có thể thực hiện điều này.
b) Sự lựa chọn ưu tiên cho
người nghèo được ngầm hiểu trong đức tin Kitô giáo là: Chúa Giêsu, một người
nghèo và khiêm nhường, kết bạn với những người nghèo khó, ngồi chung bàn với họ
và lên án những nguyên nhân của nghèo đói. Đối với Giáo Hội, lựa chọn ưu tiên
cho người nghèo và những người bị gạt ra bên lề là một phạm trù thần học trước
khi trở thành một phạm trù văn hóa, xã hội, chính trị hoặc triết học. Đối với
Thánh Gioan Phaolô II, Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài trước nhất cho
người nghèo. Sự ưu tiên này có hệ quả đối với đời sống của tất cả các Kitô hữu,
những người được kêu gọi nuôi dưỡng "cùng một tâm trí ... như Chúa Giêsu
Kitô" (Pl 2,5).
c) Cái nghèo không chỉ có
một dạng duy nhất. Trong số nhiều khuôn mặt của những người nghèo, có những
người thiếu những thứ họ cần để sống một cuộc sống có phẩm giá. Ngoài ra còn có
di dân và người tị nạn; người bản địa, các dân tộc gốc và hậu duệ gốc châu Phi;
những người bị bạo lực và lạm dụng, đặc biệt là phụ nữ; những người nghiện
ngập; các nhóm thiểu số bị từ chối quyền lên tiếng một cách có hệ thống; người
già bị bỏ rơi; nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, bóc lột và buôn người, đặc
biệt là trẻ vị thành niên; lao động bị bóc lột; những người bị loại trừ về kinh
tế, và những người sống ở ngoài lề xã hội. Những người yếu thế nhất trong số
những người yếu thế, mà thay mặt họ cần có sự ủng hộ không ngừng, bao gồm thai
nhi và mẹ của chúng. Hội nghị lắng nghe tiếng kêu của "người nghèo
mới", gây nên bởi các cuộc chiến tranh và khủng bố gieo rắc tai họa cho
nhiều quốc gia trên nhiều châu lục, và chúng tôi lên án các hệ thống chính trị
và kinh tế tham nhũng gây ra xung đột như vậy.
d) Bên cạnh các hình thức
nghèo đói vật chất, nhiều người cũng trải qua sự nghèo đói về tinh thần, được
hiểu là thiếu ý nghĩa của cuộc sống. Sự lo lắng quá mức về bản thân có thể dẫn
đến việc coi người khác là mối đe dọa, từ đó khiến chúng ta lại càng quay vào
bản thân mình, biểu hiện một loại chủ nghĩa cá nhân. Khi người nghèo về tinh
thần và vật chất gặp gỡ nhau, họ bắt đầu một cuộc hành trình hướng tới việc tìm
kiếm câu trả lời cho nhu cầu của nhau. Đây là một cách đồng hành cùng nhau làm
cho viễn cảnh của Giáo Hội hiệp hành trở nên cụ thể, sẽ cho chúng ta thấy đầy
đủ ý nghĩa trọn vẹn nhất của mối phúc Tin Mừng, "Phúc thay ai có tâm hồn
nghèo khó" (Mt 5,3).
e) Đứng cùng những người
nghèo đòi hỏi chúng ta phải tham gia với họ trong việc chăm sóc ngôi nhà chung
của chúng ta: tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của những người sống trong
cảnh nghèo đói là cùng một tiếng kêu. Sự thiếu hồi đáp cho tiếng kêu này làm
cho cuộc khủng hoảng sinh thái, và đặc biệt là biến đổi khí hậu, trở thành mối
đe dọa đối với sự tồn vong của nhân loại. Tông huấn Laudate Deum, được Đức Giáo
Hoàng Phanxicô công bố vào đúng thời điểm khai mạc công việc của Thượng Hội
đồng, đã nhấn mạnh điều này. Giáo Hội ở các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất từ hậu quả của biến đổi khí hậu hiểu rõ nhu cầu cấp bách phải thay đổi
hướng đi, và đây là đóng góp của họ cho hành trình của các Giáo Hội địa phương
khác ở nhiều nơi trên thế giới.
f) Cam kết của Giáo Hội
phải nhắm vào nguyên nhân của nghèo đói và loại trừ. Điều này bao gồm các hành
động để bảo vệ quyền của những người bị loại trừ, và có thể đòi hỏi sự lên án
công khai những bất công, cho dù gây ra bởi các cấu trúc xã hội hay bởi các cá
nhân, tập đoàn hoặc chính phủ. Điều cần thiết để lắng nghe tiếng nói của người
nghèo là lắng nghe đòi hỏi và quan điểm của họ, và sử dụng ngôn ngữ của chính
họ.
g) Các Kitô hữu có bổn phận
cam kết tham gia tích cực vào việc xây dựng thiện ích chung và bảo vệ phẩm giá
sự sống, lấy cảm hứng từ học thuyết xã hội của Giáo Hội và hợp tác theo nhiều
cách thức khác nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự,
công đoàn, các phong trào bình dân, các hiệp hội cơ sở, trong lĩnh vực chính
trị, v.v. Giáo Hội vô cùng biết ơn họ. Cộng đồng có bổn phận hỗ trợ những người
làm việc trong các lĩnh vực này trong tinh thần bác ái và phục vụ chân thành.
Hành động của họ là một phần trong sứ mạng của Giáo Hội để loan báo Tin Mừng và
để Nước Trời mau trị đến.
h) Cộng đồng Kitô hữu gặp
gỡ dung mạo và thân xác của Đức Kitô, Đấng, mặc dù giàu có, nhưng đã trở nên
nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của
Người (x. 2Cr 8,9). Hội Thánh được kêu gọi không chỉ gần gũi với người nghèo,
mà còn học hỏi từ họ. Nếu hiệp hành có nghĩa là đồng hành cùng với Đấng là
Đường, thì một Giáo Hội hiệp hành cần đặt những người đang trải qua nghèo đói
vào trung tâm của mọi khía cạnh của đời sống: qua những đau khổ của họ, họ có
sự kinh nghiệm trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (x. Evangelii gaudium, số 198).
Sự giống nhau của cuộc sống của họ với cuộc sống của Chúa làm cho những người
nghèo là những sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một ơn huệ và làm chứng
cho niềm vui của Tin Mừng.
Các
vấn đề cần xem xét
i) Ở một số nơi trên thế
giới, Giáo Hội nghèo khó, sống cùng với những người nghèo khó, và vì những
người nghèo khó. Có một nguy cơ thường trực, một nguy cơ cần hết sức tránh, khi
nhìn nhận những người sống trong nghèo đói theo cách phân biệt "họ"
và "chúng ta", như những "đối tượng" của đức ái của Giáo
Hội. Đặt những người đang trải qua nghèo đói vào trung tâm và học hỏi từ họ là
điều mà Giáo Hội phải làm ngày càng nhiều hơn.
j) Một mặt, việc lên tiếng
mang tính ngôn sứ về các tình huống bất công, và những nỗ lực thuyết phục các
nhà hoạch định chính sách hành động vì lợi ích chung, cần phải sử dụng ngoại
giao, mặt khác, phải được duy trì trong một sự căng thẳng năng động để không
đánh mất đi sự tập trung rõ ràng hoặc hiệu quả. Cụ thể, phải cẩn trọng để đảm
bảo rằng việc sử dụng các quỹ công hoặc tư nhân của các tổ chức của Giáo Hội
không hạn chế quyền tự do lên tiếng vì những đòi hỏi của Tin Mừng.
k) Việc cung cấp các dịch
vụ trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội, mà không
phân biệt đối xử hay loại trừ bất cứ ai, là một dấu chỉ rõ ràng của một Giáo
Hội thúc đẩy sự hội nhập và tham gia của những người yếu thế nhất trong Giáo
Hội và xã hội. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này được khuyến khích xem
mình là biểu hiện của cộng đồng Kitô hữu và tránh việc bác ái trở nên vô hồn.
Họ cũng được khuyến khích liên kết và phối hợp với những người khác.
l) Giáo Hội phải trung thực
trong việc xem xét cách thức đáp ứng những yêu cầu của công bằng đối với những
người làm việc trong các cơ sở liên kết của mình để đảm bảo nó hành động với sự
nhất quán và chính trực.
m) Trong một Giáo Hội hiệp
hành, tình liên đới cũng thể hiện dưới hình thức trao đổi ơn huệ và chia sẻ tài
nguyên giữa các Giáo Hội địa phương từ các khu vực khác nhau. Những mối quan hệ
này thúc đẩy sự hiệp nhất của Giáo Hội bằng cách tạo ra các mối liên kết giữa
các cộng đồng Kitô hữu liên quan. Cần phải tập trung vào các điều kiện cần
thiết để đảm bảo rằng các linh mục đến trợ giúp các Giáo Hội cần giáo sĩ không
chỉ cung cấp một giải pháp chức năng mà còn đại diện cho một nguồn lực cho sự
phát triển của cả Giáo Hội sai đi và Giáo Hội tiếp nhận họ. Tương tự như vậy,
cần phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành việc cung cấp phúc
lợi đơn thuần, nhưng cũng thúc đẩy tình liên đới Tin Mừng đích thực và được
quản lý một cách minh bạch và đáng tin cậy.
Đề
nghị
n) Học thuyết xã hội của
Giáo Hội là một nguồn tài nguyên ít được biết đến. Điều này cần được giải
quyết. Các Giáo Hội địa phương được mời gọi không chỉ để làm cho nội dung của
nó được biết đến rộng rãi hơn mà còn thúc đẩy việc tiếp nhận của nó thông qua
các thực hành đưa lý thuyết vào hành động.
o) Kinh nghiệm gặp gỡ, chia
sẻ đời sống chung và phục vụ những người sống trong nghèo đói và bên lề xã hội
phải là một phần không thể thiếu trong tất cả các lộ trình đào tạo được các
cộng đồng Kitô hữu cung cấp: đó là một yêu cầu của đức tin, không phải là một
phần tự chọn. Điều này đặc biệt đúng đối với các ứng viên cho thừa tác vụ có
chức thánh và đời sống thánh hiến.
p) Như một phần của việc
suy nghĩ lại thừa tác vụ phó tế, Giáo Hội nên thúc đẩy một định hướng mạnh mẽ
hơn đối với việc phục vụ những người nghèo.
q) Giáo huấn, phụng vụ và
thực hành của Giáo Hội phải tích hợp một cách rõ ràng và cẩn thận hơn các nền
tảng Kinh Thánh và thần học của hệ sinh thái toàn diện.
5. Một Giáo Hội "từ mọi
chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia"
Đúc
kết ý kiến
a) Các tín hữu sống trong
các nền văn hóa cụ thể, mang Chúa Kitô đến với các nền văn hóa ấy trong Lời
Chúa và các Bí tích, tham gia phục vụ bác ái với lòng khiêm nhường và niềm vui,
đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô vốn đã chờ đợi chúng ta ở mọi nơi và mọi lúc. Bằng
cách này, chúng ta trở thành một Giáo Hội chào đón mọi người từ "mọi chi
tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia" (Kh 5,9).
b) Các bối cảnh văn hóa,
lịch sử và lục địa nơi Giáo Hội hiện diện tiết lộ những nhu cầu tinh thần và
vật chất khác nhau. Điều này định hình văn hóa của các Giáo Hội địa phương, các
ưu tiên truyền giáo của họ, các mối quan tâm và ân sủng mà mỗi Giáo Hội mang
đến cho cuộc đối thoại hiệp hành, và các ngôn ngữ mà họ sử dụng để biểu đạt bản
thân. Trong những ngày của Hội nghị, chúng tôi đã có thể trải nghiệm trực tiếp,
và hầu hết là vui mừng, những biểu hiện đa dạng của Giáo Hội.
c) Các Giáo Hội sống trong
bối cảnh ngày càng đa văn hóa và đa tôn giáo. Điều này đòi hỏi phải tìm cách
thức tạo ra cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và văn hóa,nơi mà các Kitô hữu cần
tham gia cùng với nhiều nhóm khác tạo nên xã hội. Sống sứ mạng của Giáo Hội
trong những bối cảnh này đòi hỏi một phong cách hiện diện, phục vụ và rao giảng
nhằm tìm cách xây dựng những nhịp cầu, vun trồng sự hiểu biết lẫn nhau và tham
gia vào việc rao giảng Tin Mừng đồng hành, lắng nghe và học hỏi. Trong Hội
nghị, hình ảnh "cởi bỏ giày dép" để bước qua ngưỡng gặp gỡ người khác
vang lên như một dấu chỉ của sự khiêm nhường và tôn trọng đối với một không
gian thánh thiêng, trên một cơ sở bình đẳng.
d) Di cư làm thay đổi các
Giáo Hội địa phương thành các cộng đồng đa văn hóa. Những người di cư và tị
nạn, nhiều người trong số họ mang những vết thương của việc phải ly hương,
chiến tranh và bạo lực, thường trở thành một nguồn canh tân và làm phong phú cho
các cộng đồng đón nhận họ và là cơ hội để thiết lập các liên kết trực tiếp với
các Giáo Hội xa xôi về mặt địa lý. Trước thái độ ngày càng thù địch đối với
những người di cư, chúng ta được mời gọi thực hành một sự đón tiếp cởi mở, đồng
hành với họ trong việc xây dựng một cuộc sống mới và xây dựng sự hiệp thông
giao thoa văn hóa thực sự giữa các dân tộc. Tôn trọng các truyền thống phụng vụ
và thực hành tôn giáo của người di cư là một phần không thể thiếu của sự đón
tiếp chân thành.
e) Các nhà truyền giáo đã
hi sinh mạng sống của mình để mang Tin Mừng đến cho toàn thế giới. Sự dấn thân
của họ là một bằng chứng tuyệt vời cho sức mạnh của Tin Mừng. Tuy nhiên, cần có
sự chú ý và nhạy cảm đặc biệt trong bối cảnh mà "truyền giáo" là một
từ chứa đầy những ký ức lịch sử đau đớn gây cản trở sự hiệp thông ngày nay. Ở
một số nơi, việc loan báo Tin Mừng gắn liền với thực thuộc địa hóa, thậm chí là
diệt chủng. Truyền giáo trong những bối cảnh này đòi hỏi phải thừa nhận những
sai lầm đã mắc phải, học hỏi sự nhạy cảm mới mẻ đối với các vấn đề này, và đồng
hành với thế hệ đang tìm cách xây dựng bản sắc Kitô giáo vượt ra khỏi chủ nghĩa
thực dân. Thái độ tôn trọng và khiêm nhường là những điều cần thiết để nhận ra
rằng chúng ta bổ túc cho nhau và những cuộc gặp gỡ với các nền văn hóa khác
nhau có thể làm phong phú thêm cuộc sống và suy nghĩ về đức tin của các cộng
đồng Kitô hữu.
f) Giáo Hội dạy về nhu cầu
và khuyến khích việc thực hành đối thoại liên tôn như một phần của việc xây
dựng sự hiệp thông giữa tất cả các dân tộc. Trong một thế giới bạo lực và chia
rẽ, chứng tá về sự hiệp nhất của nhân loại, với nguồn gốc và vận mệnh chung của
nó, trong một tình liên đới phối hợp và hỗ tương hướng tới công bằng xã hội,
hòa bình, hòa giải và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, ngày càng trở nên
cấp bách hơn bao giờ hết. Giáo Hội ý thức rằng Chúa Thánh Thần có thể nói qua
những con người thuộc mọi tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa.
Các
vấn đề cần xem xét
g) Chúng ta cần nuôi dưỡng
sự nhạy cảm lớn hơn đối với giá trị phong phú trong các biểu hiện đa dạng của
chúng ta về việc thế nào là Giáo Hội. Điều này đòi hỏi phải tìm kiếm một sự cân
bằng năng động giữa chiều kích của Hội Thánh như một tổng thể và bản sắc cội
nguồn địa phương của nó, giữa việc tôn trọng mối dây hiệp nhất của Giáo Hội và
nguy cơ đồng nhất bóp nghẹt sự đa dạng. Ý nghĩa và ưu tiên thay đổi giữa các
bối cảnh khác nhau, và điều này đòi hỏi phải xác định và thúc đẩy các hình thức
phân quyền.
h) Giáo Hội cũng bị ảnh
hưởng bởi sự phân cực và mất lòng tin trong các vấn đề quan trọng như đời sống
phụng vụ và suy tư luân lý, xã hội và thần học. Chúng ta cần nhận ra nguyên
nhân của từng vấn đề thông qua đối thoại và thực hiện các tiến trình can đảm để
làm tái sinh sự hiệp thông và các tiến trình hòa giải để khắc phục chúng.
i) Trong các Giáo Hội địa
phương của chúng ta, đôi khi chúng ta gặp phải những căng thẳng giữa các cách
hiểu khác nhau về truyền giáo: nhấn mạnh vào chứng tá sự sống, cam kết thăng
tiến con người, đối thoại với các tôn giáo và nền văn hóa, và công bố Tin Mừng
một cách rõ ràng. Tương tự, một sự căng thẳng nảy sinh giữa việc công bố rõ
ràng về Chúa Giêsu Kitô và việc đánh giá cao các đặc điểm của mỗi nền văn hóa
để tìm kiếm những nét Tin Mừng (semina Verbi) mà nó đã chứa đựng.
j) Sự nhầm lẫn có thể xảy
ra giữa sứ điệp Tin Mừng và văn hóa của những người tham gia truyền giáo đã
được đề cập như là một trong những vấn đề cần được khám phá.
k) Xung đột gia tăng, với
việc buôn bán và sử dụng vũ khí ngày càng mạnh mẽ, đặt ra câu hỏi, được nêu ra
trong nhiều nhóm, về sự suy tư và đào tạo nhiều hơn để chúng ta có thể quản lý
các cuộc xung đột một cách bất bạo động. Đây là một đóng góp quý giá mà các
Kitô hữu có thể cống hiến cho thế giới ngày nay trong cuộc đối thoại và cộng
tác với các tôn giáo khác.
Các
đề xuất
l) Cần chú ý trở lại câu
hỏi về ngôn ngữ chúng ta sử dụng để nói với tâm trí và trái tim của mọi người
trong nhiều bối cảnh khác nhau theo cách vừa đẹp đẽ vừa dễ tiếp cận.
m) Chúng ta cần một khuôn
khổ chung để quản lý và đánh giá các thử nghiệm với các hình thức phân quyền,
xác định tất cả các tác nhân liên quan và vai trò của họ. Vì lợi ích của sự gắn
kết, các tiến trình biện phân liên quan đến phân quyền phải diễn ra theo phong
cách hiệp hành, cân nhắc đến sự đồng thuận và đóng góp của tất cả các chủ thể
liên quan ở các cấp độ khác nhau.
n) Cần có các mô hình mới
cho việc tham gia mục vụ với các dân tộc bản địa, dưới hình thức của một hành
trình chung chứ không phải là một hành động được thực hiện cho họ hoặc vì họ.
Sự tham gia của họ vào các tiến trình ra quyết định ở mọi cấp độ có thể góp
phần vào một Giáo Hội sống động và truyền giáo hơn.
o) Từ công việc của Hội
nghị, có lời kêu gọi hiểu biết rõ hơn về các giáo huấn của Công đồng Vatican
II, giáo huấn hậu Công đồng và học thuyết xã hội của Giáo Hội. Chúng ta cần
biết rõ hơn các truyền thống khác nhau của mình để trở thành một Giáo Hội của
các Giáo Hội trong sự hiệp thông, hiệu quả hơn trong việc phục vụ và đối thoại.
p) Trong một thế giới nơi
mà con số người di cư và tị nạn đang gia tăng trong khi sự sẵn sàng chào đón họ
đang giảm dần và nơi người ngoại quốc bị nhìn với sự nghi ngờ ngày càng tăng,
thật thích hợp cho Giáo Hội để dấn thân một cách dứt khoát vào giáo dục, vào
văn hóa đối thoại và gặp gỡ, chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài
ngoại, đặc biệt là thông qua việc đào tạo mục vụ. Tương tự, cần phải tham gia
vào các dự án cụ thể để hội nhập người di cư.
q) Chúng tôi khuyến nghị
tiếp tục tham gia đối thoại và phân định về công bằng chủng tộc. Các hệ thống
trong Giáo Hội tạo ra hoặc duy trì sự bất công chủng tộc cần phải được xác định
và giải quyết. Các tiến trình chữa lành và hòa giải nên được tạo ra, với sự
giúp đỡ của những người bị tổn hại, để xóa bỏ tội phân biệt chủng tộc.
6. Các Giáo Hội Đông phương
và truyền thống Giáo Hội Latinh
Đúc
kết ý kiến
a) Trong số các Giáo Hội
Đông Phương, có những Giáo Hội hiệp thông trọn vẹn với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô
được hưởng một sự khác biệt về phụng vụ, thần học, Giáo Hội học và giáo luật
làm phong phú thêm toàn thể Giáo Hội. Cụ thể, kinh nghiệm của họ về sự hiệp
nhất trong sự đa dạng có thể mang lại đóng góp có giá trị cho sự hiểu biết và
thực hành tính hiệp hành.
b) Xuyên suốt lịch sử, mức
độ tự trị được trao cho các Giáo Hội này đã trải qua những giai đoạn khác nhau.
Một số phong tục và thủ tục hiện được coi là lỗi thời, chẳng hạn như việc
Latinh hóa. Trong những thập niên gần đây, con đường nhận ra tính đặc thù, sự
khác biệt và quyền tự trị của các Giáo Hội này đã phát triển đáng kể.
c) Sự di cư đáng kể của các
tín hữu Công giáo theo nghi lễ Đông phương vào các lãnh thổ đa số theo Công
giáo Latinh đặt ra những câu hỏi mục vụ quan trọng. Nếu xu hướng hiện tại tiếp
tục hoặc gia tăng, có thể có nhiều thành viên của các Giáo Hội Công giáo Đông
phương trong cộng đồng hải ngoại hơn là trong các lãnh thổ chính thức. Vì nhiều
lý do, việc thiết lập hàng giáo phẩm Đông phương tại các quốc gia nhập cư là
không đủ để giải quyết vấn đề, nhưng cần có sự tham gia các Giáo Hội theo nghi
lễ Latinh địa phương, nhân danh tính hiệp hành, để giúp các tín hữu Đông phương
di cư bảo tồn căn tính của họ và nuôi dưỡng di sản đặc thù của họ, mà không
trải qua các quá trình đồng hóa.
Các
vấn đề cần xem xét
d) Chúng tôi đề nghị nghiên
cứu thêm về sự đóng góp mà kinh nghiệm của các Giáo Hội Công giáo Đông phương
có thể mang lại cho sự hiểu biết và thực hành tính hiệp hành.
e) Vẫn còn một số khó khăn
liên quan đến vai trò của Đức Giáo Hoàng trong việc chấp thuận các giám mục
được bầu bởi Thượng Hội đồng các Giáo Hội sui iuris cho lãnh thổ của họ và việc
bổ nhiệm các giám mục bên ngoài lãnh thổ giáo luật. Yêu cầu mở rộng thẩm quyền
của các Thượng phụ bên ngoài lãnh thổ Thượng phụ cũng là một vấn đề cần phân
định và đối thoại với Tòa Thánh.
f) Ở những khu vực có sự
hiện diện của các tín hữu thuộc các Giáo Hội Công giáo khác nhau, chúng ta cần
tìm ra các mô hình diễn tả rõ ràng các hình thức hiệp nhất hiệu quả trong sự đa
dạng.
g) Chúng ta cần suy tư về
sự đóng góp mà các Giáo Hội Công giáo Đông phương có thể mang lại cho sự hiệp
nhất Kitô giáo và vai trò của họ trong các cuộc đối thoại liên tôn và liên văn
hóa.
Các
đề xuất
h) Trước hết, đề nghị thành
lập một Hội đồng thường trực gồm các Thượng phụ và Tổng Giám mục của các Giáo
Hội Công giáo Đông phương cho Đức Thánh Cha.
i) Một số người yêu cầu
triệu tập một Thượng Hội đồng đặc biệt dành riêng cho các Giáo Hội Công giáo
Đông phương, căn tính và sứ mạng của họ, cũng như giải quyết các thách thức mục
vụ và giáo luật trong bối cảnh chiến tranh và di cư ồ ạt.
j) Chúng ta cần thành lập
một ủy ban hỗn hợp gồm các nhà thần học, sử học và giáo luật Đông phương và
Latinh để giải quyết các vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và xây dựng các đề
xuất chỉ ra hướng đi phía trước.
k) Cần phải có sự đại diện
đầy đủ của các thành viên của các Giáo Hội Công giáo Đông phương trong các cơ
quan của Giáo triều Rôma để làm phong phú toàn thể Giáo Hội bằng quan điểm của
họ, giúp giải quyết các vấn đề khi chúng phát sinh và tạo điều kiện cho sự tham
gia đối thoại ở các cấp độ khác nhau.
l) Để thúc đẩy các hình
thức tiếp nhận tôn trọng di sản của các tín hữu của các Giáo Hội Đông phương,
chúng ta cần tăng cường mối liên hệ giữa các giáo sĩ Đông phương ở nước ngoài
và các giáo sĩ Latinh để đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau và công nhận các Truyền
thống tương ứng.
7. Trên con đường hướng tới
sự hiệp nhất Kitô giáo
Đúc
kết ý kiến
a) Kỳ họp này của Thượng
Hội đồng khai mạc bằng một cử chỉ đại kết sâu sắc. Đêm canh thức cầu nguyện
"Cùng nhau" đã chứng kiến sự hiện diện của nhiều nhà lãnh đạo khác và
đại diện của các cộng đoàn Kitô giáo khác nhau bên cạnh Đức Thánh Cha Phanxicô,
một dấu chỉ rõ ràng và đáng tin cậy về ý chí cùng nhau bước đi trong tinh thần
hiệp nhất đức tin và trao đổi ân sủng. Sự kiện hết sức quan trọng này cũng cho
phép chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một kairos – thời khắc – đại
kết và tái khẳng định rằngnhững gì liên kết chúng ta thì lớn hơn những gì chia
rẽ chúng ta. Vì chúng ta có cùng "một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một
Thiên Chúa và Cha của tất cả mọi người, Đấng trên hết tất cả, giữa tất cả và
trong tất cả" (Ep 4,5-6).
b) Bí tích Rửa tội, vốn là
gốc rễ của nguyên tắc hiệp hành, cũng cấu thành nền tảng của đại kết. Thông qua
đó, tất cả các Kitô hữu tham dự vào cảm thức đức tin (sensus fidei) và vì lý do
này, họ nên được lắng nghe cẩn thận, bất kể truyền thống của họ, như Thượng Hội
đồng đã làm trong tiến trình phân định của mình. Không thể có tính hiệp hành
nếu nếu thiếu chiều kích đại kết.
c) Đại kết trước hết và
trên hết là một vấn đề đổi mới tâm linh vốn đòi hỏi các tiến trình sám hối và
chữa lành ký ức. Hội nghị đã xúc động khi nghe lời chứng của các Kitô hữu thuộc
các truyền thống Giáo Hội khác nhau, những người chia sẻ tình bạn, lời cầu
nguyện và trên hết là cam kết phục vụ những người nghèo khó. Sự cống hiến cho
những người bé mọn nhất trong số này gắn kết và giúp chúng ta tập trung vào
những gì đã hiệp nhất tất cả các tín hữu trong Đức Kitô. Do đó, điều quan trọng
là đại kết phải được thực hành trước hết trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc
đối thoại thần học và thể chế, việc kiên nhẫn dệt nên sự hiểu biết lẫn nhau
tiếp tục trong một bầu không khí ngày càng tin tưởng và cởi mở.
d) Ở không ít khu vực trên
thế giới có một "phong trào đại kết bằng máu", bắt nguồn từ các Kitô
hữu thuộc các giáo phái khác nhau, những người hiến mạng sống mình vì đức tin
nơi Chúa Giêsu Kitô. Lời chứng về sự tử đạo của họ hùng hồn hơn bất kỳ lời nói
nào. Sự hiệp nhất đến từ Thánh Giá của Chúa.
e) Sự hợp tác giữa tất cả
các Kitô hữu là rất quan trọng trong việc đối phó với các thách đố mục vụ của
thời đại ngày nay. Trong các xã hội tục hóa, điều này cho phép tiếng nói của
Tin Mừng có sức mạnh lớn hơn. Trong bối cảnh nghèo đói, nó thúc đẩy mọi người
hợp lực phục vụ công lý, hòa bình và phẩm giá của những người bé mọn nhất.
Trong mọi trường hợp, nó là nguồn lực chữa lành nền văn hóa hận thù, chia rẽ và
chiến tranh khiến các nhóm, dân tộc và quốc gia đối đầu với nhau.
f) Hôn nhân giữa các Kitô
hữu thuộc các Giáo Hội hoặc cộng đồng Giáo Hội khác nhau (hôn nhân liên Giáo
Hội) có thể tạo thành những thực tại trong đó sự khôn ngoan của sự hiệp thông
có thể chín muồi, và có thể loan báo Tin Mừng cho nhau.
Các
vấn đề cần xem xét
g) Hội nghị của chúng tôi
có thể cảm nhận được những cách thức khác nhau mà các truyền thống Kitô giáo
hiểu về cấu trúc hiệp hành của Giáo Hội. Trong các Giáo Hội Chính thống, tính
hiệp hành được hiểu theo nghĩa chặt chẽ như là một biểu hiện của việc thực thi
quyền bính tập thể của các giám mục (Thánh Công đồng). Nói chung, nó đề cập đến
sự tham gia tích cực của tất cả các tín hữu vào đời sống và sứ mạng của Giáo
Hội. Cũng có một số đề cập đến các thực hành trong các cộng đồng Giáo Hội khác,
làm phong phú thêm các cuộc tranh luận của chúng tôi. Tất cả điều này đòi hỏi
phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
h) Một chủ đề khác cần được
khám phá liên quan đến mối liên hệ giữa tính hiệp hành và quyền tối thượng ở
các cấp độ khác nhau (địa phương, khu vực, toàn cầu) trong sự phụ thuộc lẫn
nhau của chúng. Chúng ta cần đọc lại lịch sử để vượt qua những khuôn mẫu và
định kiến. Các cuộc đối thoại đại kết đang diễn ra đã cung cấp một sự hiểu biết
tốt hơn, dưới ánh sáng của các thực hành của thiên niên kỷ thứ nhất, về thực tế
rằng tính hiệp hành và quyền tốii thượng là những thực tại liên quan, bổ sung
và không thể tách rời nhau. Việc làm sáng tỏ điểm nhạy cảm này có những hệ quả
đối với cách hiểu thừa tác vụ Phêrô trong việc phục vụ sự hiệp nhất, theo những
gì Thánh Gioan Phaolô II mong muốn trong thông điệp Ut unum sint.
i) Chúng ta cần xem xét vấn
đề Thánh Thể (Communicatio in sacris) từ các góc độ thần học, giáo luật và mục
vụ dưới ánh sáng của mối liên hệ giữa bí tích và hiệp thông Giáo Hội. Vấn đề
này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các cặp vợ chồng liên Giáo Hội. Nó làm
tăng nhu cầu suy tư rộng hơn về các cuộc hôn nhân giữa các Giáo Hội.
j) Việc suy tư cũng được
kêu gọi về hiện tượng các cộng đoàn "phi giáo phái" và các phong trào
"phục hưng" lấy cảm hứng từ Kitô giáo, cũng được tham gia với số
lượng lớn bởi các tín hữu ban đầu là Công giáo.
Các
đề xuất
k) Năm 2025 đánh dấu kỷ
niệm Công đồng Nicaea (325), nơi biểu tượng đức tin hiệp nhất tất cả các Kitô
hữu đã được xây dựng. Việc kỷ niệm chung về sự kiện này sẽ giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về cách thức các vấn đề gây tranh cãi trong quá khứ đã được thảo luận và
giải quyết cùng nhau trong Công đồng.
l) Cũng trong năm đó,
2025, theo sự an bài của Thiên Chúa, ngày lễ Phục sinh sẽ trùng nhau đối với
tất cả các Giáo Hội và cộng đồng Kitô hữu. Hội nghị bày tỏ một mong muốn mãnh
liệt đến một ngày chung cho lễ Phục sinh để chúng ta có thể cử hành sự Phục
sinh của Chúa, sự sống và ơn cứu độ của chúng ta, trong cùng một ngày.
m) Cũng có mong muốn tiếp
tục mời gọi các Kitô hữu của các Giáo Hội khác và các truyền thống Giáo Hội
khác vào các tiến trình hiệp hành ở tất cả các cấp và mời thêm các phái đoàn
huynh đệ tham dự phiên họp tiếp theo của Hội nghị vào năm 2024.
n) Một đề nghị đã được đưa
ra bởi một số người để triệu tập một Thượng Hội đồng đại kết về sứ mạng chung
trong thế giới đương đại.
o) Cũng có đề nghị
rằng chúng ta có thể soạn thảo một danh sách các chứng tá tử đạo mang tính đại
kết.
PHẦN
II:
TẤT CẢ LÀ MÔN ĐỆ, TẤT CẢ LÀ NHÀ TRUYỀN GIÁO
8. Bản chất của Giáo Hội là
truyền giáo
Đúc
kết ý kiến
a) Thay vì nói rằng Giáo
Hội có một sứ mạng, chúng ta khẳng định rằng bản chất Giáo Hội 'là' truyền
giáo. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21): Giáo
Hội lãnh nhận sứ mạng của mình từ Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đi. Được nâng
đỡ và hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, Giáo Hội loan báo và làm chứng cho Tin
Mừng đối với những ai chưa biết hoặc chưa đón nhận Tin Mừng. Giáo Hội thực hiện
điều này với sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, bắt nguồn từ sứ mạng của
Chúa Giêsu. Bằng cách này, Giáo Hội cộng tác vào sự ngự đến của triều đại Nước
Thiên Chúa, nơi mà Giáo Hội là hạt giống (x. LG, số 5).
b) Các bí tích khai tâm
Kitô giáo trao cho tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu trách nhiệm đối với sứ mạng
của Giáo Hội. Các anh chị em giáo dân, những người sống đời sống thánh hiến, và
các thừa tác viên có chức thánh đều có phẩm giá bình đẳng với nhau. Họ đã lãnh
nhận các đặc sủng và ơn gọi khác nhau và thực hiện các vai trò và chức năng
khác nhau, nhưng tất cả đều được Chúa Thánh Thần kêu gọi và nuôi dưỡng để tạo
nên một thân thể trong Đức Kitô (1 Cor. 4-31). Tất cả mọi người đều là môn đệ,
tất cả đều là những nhà truyền giáo, trong sự sống động tương hỗ của các cộng
đoàn địa phương, là những cộng đoàn cảm nghiệm niềm vui và sự an ủi khi rao
giảng Tin Mừng. Việc thực thi đồng trách nhiệm là điều cần thiết cho tính hiệp
hành và cần thiết ở mọi cấp độ của Giáo Hội. Mỗi Kitô hữu có một sứ mạng trên
trái đất này.
c) Gia đình là trụ cột của
mọi cộng đoàn Kitô hữu. Cha mẹ, ông bà và tất cả những người sống và chia sẻ
đức tin trong gia đình là những nhà truyền giáo đầu tiên. Gia đình, với tư cách
là một cộng đoàn sống và yêu thương, là một nơi đặc biệt để giáo dục đức tin và
thực hành Kitô giáo, một nơi cần được đồng hành đặc biệt trong các cộng đồng.
Sự hỗ trợ đặc biệt cần thiết cho các bậc cha mẹ là những người phải cân bằng
công việc, kể cả trong cộng đồng Giáo Hội và trong việc phục vụ sứ mạng của
mình, với những đòi hỏi của đời sống gia đình.
d) Nếu truyền giáo là một
ân sủng liên quan đến toàn thể Giáo Hội, thì anh chị giáo dân đóng góp một cách
thiết yếu vào việc thúc đẩy sứ mạng đó trong mọi lĩnh vực và trong các hoàn
cảnh bình thường hàng ngày. Trên hết, chính họ là những người làm cho Giáo Hội
hiện diện và loan báo Tin Mừng, chẳng hạn, trong nền văn hóa kỹ thuật số, vốn
có tác động mạnh mẽ trên toàn thế giới; trong nền văn hóa của giới trẻ; trong
thế giới lao động và kinh doanh, chính trị, nghệ thuật và văn hóa; trong nghiên
cứu khoa học, giáo dục và đào tạo; trong việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng
ta; và đặc biệt là thông qua việc tham gia vào đời sống cộng đồng. Bất cứ nơi
nào họ hiện diện, họ được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống
hàng ngày và chia sẻ đức tin một cách rõ ràng với người khác. Đặc biệt, những
người trẻ, với những ân sủng và sự mỏng giòn của họ, lớn lên trong tình bạn với
Chúa Giêsu, trở thành những tông đồ loan báo Tin Mừng cho bạn bè đồng trang
lứa.
e) Anh chị em giáo dân cũng
ngày càng hiện diện và tích cực phục vụ trong các cộng đoàn Kitô hữu. Nhiều
người trong số họ tổ chức và điều hành các cộng đoàn mục vụ, phục vụ như các
giáo lý viên, các nhà thần học và các nhà đào tạo, linh hướng, và tham gia vào
các ban ngành giáo xứ và giáo phận. Ở nhiều khu vực, đời sống của các cộng đồng
Kitô hữu và sứ mạng của Giáo Hội phụ thuộc vào các giáo lý viên. Ngoài ra, giáo
dân phục vụ trong việc bảo vệ trẻ em và những người dễ bị tổn thương, cũng như
các công việc quản lý hành chính trong Giáo Hội. Tất cả những đóng góp này là
không thể thiếu đối với sứ mạng của Giáo Hội; Vì lý do đó, việc cung cấp các
năng lực cần thiết cần thiết là điều cần được đáp ứng.
f) Với sự đa dạng vô cùng,
các đặc sủng của giáo dân đại diện cho những ơn huệ riêng biệt từ Chúa Thánh
Thần dành cho Giáo Hội vốn phải được kêu gọi, nhận ra và đánh giá đầy đủ. Trong
một số tình huống, giáo dân có thể được kêu gọi để giúp bù đắp cho sự thiếu hụt
linh mục, với nguy cơ là đặc tính giáo dân của việc tông đồ của họ có nguy cơ
bị giảm bớt. Trong các bối cảnh khác, có thể là các linh mục tự làm mọi thứ và
do đó các đặc sủng và thừa tác vụ của giáo dân bị bỏ qua hoặc không được sử
dụng đúng mức. Trong tất cả mọi bối cảnh, có một mối nguy hiểm, được nhiều
người bày tỏ tại Hội nghị, là "giáo sĩ hóa" giáo dân, tạo ra một loại
dân ưu tú, duy trì sự bất bình đẳng và chia rẽ trong Dân Chúa.
g) Sứ mạng ad gentes - loan
báo Tin Mừng cho muôn dân - làm phong phú cho các Giáo Hội, bởi vì nó không chỉ
liên quan đến chính các nhà truyền giáo mà còn toàn thể cộng đoàn, nhờ đó được
khích lệ để cầu nguyện, chia sẻ vật chất và làm chứng tá đức tin. Các Giáo Hội
thiếu linh mục không nên từ bỏ cam kết này, trong khi những Giáo Hội có nhiều
ơn gọi được hưởng lợi từ việc cộng tác mục vụ theo cách thực sự mang tính Tin
Mừng. Tất cả các nhà truyền giáo - giáo dân nam nữ, những người sống đời sống
thánh hiến, các phó tế và linh mục, và đặc biệt là các thành viên của các hội
dòng truyền giáo và các nhà truyền giáo fidei donum - là một nguồn lực quan
trọng để tạo ra các mối liên kết trao đổi hiểu biết và ơn sủng.
h) Sứ mạng của Giáo Hội
liên tục được canh tân và nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Thể, đặc biệt khi bản
chất cộng đoàn và truyền giáo của nó được thể hiện đầy đủ.
Các
vấn đề cần xem xét
i) Cần tiếp tục đào sâu sự
hiểu biết thần học về mối liên hệ giữa các đặc sủng và các thừa tác vụ theo
khía cạnh truyền giáo.
j) Công đồng Vatican II và
huấn quyền theo sau trình bày sứ mạng đặc thù của giáo dân trong các khía cạnh
thánh hóa các thực tại trần thế hoặc thế tục. Tuy nhiên, thực tế là việc thực
hành mục vụ tại giáo xứ, giáo phận và, gần đây, thậm chí ở cấp độ phổ quát,
ngày càng giao phó cho giáo dân những nhiệm vụ và thừa tác vụ trong chính Giáo
Hội. Suy tư thần học và các quy định giáo luật cần phải được hòa hợp với những
phát triển quan trọng này và tránh thuyết nhị nguyên có thể làm tổn hại đến
nhận thức về sự hiệp nhất trong sứ mạng của Giáo Hội.
k) Trong việc thúc đẩy sự
đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội cho sứ mạng, chúng ta
nhận ra khả năng tông đồ của người khuyết tật. Chúng ta muốn đánh giá cao hơn
sự đóng góp cho công cuộc truyền giáo phát sinh từ sự phong phú vô bờ bến trong
nhân tính của họ. Chúng tôi ghi nhận những kinh nghiệm của họ về đau khổ, bị
gạt ra bên lề và phân biệt đối xử, đôi khi xảy ra ngay cả trong cộng đồng Kitô
hữu.
l) Các cơ cấu mục vụ cần
phải được tổ chức lại để chúng có thể dễ dàng nhận ra, kêu gọi và làm sinh động
các đặc sủng và thừa tác vụ giáo dân, đưa chúng vào động lực truyền giáo của
Giáo Hội hiệp hành. Dưới sự hướng dẫn của các mục tử, các cộng đoàn sẽ có thể
gửi người cũng như hỗ trợ những người được sai đi truyền giáo. Bằng cách này,
các cơ cấu này chủ yếu sẽ phục vụ sứ mạng mà các tín hữu thực hiện trong xã
hội, trong gia đình và trong đời sống công việc, thay vì chỉ tập trung vào các
vấn đề nội bộ hoặc các mối quan tâm của tổ chức.
m) Cụm từ "một Giáo
Hội tất cả - sứ mạng", được sử dụng trong Tài Liệu Làm Việc, có thể dẫn
đến sự hiểu lầm. Ý nghĩa của nó sẽ phải được làm rõ để loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ
nào
Các
đề xuất
n) Chúng ta cần sáng tạo
hơn nữa trong việc thiết lập các thừa tác vụ theo nhu cầu của các hội thánh địa
phương, với sự tham gia đặc biệt của giới trẻ. Người ta có thể nghĩ đến việc mở
rộng hơn nữa các trách nhiệm được giao cho thừa tác vụ đọc sách hiện có, những
trách nhiệm vốn đã rộng lớn hơn những trách nhiệm được thực hiện trong phụng
vụ. Điều này có thể trở thành một chức vụ trọn vẹn hơn của Lời Chúa, trong bối
cảnh thích hợp, cũng có thể bao gồm việc rao giảng. Chúng ta cũng có thể khám
phá khả năng thiết lập một thừa tác vụ được giao cho các cặp vợ chồng cam kết
hỗ trợ đời sống gia đình và đồng hành với những người chuẩn bị cho Bí tích Hôn
phối.
o) Các Giáo Hội địa phương
được mời gọi cân nhắc các phương tiện và thời điểm thích hợp để cộng đoàn ghi
nhận các đặc sủng và các thừa tác vụ giáo dân. Điều này có thể xảy ra nhân dịp
cử hành phụng vụ trong đó trao ban ủy thác mục vụ.
9. Phụ nữ trong đời sống và
sứ mạng của Giáo Hội
Đúc
kết ý kiến
a) Chúng ta được tạo dựng,
nam cũng như nữ, theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Ngay từ đầu, sự sáng
tạo biểu lộ sự thống nhất và khác biệt, ban cho phụ nữ và nam giới một bản
tính, ơn gọi và số phận chung, và hai kinh nghiệm khác nhau về việc làm người.
Kinh Thánh làm chứng cho sự bổ túc và hỗ tương giữa phụ nữ và nam giới, và giao
ước giữa họ nằm ở trung tâm kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu coi
phụ nữ là những người đối thoại của mình: Ngài nói chuyện với họ về Nước Thiên
Chúa; chào đón họ làm môn đệ, ví dụ như bà Maria thành Bêtania. Những người phụ
nữ này, là những người đã kinh nghiệm quyền năng chữa lành, giải thoát và nhận
biết, đã đi với Ngài trên con đường từ Galilêa đến Giêrusalem (Lc 8,1-3). Ngài
giao phó việc loan báo về sự Phục Sinh vào buổi sáng Phục Sinh cho một người
phụ nữ, Mary Magdalene.
b) Trong Đức Kitô, phụ nữ
và nam giới được mặc lấy cùng một phẩm giá rửa tội (Gl 3,28) và nhận được nhiều
ân huệ khác nhau của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được mời gọi cùng nhau vào một
sự hiệp thông của các mối liên hệ yêu thương, không cạnh tranh trong Đức Kitô,
và đồng trách nhiệm được thể hiện ở mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Như Đức
Giáo Hoàng Phanxicô đã nói, chúng ta là "một dân được triệu tập và kêu gọi
với sức mạnh của các Mối Phúc".
c) Chúng tôi đã có một trải
nghiệm rất tích cực về sự hỗ tương giữa phụ nữ và nam giới trong Hội Nghị này.
Cùng nhau, chúng tôi lặp lại lời kêu gọi được đưa ra trong các giai đoạn trước
của tiến trình hiệp hành, rằng Giáo Hội cần có một cam kết dứt khoát hơn để
hiểu biết và đồng hành với phụ nữ từ góc độ mục vụ và bí tích. Phụ nữ mong muốn
chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng của họ về hành trình hướng tới sự thánh thiện
trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đời: khi còn trẻ, khi làm mẹ, trong tình
bạn và các mối liên hệ của họ, trong đời sống gia đình ở mọi lứa tuổi, trong
đời sống lao động và trong đời sống thánh hiến. Phụ nữ kêu gọi công lý trong
các xã hội vẫn còn bị đánh dấu bởi bạo lực tình dục, bất bình đẳng kinh tế và
xu hướng đối xử với họ như đồ vật. Phụ nữ bị tổn thương bởi nạn buôn người, di
cư cưỡng bức và chiến tranh. Việc đồng hành mục vụ và ủng hộ mạnh mẽ cho phụ nữ
nên đi đôi với nhau.
d) Phụ nữ chiếm đa số những
người ngồi trong các ghế nhà thờ và thường là những nhà truyền giáo đầu tiên
của đức tin trong gia đình. Các phụ nữ thánh hiến, cả trong đời sống chiêm niệm
lẫn tông đồ, là một hồng ân cơ bản và đặc biệt, dấu chỉ và chứng tá ở giữa
chúng ta. Lịch sử lâu dài của các nhà truyền giáo nữ, các thánh, các nhà thần
học và các nhà thần bí cũng là một nguồn nuôi dưỡng và truyền cảm hứng mạnh mẽ
cho phụ nữ và nam giới ngày nay.
e) Đức Maria thành
Nazareth, người phụ nữ của đức tin và là Mẹ Thiên Chúa, đối với tất cả mọi
người vẫn là một nguồn mạch độc đáo về ý nghĩa thần học, Giáo Hội và tinh thần.
Mẹ Maria nhắc nhở chúng ta về lời mời gọi phổ quát để chăm chú lắng nghe Thiên
Chúa và luôn cởi mở đón nhận Chúa Thánh Thần. Mẹ biết niềm vui của việc mang
nặng đẻ đau, nuôi dưỡng và chịu đựng đau khổ. Mẹ đã sinh con trong cảnh nghèo
túng, trở thành một người tị nạn và trải qua nỗi đau mất con trong cái chết tàn
bạo, nhưng Mẹ cũng biết đến sự kỳ diệu của biến cố Phục sinh và vinh quang của
Lễ Hiện Xuống.
f) Nhiều phụ nữ bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đối với công việc của các linh mục và giám mục. Họ cũng nói về
một Giáo Hội làm tổn thương. Chủ nghĩa giáo sĩ trị, tư tưởng cho mình là quan
trọng và những biểu hiện quyền lực không phù hợp tiếp tục gây nên những vết sẹo
khuôn mặt của Giáo Hội và làm hư hại sự hiệp thông. Một sự hoán cải tâm linh
sâu sắc là cần thiết làm nền tảng cho bất kỳ sự thay đổi cấu trúc hiệu quả nào.
Lạm dụng tình dục và lạm dụng quyền lực và thẩm quyền tiếp tục kêu gọi công lý,
chữa lành và hòa giải. Chúng tôi thắc mắc làm thế nào Giáo Hội có thể là một
nơi bảo vệ tất cả mọi người.
g) Khi phẩm giá và công lý
bị xói mòn trong các mối quan hệ giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội,
chúng ta làm suy yếu uy tín của lời rao giảng của chúng ta cho thế giới. Con
đường hiệp hành của chúng ta cho thấy sự cần thiết phải đổi mới quan hệ và thay
đổi cấu trúc. Bằng cách này, chúng ta có thể chào đón tốt hơn sự tham gia và
đóng góp của tất cả mọi người - với những người nam nữ giáo dân và tận hiến,
các phó tế, linh mục và giám mục - như những môn đệ đồng trách nhiệm trong công
việc truyền giáo.
h) Hội nghị yêu cầu chúng
ta tránh lặp lại sai lầm khi nói về phụ nữ như một vấn đề hoặc một vấn nạn.
Thay vào đó, chúng tôi mong muốn thúc đẩy một Giáo Hội trong đó người nam và
người nữ đối thoại với nhau, để hiểu sâu sắc hơn về ý định của của Thiên Chúa,
cho thấy họ cùng nhau là những chủ thể, mà không có sự phụ thuộc, loại trừ và
cạnh tranh.
Các
vấn đề cần xem xét
l) Các Giáo Hội trên toàn
thế giới đã bày tỏ một yêu cầu rõ ràng rằng sự đóng góp tích cực của phụ nữ
được công nhận và đánh giá cao, và vai trò lãnh đạo mục vụ của họ gia tăng
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Để diễn tả tốt
hơn các ân sủng và đặc sủng của tất cả mọi người và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu
mục vụ, làm thế nào Giáo Hội có thể cộng tác với nhiều phụ nữ hơn trong các vai
trò và thừa tác vụ hiện có? Nếu cần có thừa tác vụ mới, ai sẽ phân định những
điều này, ở cấp độ nào và theo cách nào?
m) Các quan điểm khác nhau
đã được bày tỏ liên quan đến việc tham gia của phụ nữ vào thừa tác vụ phó tế.
Đối với một số người, bước đi này sẽ không thể chấp nhận được vì họ coi đó là
sự đứt đoạn với Truyền thống. Tuy nhiên, đối với những người khác, việc mở cửa
cho phụ nữ tham gia chức vụ phó tế sẽ khôi phục lại việc thực hành của Giáo Hội
sơ khai. Những người khác, xem điều này như một đáp trả phù hợp và cần thiết
trước các dấu chỉ của thời đại, trung thành với Truyền thống, và điều đó sẽ thu
hút được tiếng vang trong lòng nhiều người đang tìm kiếm năng lượng và sức sống
mới trong Giáo Hội. Một số người bày tỏ lo ngại rằng yêu cầu này nói lên một sự
lẫn lộn nhân học đáng lo ngại, mà, nếu được chấp thuận, sẽ khiến Giáo Hội bị
đồng hóa với xu hướng thời đại..
n) Thảo luận về vấn đề này
cũng liên quan đến suy tư rộng lớn hơn đang diễn ra về thần học của phó tế (xem
Chương 11 dưới đây).
Các
đề xuất
o) Các Giáo Hội địa phương
được khuyến khích mở rộng công việc lắng nghe, đồng hành và chăm sóc cho những
phụ nữ bị gạt ra bên lề xã hội nhiều nhất trong bối cảnh xã hội của họ.
p) Điều cấp bách là phải
đảm bảo rằng phụ nữ có thể tham gia vào các tiến trình ra quyết định và đảm
nhận vai trò trách nhiệm trong việc chăm sóc mục vụ và sứ mạng. Đức Thánh Cha
đã gia tăng đáng kể số lượng phụ nữ trong các vị trí trách nhiệm trong Giáo
triều Rôma. Điều này cũng nên xảy ra ở các cấp độ khác của đời sống Giáo Hội,
trong đời sống thánh hiến và các giáo phận. Giáo luật cần có quy định tương ứng
cho phù hợp.
q) Nghiên cứu thần học và
mục vụ về việc phụ nữ tham gia vào chức phó tế nên được tiếp tục, hưởng lợi từ
việc xem xét các kết quả của các ủy ban được Đức Thánh Cha thiết lập đặc biệt,
và từ các nghiên cứu thần học, lịch sử và chú giải đã được tiến hành. Nếu có
thể, kết quả của nghiên cứu này nên được trình bày cho Kỳ họp tiếp theo của
Thượng Hội đồng.
r) Các trường hợp vi phạm
lao động và thù lao không công bằng trong Giáo Hội cần phải được giải quyết,
đặc biệt đối với phụ nữ trong đời sống thánh hiến, những người thường bị xuyên
bị coi là lao động rẻ tiền.
s) Sự tiếp cận của phụ nữ
với các chương trình đào tạo và nghiên cứu thần học cần phải được mở rộng đáng
kể. Chúng tôi đề nghị rằng phụ nữ cũng nên được tham gia vào các chương trình
giảng dạy và đào tạo chủng viện để thúc đẩy việc đào tạo tốt hơn cho thừa tác
vụ có chức thánh.
t) Cần phải đảm bảo rằng
các văn bản phụng vụ và các tài liệu của Giáo Hội chú ý hơn đến việc sử dụng
ngôn ngữ có sự quan tâm bình đẳng cả nam lẫn nữ, và cũng bao gồm một loạt các
từ ngữ, hình ảnh và tường thuật rút ra nhiều kinh nghiệm hơn về phụ nữ.
u) Chúng tôi đề nghị rằng
phụ nữ nhận được sự đào tạo thích hợp để cho phép họ trở thành thẩm phán trong
tất cả các quy trình giáo luật.
10. Đời sống thánh hiến và
các hiệp hội và phong trào giáo dân: một dấu hiệu đặc sủng
Đúc
kết ý kiến
a) Giáo Hội luôn được hưởng
lợi từ sự ban tặng các đặc sủng, từ những điều phi thường nhất đến những điều
đơn giản nhất. Qua họ, Chúa Thánh Thần làm làm mới và canh tân Giáo Hội với
niềm vui và lòng biết ơn. Dân Thánh của Thiên Chúa nhận ra trong các đặc sủng
này sự trợ giúp quan phòng mà qua đó Thiên Chúa hỗ trợ, hướng dẫn và soi sáng
sứ mạng của Ngài.
b) Chiều kích đặc sủng của
Giáo Hội được thể hiện trong những hình thức phong phú và đa dạng của đời sống
thánh hiến. Chứng tá này đã góp phần canh tân đời sống của cộng đồng Giáo Hội
trong mọi thời đại và cung cấp một liều thuốc giải độc để đối kháng với cám dỗ
về thế tục vẫn tiếp diễn không ngừng. Các gia đình đa dạng tạo nên đời sống tu
trì chứng tỏ vẻ đẹp của vai trò môn đệ và sự thánh thiện trong Đức Kitô, cho dù
trong những hình thức cầu nguyện đặc biệt của họ, sự phục vụ của họ giữa mọi
người, cho dù qua các hình thức của đời sống cộng đoàn, sự cô độc của đời sống
chiêm niệm hoặc ở biên giới của các nền văn hóa mới. Những người trong đời sống
thánh hiến thường là những người đầu tiên cảm nhận được những thay đổi lịch sử
quan trọng và lưu tâm đến những thúc giục của Chúa Thánh Thần. Ngày nay cũng
vậy, Giáo Hội cần tiếng nói và hành động ngôn sứ của họ. Cộng đồng Kitô hữu
cũng nhìn nhận và mong muốn chú ý đến các thực hành đời sống hiệp hành và biện
phân đã được thử thách và kiểm nghiệm trong các cộng đồng sống đời thánh hiến,
trưởng thành qua nhiều thế kỷ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể học hỏi từ họ
sự khôn ngoan trong cách bước đi trên con đường hiệp hành. Nhiều Dòng và tu hội
thực hành cuộc đối thoại trong Thần Khí hoặc các hình thức biện phân tương tự
trong việc thực hiện các công hội tỉnh và tổng công hội để đổi mới các cơ cấu,
suy nghĩ lại lối sống và kích hoạt các hình thức phục vụ sáng tạo và gần gũi
với những người nghèo nhất. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác, chúng ta thấy
sự tồn tại của một phong cách chuyên quyền, vốn không có chỗ cho đối thoại.
c) Với lòng biết ơn sâu xa,
Dân Chúa nhận ra những mầm mống canh tân trong các cộng đoàn có lịch sử lâu dài
đã nở rộ thành các cộng đồng Giáo Hội mới. Các hiệp hội giáo dân, các phong
trào Giáo Hội và các cộng đồng mới là dấu chỉ quý giá về sự trưởng thành của sự
đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội. Họ có giá trị đặc biệt
vì kinh nghiệm của họ trong việc thúc đẩy sự hiệp thông giữa các ơn gọi khác
nhau, động lực mà họ loan báo Tin Mừng, sự gần gũi của họ với những người ở bên
lề về kinh tế và xã hội và qua việc thúc đẩy thiện ích chung. Họ thường là
những mẫu gương của sự hiệp thông hiệp hành và tham gia truyền giáo.
d) Các trường hợp lạm dụng
dưới nhiều hình thức khác nhau mà những người trong đời sống tu trì và các
thành viên của các hiệp hội giáo dân, đặc biệt là phụ nữ, đã trải qua một vấn
đề trong việc thực thi quyền lực và đòi hỏi những can thiệp quyết đoán và thích
hợp.
Các
vấn đề cần xem xét
e) Huấn quyền của Giáo Hội
có một hệ thống giảng dạy được phát triển tốt về tầm quan trọng của cả hai ân
huệ phẩm trật và đặc sủng trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Điều này đòi
hỏi sự tăng trưởng trong hiểu biết của Giáo Hội và trong suy tư thần học. Do
đó, đáng để xem xét một lần nữa ý nghĩa Giáo Hội học và ý nghĩa mục vụ cụ thể
của giáo huấn này.
f) Sự đa dạng của những
cách diễn tả đặc sủng trong Giáo Hội nhấn mạnh cam kết của Dân Chúa trở thành
một sự hiện diện ngôn sứ gần gũi với những người bé mọn nhất trong số các anh
chị em của chúng ta, và cung cấp cho nền văn hóa đương đại một ý thức sâu sắc
hơn về các khía cạnh thiêng liêng của cuộc sống. Cần phải phát triển một sự
hiểu biết sâu sắc hơn về cách thức đời sống thánh hiến, cũng như các hiệp hội
giáo dân, các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới, đặt các đặc sủng của họ
vào việc phục vụ sự hiệp thông và truyền giáo trong các Giáo Hội địa phương,
tăng cường các con đường hiện có hướng tới sự thánh thiện với sự hiện diện mang
tính ngôn sứ.
Đề
nghị
g) Chúng tôi tin rằng đã
đến lúc sửa đổi tài liệu Mutuae năm 1978, liên quan đến mối quan hệ giữa các
giám mục và tu sĩ trong Giáo Hội. Chúng tôi đề nghị rằng việc sửa đổi này phải
được hoàn thành một cách thức đồng nghị, tham khảo ý kiến tất cả những người
liên quan.
h) Để đạt được mục đích
tương tự, cần phải đưa ra, trong tinh thần đồng nghị, các phương tiện và công
cụ để thúc đẩy các cuộc gặp gỡ và các hình thức hợp tác giữa các Hội đồng Giám
mục và các Liên hiệp Bề trên thượng cấp của các cộng đoàn Đời sống Thánh hiến
và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ.
i) Ở cấp độ của cả các Giáo
Hội địa phương riêng lẻ và các nhóm của các Giáo Hội, việc thúc đẩy tính hiệp
hành truyền giáo đòi hỏi phải thành lập và cấu trúc các hội đồng và cơ quan tư
vấn mà tại đó các đại diện của các hiệp hội giáo dân và các phong trào Giáo Hội
và các cộng đồng mới có thể gặp gỡ để thúc đẩy các mối quan hệ lâu dài giữa đời
sống và công việc của họ với các Giáo Hội địa phương.
j) Trong việc đào tạo thần
học ở mọi cấp độ, nhất là trong việc đào tạo các thừa tác viên thụ phong, sự
nổi bật dành cho chiều kích đặc sủng của Giáo Hội cần được theo dõi và củng cố
khi cần thiết.
11. Phó tế và Linh mục trong
một Giáo Hội hiệp hành
Đúc
kết ý kiến
a) Các linh mục là những
cộng tác viên chính của giám mục, cùng với ngài tạo thành một linh mục đoàn (x.
LG, số 28). Các phó tế được thụ phong cho sứ mạng phục vụ Dân Chúa trong
diakonia của Lời Chúa, trong phụng vụ, nhưng trên hết là trong việc thực thi
bác ái (x. LG, số 29). Thượng Hội đồng mong muốn, trước hết và trên hết, bày tỏ
với các linh mục và phó tế một lòng thức biết ơn sâu sắc. Nhận thức được rằng
họ có thể trải qua sự cô đơn và cô lập, hội nghị khuyến khích các cộng đồng
Kitô hữu hỗ trợ họ bằng lời cầu nguyện, tình bạn và sự hợp tác.
b) Các phó tế và linh mục
thực thi thừa tác vụ trong nhiều môi trường mục vụ khác nhau: trong các giáo
xứ, trong việc phúc âm hóa, giữa những người sống trong nghèo đói và những
người bị gạt ra bên lề, trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, cũng như trong sứ
mạng ad gentes, trong nghiên cứu thần học, tại các trung tâm tĩnh tâm và những
nơi canh tân tâm linh, và nhiều nơi khác. Trong một Giáo Hội hiệp hành, các
thừa tác viên thụ phong được mời gọi phục vụ Dân Chúa trong thái độ gần gũi với
mọi người, đón nhận và lắng nghe tất cả mọi người, đồng thời trau dồi đời sống
thiêng liêng sâu sắc và một đời sống cầu nguyện. Trên hết, họ được yêu cầu phải
xem xét lại việc thực thi quyền bính, mô phỏng theo Chúa Giêsu, Đấng, "vốn
dĩ là Thiên Chúa nhưng đã, [...] trút bỏ chính mình, mang lấy thân phận nô
lệ" (Pl 2,6-7). Hội nghị nhìn nhận rằng qua sự cống hiến của họ, nhiều
linh mục và phó tế làm cho Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành và Người Tôi Tớ, hiện
diện.
c) Một trở ngại cho công
việc mục vụ và truyền giáo là chủ nghĩa giáo sĩ trị. Chủ nghĩa giáo sĩ trị bắt
nguồn từ một sự hiểu lầm về ơn gọi thiêng liêng, xem nó như một đặc ân hơn là
một sự phục vụ, và thể hiện chính nó trong việc thực thi quyền lực theo cách
thế gian cho phép mình từ chối chịu trách nhiệm giải trình. Sự méo mó này của
ơn gọi linh mục cần phải được thách thức ngay từ những giai đoạn sớm nhất của
việc đào tạo bằng cách đảm bảo sự tiếp xúc gần gũi với Dân Chúa và qua những
kinh nghiệm phục vụ cụ thể giữa những người đang cần trợ giúp nhất. Việc thi
hành thừa tác vụ linh mục ngày nay không thể được quan niệm ngoại trừ trong sự
hòa hợp với giám mục và linh mục đoàn, và trong sự hiệp thông sâu sắc với các
thừa tác vụ và đặc sủng khác. Thật không may, chủ nghĩa giáo sĩ trị là một
khuynh hướng có thể thể hiện không chỉ giữa các thừa tác viên mà còn giữa các
giáo dân.
d) Để thực thi chức vụ phó
tế và linh mục trong bối cảnh đồng trách nhiệm, cần phải ý thức được khả năng
và giới hạn của chính mình. Vì lý do này, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng
một cách tiếp cận thực tế đối với việc đào tạo nhân bản được tích hợp với các
chiều kích văn hóa và tinh thần của việc đào tạo, cũng như đào tạo về tư cách
người môn đệ. Về phương diện này, không thể đánh giá thấp sự đóng góp của các
gia đình gốc và cộng đồng Kitô hữu, trong đó ơn gọi của một thanh niên được cổ
vũ, cũng như của các gia đình khác đồng hành với sự tăng trưởng của anh ta,
không thể bị đánh giá thấp.
Các
vấn đề cần xem xét
e) Trong bối cảnh đào tạo
tất cả những người đã được rửa tội để phục vụ trong một Giáo Hội hiệp hành,
việc đào tạo các phó tế và linh mục đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Yêu cầu đã được
bày tỏ rộng rãi tại hội nghị này rằng các chủng viện và các chương trình đào
tạo linh mục khác cần kết nối với đời sống hàng ngày của cộng đồng. Chúng ta
cần tránh những rủi ro của chủ nghĩa hình thức và ý thức hệ dẫn đến thái độ độc
đoán, và cản trở sự phát triển ơn gọi đích thực. Việc sửa đổi các chương trình
đào tạo đòi hỏi phải thảo luận và cân nhắc rộng rãi.
f) Nhiều ý kiến khác nhau
đã được bày tỏ về cuộc sống độc thân linh mục. Giá trị của nó được mọi người
đánh giá cao như là một lời ngôn sứ phong phú và là một nhân chứng sâu sắc cho
Chúa Kitô; Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi liệu tính phù hợp của nó, về mặt
thần học, đối với thừa tác vụ linh mục có nhất thiết phải chuyển thành một
nghĩa vụ kỷ luật trong Giáo Hội Latinh hay không, nhất là trong bối cảnh Giáo
Hội và văn hóa vốn làm cho nó trở nên khó khăn hơn. Cuộc thảo luận này không
mới nhưng đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng hơn.
Các
đề nghị
g) Trong các Giáo Hội
Latinh, chức phó tế vĩnh viễn đã được thực hiện theo những cách khác nhau trong
các bối cảnh Giáo Hội khác nhau. Một số Giáo Hội địa phương hoàn toàn chưa giới
thiệu nó; ở những nơi khác, có mối lo ngại rằng các phó tế được coi là một giải
pháp thay thế cho sự thiếu hụt linh mục. Đôi khi, thừa tác vụ của họ được thể
hiện trong phụng vụ hơn là phục vụ những người sống trong nghèo đói và những
người thiếu thốn trong cộng đồng. Do đó, chúng tôi đề nghị một đánh giá về cách
thức thừa tác vụ phó tế đã được thực hiện kể từ Công đồng Vatican II.
h) Từ quan điểm thần học,
cần phải hiểu phó tế trước hết và trên hết chính là ở bản thân thừa tác vụ này
và không chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp trước khi lãnh chức linh mục. Việc
xác định hình thức chính của phó tế là "vĩnh viễn", để phân biệt nó
với hình thức "chuyển tiếp", tự nó là một dấu hiệu của sự thay đổi
quan điểm mà chưa được nhận thức đầy đủ.
i) Những bất ổn xung quanh
thần học của chức phó tế có liên quan đến thực tế là nó chỉ được phục hồi thành
một thừa tác vụ phẩm trật riêng biệt và vĩnh viễn trong Giáo Hội Latinh kể từ
Công đồng Vatican II. Nghiên cứu sâu hơn sẽ làm sáng tỏ câu hỏi về việc truyền
chức phó tế cho phụ nữ
j) Một sự xem xét toàn diện
về việc đào tạo thừa tác vụ phó tế và linh mục theo quan điểm về các chiều kích
truyền giáo và hiệp hành của Giáo Hội là cần thiết. Điều này có nghĩa rà soát
lại bản Ratio fundamentalis quy định cách thức cấu trúc đào tạo. Chúng tôi cũng
đề nghị đồng thời đảm bảo việc áp dụng một phong cách hiệp hành khi nói đến
việc đào tạo liên tục các linh mục và phó tế.
k) Tính minh bạch và văn
hóa chịu trách nhiệm có tầm quan trọng sống còn đối với chúng ta để tiến lên
trong việc xây dựng một Giáo Hội hiệp hành. Chúng tôi yêu cầu các hội thánh địa
phương xác định các quy trình và cấu trúc cho phép kiểm toán thường xuyên về
cách các linh mục và phó tế đang thực hiện vai trò trách nhiệm trong việc thực
hiện chức vụ của họ. Các tổ chức hiện có, chẳng hạn như các cơ quan có sự tham
gia hoặc các chuyến thăm mục vụ, có thể là điểm khởi đầu cho công việc này,
quan tâm đến sự tham gia của cộng đoàn. Những hình thức như vậy phải được điều
chỉnh cho phù hợp với bối cảnh địa phương và các nền văn hóa đa dạng, để không
trở thành một trở ngại hoặc một gánh nặng hành chính. Việc phân định loại tiến
trình cần thiết có thể được xem xét ở cấp độ khu vực hoặc lục địa.
l) Trên cơ sở từng trường
hợp cụ thể, và phù hợp với bối cảnh, cần xem xét khả năng tái đưa các linh mục
đã rời bỏ thừa tác vụ vào các công việc mục vụ phù hợp với kinh nghiệm, trình
độ đào tạo của họ.
12. Giám mục trong sự hiệp
thông Giáo Hội
Đúc
kết ý kiến
a) Theo Công đồng Vatican
II, các giám mục, với tư cách là những người kế vị các Tông đồ, được đặt để
phục vụ sự hiệp thông được thực hiện trong Giáo Hội địa phương, giữa các Giáo
Hội và với toàn thể Giáo Hội. Do đó, hình ảnh giám mục chỉ có thể được hiểu một
cách đầy đủ trong mạng lưới các mối tương quan được dệt nên từ phần Dân Chúa
được ủy thác cho ngài, linh mục đoàn và các phó tế, những người thánh hiến, và
các giám mục khác, và Giám mục Rôma, và lưu ý đến một định hướng liên tục đối
với sứ mạng.
b) Giám mục, trong Giáo Hội
của mình, là người chịu trách nhiệm chính trong việc loan báo Tin Mừng và phụng
vụ. Ngài hướng dẫn cộng đồng Kitô hữu và thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ cho
những người nghèo khó và bảo vệ những người yếu thế nhất. Là nguyên lý hữu hình
của sự hiệp nhất, ngài đặc biệt có nhiệm vụ phân định và phối hợp các đặc sủng
và thừa tác vụ khác nhau được Chúa Thánh Thần sai đi để loan báo Tin Mừng và
thiện ích chung của cộng đoàn. Thừa tác vụ này được thực hiện theo thể thức
hiệp hành khi việc quản trị đi kèm với đồng trách nhiệm, rao giảng bằng cách
lắng nghe Dân Chúa, và việc thánh hóa cùng cử hành phụng vụ bằng sự khiêm
nhường và hoán cải.
c) Giám mục có một vai trò
không thể thiếu trong việc tạo sức sống và khích lệ quá trình hiệp hành trong
Giáo Hội địa phương, thúc đẩy sự hỗ tương giữa "tất cả, một số và
một". Thừa tác vụ Giám mục "duy nhất ( một)" cần đánh giá cao sự
tham gia của "tất cả" tín hữu, thông qua sự đóng góp của "một
số" người tham gia trực tiếp hơn vào các tiến trình phân định và ra quyết
định. Niềm xác tín mà chính giám mục áp dụng một cách tiếp cận hiệp hành và
phong cách mà ngài thực thi thẩm quyền sẽ ảnh hưởng quyết định đến cách các
linh mục và phó tế, giáo dân nam nữ, và những người trong đời sống thánh hiến,
tham gia vào tiến trình hiệp hành. Giám mục được mời gọi trở thành một mẫu
gương về tính hiệp hành cho tất cả mọi người.
d) Trong những bối cảnh mà
Giáo Hội được coi là gia đình của Thiên Chúa, giám mục được coi như một người
cha của tất cả mọi người; tuy nhiên, có một cuộc khủng hoảng liên quan đến cách
thẩm quyền của ngài được trải nghiệm trong các xã hội thế tục. Điều quan trọng
là đừng đánh mất bản chất bí tích của hàng giám mục, kẻo hình ảnh của giám mục
bị đồng hóa vào hình ảnh của nhà cầm quyền dân sự.
e) Kỳ vọng của các giám mục
thường rất cao, và nhiều giám mục nói về cảm giác quá tải với các cam kết hành
chính và pháp lý, điều này gây khó khăn cho họ trong việc thực hiện đầy đủ sứ
mạng của mình. Vị giám mục cũng phải chấp nhận sự yếu đuối và giới hạn của
chính mình và đôi khi thiếu sự hỗ trợ mà ngài cần, dù là nhân bản hay tâm linh.
Một chút cô đơn nhất định không phải là hiếm. Đó là lý do tại sao, một mặt,
điều quan trọng là phải tái tập trung vào các yếu tố thiết yếu cho sứ mạng của
giám mục, và mặt khác, để vun trồng tình huynh đệ đích thực giữa chính các giám
mục và giữa các giám mục và linh mục của họ.
Các
vấn đề cần xem xét
f) Về mặt thần học, tầm
quan trọng của mối quan hệ hỗ tương giữa giám mục và Giáo Hội địa phương cần
phải được làm sâu sắc hơn nhiều. Ngài được kêu gọi, vừa để hướng dẫn Giáo Hội
địa phương của Ngài, vừa để nhận ra và bảo tồn sự phong phú của lịch sử, truyền
thống và đặc sủng của Giáo Hội.
g) Câu hỏi về mối quan hệ
giữa Bí tích Truyền Chức Thánh và quyền tài phán cần phải được nghiên cứu sâu
hơn. Thông qua cuộc đối thoại với Lumen Gentium - Hiến chế Ánh sáng Muôn Dân và
các giáo huấn gần đây hơn như Tông hiến Praedicate Evangelium, mục đích của một
nghiên cứu như vậy sẽ là làm sáng tỏ các tiêu chuẩn thần học và giáo luật làm
nền tảng cho nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm của giám mục và xác định phạm vi,
hình thức và ý nghĩa của việc đồng trách nhiệm.
h) Một số giám mục bày tỏ
sự không thoải mái khi họ được yêu cầu nói về các vấn đề đức tin và luân lý,
nơi thiếu sự đồng thuận hòa toàn trong trong Hội đồng Giám mục. Cần suy tư thêm
về mối quan hệ giữa tính hợp đoàn giám mục và sự đa dạng của các quan điểm thần
học và mục vụ.
i) Một phần không thể thiếu
trong một Giáo Hội hiệp hành là đảm bảo một nền văn hóa minh bạch và tôn trọng
các thủ tục được thiết lập để bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn
thương. Cần phải phát triển thêm các cấu trúc dành riêng cho việc ngăn ngừa lạm
dụng. Vấn đề nhạy cảm của việc xử lý lạm dụng đặt nhiều giám mục vào tình huống
khó khăn khi phải dung hòa vai trò của người cha với vai trò của thẩm phán.
Việc giao nhiệm vụ tư pháp cho một cơ quan khác, cần được xác định theo giáo
luật, cần được xem xét.
Các
đề nghị
j) Cần phải thực hiện, dưới
các hình thức pháp lý chưa được xác định, các cấu trúc và quy trình để xem xét
định kỳ về chất lượng và hiệu quả hoạt động của một giám mục của giám mục, có
liên quan đến phong cách quyền bính của ngài, quản lý kinh tế tài sản của giáo
phận, và hoạt động của các cơ quan có sự tham vấn, và bảo vệ chống lại tất cả
các loại lạm dụng có thể xảy ra. Văn hóa trách nhiệm giải trình là một phần
không thể thiếu của một Giáo Hội hiệp hành thúc đẩy đồng trách nhiệm, cũng như
bảo vệ chống lại các lạm dụng.
k) Có những lời kêu gọi làm
cho Hội đồng Giám mục (Giáo luật 473, §4), Hội đồng Mục vụ Giáo phận và Hội
đồng Mục vụ Eparchial (CIC can. 511, CCEO can 272) trở nên bắt buộc, và làm cho
các cơ quan giáo phận thực hiện đồng trách nhiệm hiệu quả hơn, bao gồm cả về
mặt pháp lý.
l) Hội nghị kêu gọi xem xét
lại các tiêu chí để lựa chọn các ứng cử viên cho hàng giám mục, cân bằng thẩm
quyền của Sứ thần Tòa Thánh với sự tham gia của các Hội đồng Giám mục. Cũng có
những yêu cầu mở rộng tham vấn với Dân Chúa trung thành, và liên quan đến một
số lượng lớn hơn giáo dân và những người tận hiến trong quá trình tham vấn, cẩn
thận để tránh bị đặt dưới bất kỳ áp lực quá mức nào trong quá trình lựa chọn.
m) Nhiều giám mục bày tỏ sự
cần thiết phải suy nghĩ lại về chức năng và củng cố cấu trúc của các tổng giáo
phận (giáo tỉnh) và các khu vực, để chúng có thể trở thành những biểu hiện cụ
thể của tính hợp đoàn trong một lãnh thổ và, thông qua tình huynh đệ, hỗ trợ
lẫn nhau, minh bạch và tham vấn rộng rãi hơn, trở thành những thực hành phổ
biến giữa các giám mục.
13. Giám mục Rôma trong Giám
mục đoàn
Đúc
kết ý kiến
a) Động lực hiệp hành cũng
làm sáng tỏ thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Thật vậy, tính hiệp hành diễn tả hài
hòa các chiều kích cộng đồng ("tất cả"), hợp đoàn ("một
số") và cá nhân ("một") của Giáo Hội ở cấp địa phương, khu vực
và phổ quát. Trong một tầm nhìn như vậy, thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma là
bản chất động lực hiệp hành, cũng như khía cạnh cộng đoàn bao gồm toàn thể Dân
Chúa và chiều kích hợp đoàn của việc thi hành thừa tác vụ Giám mục. Do đó, tính
hiệp hành, tính hợp đoàn và quyền bính có liên quan đến nhau: quyền bính giả
định việc thực hiện tính hiệp hành và tính hợp đoàn, giống như cả hai đều ngụ ý
việc thực hiện quyền bính.
b) Thúc đẩy sự hiệp nhất
của tất cả các Kitô hữu là một khía cạnh thiết yếu của thừa tác vụ của Giám mục
Rôma. Hành trình đại kết đã làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về thừa tác vụ của
Người Kế Vị Thánh Phêrô và phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Những
phản hồi đối với lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II trong thông điệp Ut unum
sint, cũng như các kết luận của các cuộc đối thoại đại kết, có thể giúp Công
giáo hiểu được quyền bính, tính hợp đoàn, tính đồng nghị và các mối quan hệ hỗ
tương của chúng.
c) Cải cách Giáo triều Rôma
là một khía cạnh quan trọng trong hành trình hiệp hành của Giáo Hội Công giáo.
Tông Hiến Praedicate evangelium nhấn mạnh rằng "Giáo triều Rôma không đứng
giữa Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, thay vào đó Giáo Triều tự đặt mình vào
việc phục vụ cả hai theo những cách thức phù hợp với bản chất của mỗi bên"
(EP I.8). Nó thúc đẩy cải cách dựa trên "đời sống hiệp thông" (EP
I.4) và "phân quyền lành mạnh" (EP II.2). Thực tế cho thấy việc nhiều
thành viên của các bộ Rôma là các Giám mục giáo phận thể hiện tính công giáo
của Giáo Hội và nên thúc đẩy mối quan hệ giữa Giáo triều và các Giáo Hội địa
phương. Việc thực hiện hiệu quả Tông hiến Predicate evangelium có thể thúc đẩy
tính hiệp hành lớn hơn trong Giáo triều cả giữa các bộ khác nhau và trong mỗi
bộ.
Các
vấn đề cần xem xét
d) Cần có thêm nhận thức
sâu sắc hơn về việc cách hiểu biết mới về hàng giám mục trong một Giáo Hội hiệp
hành ảnh hưởng đến thừa tác vụ của Giám mục Rôma và vai trò của Giáo triều Rôma
như nào. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với cách sống đồng trách nhiệm
trong việc quản trị Giáo Hội. Ở cấp độ phổ quát, Bộ luật Giáo Luật và Bộ Giáo
luật của các Giáo Hội Đông phương cung cấp các điều khoản cho việc thực hiện sứ
vụ giáo hoàng mang tính hợp đoàn hơn. Những điều này có thể được phát triển hơn
nữa trong thực tiễn và được củng cố trong bản cập nhật trong tương lai của cả
hai văn kiện.
e) Tính hiệp hành có thể
làm sáng tỏ những cách thức mà các Hồng y có thể cộng tác trong thừa tác vụ
Phêrô và những cách thức mà sự phân định hợp đoàn của họ có thể được thúc đẩy
trong các công nghị thường kỳ và ngoại thường.
f) Điều quan trọng đối với
lợi ích của Giáo Hội là nghiên cứu những cách thích hợp nhất để thúc đẩy sự
hiểu biết lẫn nhau và các mối dây hiệp thông giữa các thành viên của Hồng y
đoàn, đồng thời cũng lưu ý đến sự đa dạng về nguồn gốc và văn hóa của họ.
Đề
nghị
g) Các chuyến thăm Tông Tòa
ad limina Apostolorum là khoảnh khắc tối cao trong mối quan hệ giữa các mục tử
của các Giáo Hội địa phương với Giám mục Rôma và các cộng tác viên thân cận
nhất của ngài trong Giáo triều Rôma. Cần phải xem lại hình diễn ra các cuộc
thăm viếng này để chúng luôn trở thành dịp trao đổi cởi mở và hỗ tương, thúc
đẩy sự hiệp thông và thực hành thực sự tính hợp đoàn và tính hiệp hành.
h) Dưới ánh sáng của cấu
trúc hiệp hành trong Giáo Hội, các bộ của Giáo triều Rôma cần tăng cường tham
khảo ý kiến của các giám mục, chú ý nhiều hơn đến sự đa dạng của các tình huống
và lắng nghe chú tâm hơn tiếng nói của các Giáo Hội địa phương.
i) Có vẻ thích hợp để thiết
lập các hình thức đánh giá công việc của các Đại diện Giáo hoàng bởi các Giáo
Hội địa phương tại các quốc gia nơi họ thực hiện sứ mạng của mình để tạo
điều kiện và hoàn thiện
việc phục vụ của họ.
j) Được đề xuất làm tăng
cường và củng cố kinh nghiệm của Hội Đồng Hồng Y (C-9) như là một hội đồng đồng
hành phục vụ.
k) Dưới ánh sáng của giáo
huấn của Công đồng Vatican II, cần phải đánh giá cẩn thận liệu có thích hợp để
tấn phong các giám sĩ của Giáo triều Rôma làm giám mục hay không.
PHẦN
III:
DỆT NÊN LIÊN KẾT, XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN
14. Một cách tiếp cận đào tạo
theo tinh thần hiệp hành
Đúc
kết ý kiến
a) Bất kỳ ai đã chịu phép
rửa tội đều được mời gọi chăm sóc việc đào tạo của chính mình để đáp lại các
hồng ân Chúa ban, sử dụng những tài năng để sinh hoa trái và phục vụ tất cả mọi
người. Thời gian Chúa Giêsu dành riêng cho việc đào tạo các môn đệ của Người
cho thấy tầm quan trọng của việc đào tạo mang chiều kích Giáo Hội này. Điều này
thường xảy ra trong âm thầm nhưng lại mang tính quyết định cho sứ mạng. Chúng
tôi muốn bày tỏ một lời cảm ơn và khích lệ đối với tất cả những người đang dấn
thân vào công việc này và mời gọi họ chào đón những định hướng mới liên quan
đến việc đào tạo nảy sinh từ hành trình hiệp hành của Giáo Hội.
b) Cách Chúa Giêsu đào tạo
các môn đệ trở thành mẫu mực mà chúng ta cần phải noi theo. Ngài không chỉ
truyền đạt sự giảng dạy mà còn chia sẻ cuộc sống của Ngài với họ. Qua ví dụ về
gương mẫu cầu nguyện của chính Ngài, các ông đã thỉnh cầu: 'Xin dạy chúng con
cầu nguyện'. Bằng cách cho đám đông ăn, Ngài dạy họ đừng gạt bỏ những người
túng thiếu. Bằng cách đi đến Giêrusalem, Ngài đã chỉ đường đến Thập tự giá. Từ
Tin Mừng, chúng ta biết rằng việc đào tạo không chỉ hoặc chủ yếu là củng cố khả
năng của bản thân; đó là một sự hoán cải theo logic của Nước Trời có thể làm
cho ngay cả thất bại và sai lầm cũng mang lại kết quả.
c) Dân Thánh của Thiên Chúa
không chỉ là đối tượng mà trước hết và trên hết là chủ thể đồng trách nhiệm của
việc đào tạo. Đào tạo đầu tiên, trên thực tế, diễn ra trong gia đình. Chính ở
đây mà chúng ta thường nhận được lời công bố đầu tiên về đức tin bằng ngôn ngữ
- thực sự bằng phương ngữ - của cha mẹ và ông bà của chúng ta. Do đó, những
người thi hành thừa tác vụ trong Giáo Hội phải đan xen sự đóng góp của họ với
sự khôn ngoan của tất cả Dân Chúa trung thành trong một sự hợp tác không thể
thiếu đối với cộng đoàn. Đây là dấu hiệu đầu tiên của một sự đào tạo được hiểu
theo nghĩa hiệp hành.
d) Trong sự khai tâm Kitô
giáo, chúng ta tìm thấy hướng dẫn về cách đi trên con đường đào tạo của mình.
Trọng tâm của việc đào tạo Kitô giáo là đào sâu kerygma, nghĩa là cuộc gặp gỡ
với Chúa Giêsu Kitô mang lại cho chúng ta hồng ân của một cuộc sống mới. Logic
giáo lý dự tòng nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân
được mời gọi nên thánh. Đây là lý do tại sao chúng ta dấn thân vào một cuộc
hành trình hướng tới sự hoán cải cá nhân mà Bí Tích Hòa Giải mang lại sự hoàn
thành. Đây cũng là lý do tại sao chúng ta nuôi dưỡng ước muốn nên thánh, được
hỗ trợ bởi rất nhiều các chứng nhân.
e) Có rất nhiều lĩnh vực mà
Dân Chúa cần được đào tạo. Ngoài việc đào tạo thần học, Hội Nghị yêu cầu đào
tạo các kỹ năng cụ thể: thực hiện đồng trách nhiệm, lắng nghe và phân định;
tiến hành đối thoại đại kết và liên tôn, phục vụ người nghèo nhất và chăm sóc
ngôi nhà chung của chúng ta; tham gia với tư cách là "những nhà truyền
giáo kỹ thuật số", tạo điều kiện thuận lợi cho các tiến trình phân định,
Đối thoại trong Thần khí, xây dựng sự đồng thuận và giải quyết xung đột. Cũng
cần chú ý đặc biệt đến việc đào tạo giáo lý cho trẻ em và thanh thiếu niên, vốn
cần có sự tham gia tích cực của cộng đoàn.
f) Việc đào tạo cho một
Giáo Hội hiệp hành cần phải được thực hiện một cách hiệp hành: toàn thể Dân
Chúa được đào tạo cùng nhau khi họ cùng nhau hành trình. Cần phải vượt qua tư
duy 'ủy quyền' được tìm thấy trong rất nhiều lĩnh vực của thừa tác vụ mục vụ.
Việc đào tạo theo đường lối hiệp hành có nghĩa là giúp Dân Chúa sống ơn gọi rửa
tội của họ một cách trọn vẹn, trong gia đình, tại nơi làm việc, trong các lĩnh
vực Giáo Hội, xã hội và trí thức. Nó có nghĩa là giúp mỗi người tham gia tích
cực vào sứ mạng của Giáo Hội theo các đặc sủng và ơn gọi của riêng mình.
Các
vấn đề cần xem xét
g) Chúng tôi đề nghị tiến
hành công việc về giáo dục mối quan hệ và giới tính để đồng hành với người trẻ
khi họ trưởng thành trong nhận thức cá nhân và bản sắc giới tính của mình và để
hỗ trợ sự trưởng thành của những người được kêu gọi sống độc thân và khiết tịnh
thánh hiến. Đào tạo trong các lĩnh vực này là một trợ giúp cần thiết ở tất cả
mọi giai đoạn của cuộc sống.
h) Điều quan trọng là phải
đào sâu cuộc đối thoại giữa lĩnh vực khoa học nhân văn, đặc biệt là tâm lý học
và thần học, nhằm hiểu được kinh nghiệm nhân sinh không chỉ đặt các phương pháp
này cạnh nhau mà còn tích hợp chúng vào một tổng hợp trưởng thành hơn.
i) Dân Chúa cần được đại
diện rộng rãi trong các chương trình đào tạo thừa tác vụ phó tế và linh mục,
như đã được các Thượng Hội đồng trước đây yêu cầu. Do đó, chúng ta cần xem xét
kỹ lưỡng các chương trình đào tạo, đặc biệt chú ý đến cách chúng ta có thể thúc
đẩy sự đóng góp của phụ nữ và gia đình vào các chương trình đó.
j) Các Hội đồng Giám mục
được khuyến khích hợp tác cùng nhau ở cấp khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào
tạo và học tập suốt đời, sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc
phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.
Đề
nghị
k) Dưới ánh sáng của tính
hiệp hành, chúng tôi đề xuất rằng cần ưu tiên cho việc cung cấp các chương
trình được thiết kế và dành cho việc đào tạo chung toàn thể Dân Chúa (giáo dân,
tu sĩ và giáo sĩ ). Các giáo phận nên cố gắng khuyến khích các dự án này trong
các Giáo Hội địa phương. Chúng tôi khuyến khích các Hội đồng Giám mục làm việc
cùng nhau ở cấp khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào tạo liên tục, sử dụng tất
cả các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.
l) Một loạt các thành viên
của Dân Chúa nên được đại diện trong các chương trình đào tạo cho các thừa tác
vụ phó tế và linh mục, như đã được yêu cầu bởi các Thượng Hội đồng trước. Sự
tham gia của phụ nữ có tầm quan trọng đặc biệt.
m) Cần áp dụng các tiêu
chuẩn và quy trình thích hợp để lựa chọn các ứng cử viên cho thừa tác vụ tư tế
để đảm bảo rằng các yêu cầu cho năm tu đức cho các chủng sinh được đáp ứng.
n) Việc đào tạo nên được
thiết kế theo cách phù hợp với một Giáo Hội hiệp hành trong các bối cảnh địa
phương khác nhau. Trước khi bước vào những con đường cụ thể, các ứng viên nên
có một kinh nghiệm quan trọng, mặc dù ban đầu, về cuộc sống trong một cộng đoàn
Kitô hữu. Việc đào tạo không nên tạo ra một môi trường nhân tạo tách biệt với
cuộc sống bình thường của các tín hữu. Bằng cách bảo vệ những yêu cầu của việc
đào tạo thừa tác vụ, chúng ta có thể thúc đẩy một tinh thần phục vụ chân thành
cho Dân Chúa trong việc rao giảng, cử hành các bí tích và thực thi bác ái. Điều
này có thể đòi hỏi phải sửa đổi Ratio fundamentalis cho các linh mục và phó tế
vĩnh viễn.
o) Để chuẩn bị cho kỳ họp
tiếp theo của Thượng Hội đồng, một cuộc tham vấn ý kiến của những người chịu
trách nhiệm về việc đào tạo sơ khởi và thường huấn của các linh mục nên được
thực hiện để đánh giá tiến trình hiệp hành đang được tiếp nhận như thế nào và
đề xuất những thay đổi sẽ thúc đẩy việc thực thi thẩm quyền theo đường lối phù
hợp với một Giáo Hội hiệp hành.
15. Sự phân định của Giáo Hội
và những câu hỏi mở
Đúc
kết ý kiến
a) Kinh nghiệm về Đối Thoại
trong Thần Khí đã làm phong phú cho tất cả những người tham gia. Phong cách
giao tiếp của chúng tôi, ưu tiên tự do trong việc bày tỏ quan điểm và lắng nghe
lẫn nhau, được đánh giá rất cao. Nó giúp cho chúng ta tránh di chuyển quá nhanh
đến một cuộc tranh luận dựa trên việc lặp lại quan điểm của chính mình mà không
lắng nghe trước tiên lý lẽ ủng hộ quan điểm của người khác.
b) Cách tiếp cận cơ bản này
tạo ra một bối cảnh cho phép xem xét cẩn thận các vấn đề gây tranh cãi trong
Giáo Hội, chẳng hạn như các tác động về nhân học của các công nghệ kỹ thuật số
và trí tuệ nhân tạo, bất bạo động và tự vệ hợp pháp, các vấn đề liên quan đến
thừa tác vụ, và các vấn đề liên quan đến tính dục và "thân xác",
trong số những vấn đề khác.
c) Để phát triển sự phân
định đích thực của Giáo Hội trong những lãnh vực này và các lĩnh vực khác, cần
phải tiếp cận những câu hỏi này dưới ánh sáng của Lời Chúa và giáo huấn của
Giáo Hội, được nhận biết và suy tư đúng đắn. Để tránh lặp lại các công thức
trống rỗng, chúng ta cần tạo cơ hội cho một cuộc đối thoại liên quan đến khoa
học xã hội và nhân văn, cũng như suy tư triết học và thần học.
d) Trọng tâm của nhiều vấn
đề gây tranh cãi này là câu hỏi về mối quan hệ giữa tình yêu và sự thật và tác
động của điều này đối với nhiều vấn đề gây tranh cãi. Mối quan hệ này, trước
khi được coi là một thách thức, thực sự được coi là một ân sủng được mặc khải
trong Chúa Kitô. Vì Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa được tìm thấy trong các
Thánh vịnh: "Tình yêu và sự thật sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ bao
trùm. Sự thật sẽ nảy mầm từ trái đất và công lý sẽ đến từ trời cao" (Tv
85,11-12).
e) Một số đoạn Tin Mừng
tiết lộ rằng Chúa Giêsu gặp gỡ con người trong sự độc đáo của câu chuyện và
hoàn cảnh cá nhân của họ. Ngài không bao giờ bắt đầu từ quan điểm của những
thành kiến hay nhãn mác, nhưng từ tính xác thực của mối tương quan mà ngài cam
kết toàn tâm toàn ý, ngay cả khi phải trả giá bằng việc trải qua sự hiểu lầm và
từ chối. Chúa Giêsu luôn lắng nghe tiếng kêu cứu của những người cần giúp, ngay
cả trong những tình huống mà nó không được bày tỏ. Ngài đến với họ bằng các cử
chỉ truyền đạt tình yêu và khôi phục sự lòng tin; Ngài làm cho sự sống mới có
thể xảy ra với sự hiện diện của Ngài: những ai gặp Ngài ra đi đều được biến
đổi. Điều này xảy ra bởi vì sự thật mà Chúa Giêsu là người mang lại không phải
là một ý tưởng, nhưng là chính sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta; và
tình yêu mà Người hành động không chỉ là một cảm giác, nhưng là công lý của
Nước Trời làm thay đổi lịch sử.
f) Chúng ta chỉ có thể hỗ
trợ người khác nếu chính mình đang trải qua sự hoán cải, cả cá nhân lẫn cộng
đồng. Khó khăn chúng ta gặp phải trong việc diễn tả tầm nhìn Tin Mừng rõ ràng
của Chúa Giêsu thành những lựa chọn mục vụ là một dấu hiệu của cuộc đấu tranh
để sống theo Tin Mừng. Nếu chúng ta sử dụng giáo lý một cách khắc nghiệt và với
thái độ phán xét, chúng ta phản bội Tin Mừng; nếu chúng ta thực hành lòng
thương xót 'rẻ tiền', chúng ta không truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa. Sự
hiệp nhất giữa chân lý và tình yêu bao hàm việc gánh vác những khó khăn của
người khác, thậm chí biến chúng thành khó khăn của chính mình, như điều xảy ra
giữa anh chị em. Tuy nhiên, sự hiệp nhất này chỉ có thể đạt được bằng cách kiên
nhẫn đi theo con đường đồng hành.
g) Một số vấn đề, chẳng hạn
như những vấn đề liên quan đến danh tính và tính dục, giai đoạn cuối cuộc đời,
các tình huống hôn nhân phức tạp và các vấn đề đạo đức liên quan đến trí tuệ
nhân tạo, đang gây tranh cãi không chỉ trong xã hội, mà còn trong Giáo Hội, vì
chúng đặt ra những câu hỏi mới. Đôi khi các phạm trù nhân học mà chúng ta đã
phát triển không thể nắm bắt được sự phức tạp của các yếu tố xuất hiện từ kinh
nghiệm hoặc kiến thức trong khoa học và đòi hỏi độ chính xác cao hơn và nghiên
cứu sâu hơn. Điều quan trọng là phải dành thời gian cần thiết cho suy tư này và
đầu tư năng lượng tốt nhất của chúng ta vào nó, mà không đầu hàng trước những
phán xét đơn giản làm tổn thương các cá nhân và Thân thể của Giáo Hội. Giáo
huấn của Giáo Hội đã cung cấp một ý thức hướng dẫn về nhiều vấn đề này, nhưng
giáo huấn này rõ ràng vẫn đòi hỏi phải diễn tả trong thực hành mục vụ. Ngay cả
khi cần phải làm sáng tỏ thêm, hành động của Chúa Giêsu, được đồng hóa trong
lời cầu nguyện và hoán cải tâm hồn, chỉ cho chúng ta con đường phía trước.
Các
vấn đề cần xem xét
h) Cần phải tiếp tục suy tư
về sự gắn kết nguyên thủy giữa tình yêu và chân lý tuôn chảy từ mạc khải Kitô
học, với quan điểm về một thực hành Giáo Hội trung thành với những nguồn gốc
này.
i) Chúng tôi khuyến khích
các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau kết hợp kiến thức chuyên môn của họ
với đời sống tâm linh cá nhân để những đóng góp của họ thực sự phục vụ Giáo
Hội. Ý nghĩa của tính hiệp hành trong bối cảnh này là sự sẵn sàng cùng nhau suy
nghĩ phục vụ sứ mạng truyền giáo trong những bối cảnh khác nhau, nhưng vẫn chia
sẻ một mục đích, định hướng chung.
j) Chúng tôi xác định nhu
cầu suy tư về các điều kiện cho phép nghiên cứu thần học và văn hóa lấy điểm
khởi đầu là kinh nghiệm hàng ngày của Dân Thánh của Thiên Chúa và đặt mình vào
việc phục vụ.
Đề
nghị
k) Chúng tôi đề nghị rằng
các sáng kiến cho phép chia sẻ sự phân định về các vấn đề giáo lý, mục vụ và
đạo đức gây tranh cãi nên được phát triển, dưới ánh sáng của Lời Chúa, giáo
huấn của Giáo Hội, suy tư thần học và đánh giá cao kinh nghiệm hiệp hành. Điều
này có thể được thực hiện thông qua các cuộc thảo luận chuyên sâu giữa các
chuyên gia với các kỹ năng và nền tảng đa dạng, trong một môi trường thể chế
bảo vệ tính bảo mật và thúc đẩy thảo luận thẳng thắn. Khi thích hợp, nó cũng
nên liên quan đến những người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các vấn đề đang được
xem xét. Những sáng kiến như vậy nên được đưa ra trước Kỳ họp tiếp theo của
Thượng Hội đồng.
16. Hướng tới một Giáo Hội
lắng nghe và đồng hành
Đúc
kết ý kiến
a) Trong hai năm đầu tiên
của hành trình hiệp hành, kể cả trong Hội Nghị, lắng nghe là từ diễn tả tốt
nhất kinh nghiệm của chúng ta. Đó là sự lắng nghe, cho và nhận. Lắng nghe là
một thực tại nhân bản sâu sắc, một động lực của sự hỗ tương trong đó mỗi người
đóng góp vào hành trình của người khác trong khi nhận được sự đóng góp cho hành
trình của chính mình.
b) Nhiều người đã tham gia
vào tiến trình hiệp hành ở cấp địa phương, và đặc biệt là những người đã phải
chịu đựng những hình thức bị gạt ra bên lề Giáo Hội hoặc xã hội đã rất ngạc
nhiên trước lời mời gọi nói lên suy nghĩ và được lắng nghe trong Giáo Hội và
bởi Giáo Hội. Được lắng nghe sâu sắc là một kinh nghiệm khẳng định và công nhận
phẩm giá, và là một cách mạnh mẽ để thu hút mọi người và cộng đồng.
c) Đặt Chúa Giêsu vào trung
tâm cuộc sống của chúng ta đòi hỏi một mức độ tự từ bỏ nào đó. Theo quan điểm
này, lắng nghe có nghĩa là sẵn sàng ‘ đưa mình ra khỏi trung tâm chú ý' để dành
không gian cho người khác. Chúng ta đã trải nghiệm điều này trong sự năng động
của các cuộc đối thoại trong Chúa Thánh Thần. Đây là một bài tập tu đức đòi hỏi
bắt buộc mỗi người phải nhận ra những hạn chế của chính mình và tính chủ quan
trong quan điểm của mình. Vì lý do này, nó mở ra khả năng lắng nghe tiếng nói
của Thần Khí Thiên Chúa nói với những người bên ngoài biên giới của cộng đồng
Giáo Hội, và có thể bắt đầu một hành trình thay đổi và hoán cải.
d) Lắng nghe có một ý nghĩa
Kitô học; nó có nghĩa là áp dụng thái độ của Chúa Giêsu đối với những người
Ngài gặp gỡ (x. Pl 2,6-11). Nó cũng có một giá trị Giáo Hội học, vì chính Giáo
Hội đang lắng nghe qua hành động của những người đã được rửa tội, những người
hành động không chỉ nhân danh họ mà còn nhân danh cộng đoàn.
e) Giáo Hội đã gặp gỡ nhiều
người và các nhóm dọc theo tiến trình hiệp hành yêu cầu được lắng nghe và đồng
hành. Trước hết, chúng tôi đề cập đến những người trẻ, những người mà yêu cầu
lắng nghe và đồng hành của họ đã gây được tiếng vang mạnh mẽ trong Thượng Hội
đồng dành riêng cho họ (2018) và trong Đại hội này, xác nhận sự cần thiết phải
có một lựa chọn ưu tiên cho người trẻ.
f) Giáo Hội cần lắng nghe
với sự quan tâm và nhạy cảm đặc biệt đối với tiếng nói của các nạn nhân và
những người sống sót sau sự lạm dụng tình dục, tinh thần, kinh tế, thể chế,
quyền lực và lương tâm của các thành viên giáo sĩ hoặc những người được Giáo Hội
bổ nhiệm. Lắng nghe đích thực là một yếu tố cơ bản của con đường chữa lành, ăn
năn, công lý và hòa giải.
g) Hội nghị bày tỏ sự gần
gũi và hỗ trợ cho tất cả những ai chấp nhận ở một mình như một lựa chọn được
thực hiện trong sự trung thành với Truyền thống và Huấn quyền của Giáo Hội về
hôn nhân và đạo đức tính dục, mà họ nhận ra là nguồn sống. Các cộng đồng Kitô
hữu được mời gọi gần gũi với họ, lắng nghe họ và đồng hành với họ trong cam kết
của họ.
h) Theo những cách khác
nhau, những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ khỏi Giáo Hội vì
tình trạng hôn nhân, căn tính hoặc tính dục của họ cũng yêu cầu được lắng nghe
và đồng hành. Có một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu, lòng thương xót và lòng trắc
ẩn được cảm nhận trong Hội nghị đối với những người đang hoặc cảm thấy bị tổn
thương hoặc bị Giáo Hội bỏ rơi, những người muốn có một nơi để gọi là
"nhà" nơi họ có thể cảm thấy an toàn, được lắng nghe và tôn trọng, mà
không sợ cảm thấy bị phán xét. Lắng nghe là điều kiện tiên quyết để cùng nhau
bước đi tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa. Đại hội nhắc lại rằng các Kitô hữu phải
luôn thể hiện sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người.
i) Những người chịu đựng
nhiều hình thức nghèo đói, loại trừ và gạt ra bên lề xã hội khác nhau trong các
xã hội bất bình đẳng của chúng ta cũng quay về với Giáo Hội để tìm kiếm tình
yêu, lắng nghe và đồng hành. Việc lắng nghe này cho phép Giáo Hội hiểu được
thực tại của nghèo đói và bị gạt ra bên lề, và đến gần gũi trong tình bạn với
những người đau khổ. Điều quan trọng là nó cũng cho phép Giáo Hội được rao
giảng Tin Mừng bởi những người đau khổ. Lắng nghe họ cho phép Giáo Hội hiểu
quan điểm của họ và đặt mình một cách cụ thể bên cạnh họ, và được họ rao giảng
Tin Mừng. Chúng tôi cảm ơn và khuyến khích tất cả những người đang tham gia vào
việc phục vụ lắng nghe và đồng hành với những người đang ở trong tù. Đặc biệt,
họ cần cảm nghiệm được tình yêu thương xót của Chúa và không cảm thấy bị cô lập
khỏi cộng đoàn. Thay mặt Giáo Hội, họ nhận ra những lời của Chúa "Ta ở
trong tù và các con đến thăm Ta" (Mt 25,36).
j) Nhiều người trải qua một
tình trạng cô đơn gần như bị bỏ rơi. Người già và người bệnh thường trở nên vô
hình trong xã hội. Chúng tôi khuyến khích các giáo xứ và cộng đồng Kitô hữu gần
gũi với họ và lắng nghe họ. Những việc làm của lòng thương xót được gợi hứng
bởi những lời Tin Mừng "Tôi bị bệnh và anh đến thăm tôi" (Mt 25,39)
có một ý nghĩa sâu xa đối với những người liên quan và thúc đẩy các mối liên
kết rộng lớn hơn của cộng đồng.
k) Cuối cùng, Giáo Hội muốn
lắng nghe tất cả mọi người, không chỉ những người có thể dễ dàng làm cho tiếng
nói của họ được lắng nghe nhất. Ở một số vùng, vì lý do văn hóa và xã hội, các
thành viên của một số nhóm nhất định, chẳng hạn như giới trẻ, phụ nữ và các
nhóm thiểu số, có thể thấy khó khăn hơn để tự do bày tỏ ý kiến trong không gian
công cộng hoặc Giáo Hội. Sống dưới các chế độ áp bức và độc tài cũng làm xói
mòn sự tự do này. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi việc thực thi quyền bính
trong cộng đồng Kitô hữu trở nên áp bức hơn là giải phóng.
Các
vấn đề cần xem xét
l) Việc lắng nghe đòi hỏi
sự chấp nhận vô điều kiện. Nó không có nghĩa là thỏa hiệp việc loan báo Tin
Mừng hoặc tán thành bất kỳ ý kiến hoặc lập trường nào được đề xuất. Chúa Giêsu
đã mở ra những chân trời và nẻo đường mới cho những người mà Ngài lắng nghe vô
điều kiện, và để chia sẻ Tin Mừng cứu độ với những người chúng ta gặp gỡ, chúng
ta được mời gọi làm như vậy.
m) Phổ biến ở nhiều nơi
trên thế giới, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ thúc đẩy các thực hành lắng nghe và
giữa những người đã được rửa tội. Chúng ta được kêu gọi nâng cao tiềm năng của
họ, đặc biệt, đặc biệt bằng cách tìm hiểu làm thế nào họ có thể được thích nghi
với các bối cảnh đô thị.
Đề
nghị
n) Điều gì sẽ cần phải thay
đổi để những người cảm thấy bị loại trừ để cảm nghiệm Giáo Hội là một nơi mở
cửa đón nhận nhiều hơn? Lắng nghe và đồng hành là một hình thức hành động của
Giáo Hội, không chỉ là hành động của các cá nhân. Do đó, chúng phải tìm một chỗ
đứng trong kế hoạch mục vụ thông thường và cơ cấu hoạt động của các cộng đồng
Kitô hữu ở các cấp độ khác nhau, tận dụng triệt để sự đồng hành thiêng liêng.
Một Giáo Hội hiệp hành cần phải là một Giáo Hội lắng nghe và cam kết này phải
được chuyển thành thực hành.
o) Chúng tôi không bắt đầu
công việc này từ con số không. Nhiều tổ chức và cơ cấu thực hiện nhiệm vụ giá
trị là lắng nghe, bao gồm công việc đồng hành của Caritas giữa những người
nghèo nhất, và giữa những người di cư và tị nạn, và nhiều bối cảnh đồng hành
khác liên quan đến đời sống thánh hiến hoặc các hiệp hội giáo dân. Kết nối công
việc của họ một cách toàn diện hơn với cộng đồng Giáo Hội địa phương cho phép
công việc này được xem như là một phần của cuộc sống của toàn thể cộng đồng,
chứ không phải là một nhiệm vụ được ủy thác.
p) Những người thực hiện
việc lắng nghe và đồng hành, dưới nhiều hình thức khác nhau, cần được đào tạo
đầy đủ, tính đến kinh nghiệm của những người họ tiếp xúc. Họ cũng cần cảm thấy
được cộng đồng hỗ trợ. Về phần mình, các cộng đoàn nên ý thức đầy đủ về ý nghĩa
của việc phục vụ này được thực hiện thay mặt cho họ và đón nhận thành quả của
việc lắng nghe này. Chúng tôi đề nghị thành lập một thừa tác vụ lắng nghe và
đồng hành để nâng cao tầm quan trọng của sự phục vụ này. Nó nên được đặt nền
tảng trong phép rửa và thích nghi với các bối cảnh khác nhau. Cách thức trao
chức vụ này nên thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng.
q) SECAM (Hội nghị chuyên
đề của các Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar) được khuyến khích thúc đẩy
sự phân định thần học và mục vụ về vấn đề đa thê và việc đồng hành của những
người trong các cuộc hôn nhân đa thê đến với đức tin.
17. Truyền giáo trong môi
trường kỹ thuật số
Đúc
kết ý kiến
a) Văn hóa kỹ thuật số đại
diện cho một sự thay đổi cơ bản trong cách chúng ta nhận thức về thực tại và do
đó liên quan đến chính chúng ta, với nhau, môi trường xung quanh và thậm chí
với Thiên Chúa. Môi trường kỹ thuật số thay đổi quá trình học tập cũng như nhận
thức của chúng ta về thời gian, không gian, cơ thể chúng ta, mối quan hệ giữa
các cá nhân và thậm chí là phần lớn cách suy nghĩ của chúng ta. Sự phân biệt
giữa thực và ảo không mô tả đầy đủ thực tế và trải nghiệm của con người, đặc
biệt là thế hệ trẻ, còn được gọi là "người bản địa kỹ thuật số".
b) Do đó, văn hóa kỹ thuật
số không phải là một lĩnh vực truyền giáo riêng biệt mà là một chiều kích quan
trọng của sự làm chứng của Giáo Hội trong văn hóa đương đại. Đây là lý do tại
sao nó có ý nghĩa đặc biệt trong một Giáo Hội hiệp hành.
c) Các nhà truyền giáo luôn
đi với Chúa Kitô đến những vùng ngoại vi mới, trong khi Chúa Thánh Thần thúc
đẩy và đi trước họ. Việc của chúng ta là tiếp cận văn hóa ngày nay trong tất cả
các không gian nơi con người tìm kiếm ý nghĩa và tình yêu, bao gồm cả những
không gian họ bước vào thông qua điện thoại di động và máy tính bảng của họ.
d) Chúng ta không thể rao
giảng Tin mừng trong nền văn hóa kỹ thuật số nếu không hiểu nó trước. Giới trẻ,
và trong số họ, các chủng sinh, linh mục trẻ, và những người nam nữ trẻ tận
hiến, những người thường có kinh nghiệm sâu sắc và trực tiếp về nó, là những
người thích hợp nhất để thực hiện sứ mạng của Giáo Hội trong môi trường kỹ
thuật số, cũng như đồng hành với phần còn lại của cộng đồng, bao gồm cả các mục
tử, trong việc làm quen với các động lực của nó.
e) Trong tiến trình hiệp
hành, các sáng kiến về "Thượng Hội đồng kỹ thuật số" ("Dự án
Giáo Hội lắng nghe bạn") cho thấy tiềm năng của môi trường kỹ thuật số
được tiếp cận trong truyền giáo, sự sáng tạo và quảng đại của những người tham
gia vào nó, và tầm quan trọng của việc cung cấp cho họ sự đào tạo, đồng hành và
cơ hội thảo luận và hợp tác giữa bạn bè.
Các
vấn đề cần xem xét
f) Internet ngày càng hiện
diện trong cuộc sống của trẻ em và gia đình. Mặc dù nó có tiềm năng lớn để cải
thiện cuộc sống của mọi người, nhưng nó cũng có thể gây hại và tổn thương,
chẳng hạn như qua đe dọa, thông tin sai lệch, bóc lột tình dục và nghiện ngập.
Có một nhu cầu cấp thiết xem xét làm thế nào cộng đồng Kitô hữu có thể hỗ trợ
các gia đình trong việc đảm bảo rằng không gian trực tuyến không chỉ an toàn mà
còn mang lại sự sống về mặt thiêng liêng.
g) Có nhiều sáng kiến trực
tuyến có giá trị và hữu ích liên quan đến Giáo Hội cung cấp giáo lý và đào tạo
đức tin tuyệt vời. Thật không may, cũng có những trang web nơi các vấn đề liên
quan đến đức tin được đề cập một cách hời hợt, phân cực và thậm chí đầy thù
hận. Là một Giáo Hội và là những người truyền giáo kỹ thuật số cá nhân, chúng
ta có bổn phận phải tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm rằng sự hiện
diện trực tuyến của chúng ta tạo thành một kinh nghiệm mang lại sự phát triển
về mặt tâm linh, đức tin cho những người mà chúng ta giao tiếp.
h) Các sáng kiến tông đồ
trực tuyến có phạm vi và quy mô vượt ra ngoài ranh giới lãnh thổ được hiểu theo
truyền thống. Điều này đặt ra những câu hỏi quan trọng về cách chúng có thể
được quy định và cơ quan Giáo Hội nào phải chịu trách nhiệm giám sát.
i) Chúng ta cũng phải xem
xét những tác động của vùng ngoại vi truyền giáo kỹ thuật số mới đối với việc
đổi mới các cấu trúc giáo xứ và giáo phận hiện có. Trong một thế giới ngày càng
kỹ thuật số, làm thế nào để chúng ta tránh bị mắc kẹt trong một tư duy chỉ tìm
cách bảo tồn những gì chúng ta đang làm và thay vào đó giải phóng năng lượng
mới cho các hình thức truyền giáo mới?
j) Đại dịch COVID-19 đã
kích thích một loạt các sáng kiến mục vụ trực tuyến sáng tạo giúp giảm tác động
của trải nghiệm cô lập và cô đơn, đặc biệt là đối với các thành viên cộng đồng
cao tuổi và dễ bị tổn thương. Các cơ sở giáo dục Công giáo cũng sử dụng các nền
tảng trực tuyến một cách hiệu quả để tiếp tục đào tạo và dạy giáo lý trong thời
gian phong tỏa. Chúng ta cần đánh giá những gì kinh nghiệm này đã dạy chúng ta
và những lợi ích lâu dài có thể là gì đối với sứ mạng của Giáo Hội trong môi
trường kỹ thuật số.
k) Trong khi tìm kiếm vẻ
đẹp, nhiều người trẻ đã từ bỏ không gian vật lý của Giáo Hội mà chúng ta tiếp
tục cố gắng mời gọi họ, thay vào đó ưu tiên các không gian trực tuyến. Điều này
có hệ quả đối với cách chúng ta cố gắng thu hút họ và tìm cách cung cấp cho họ
việc đào tạo và giáo lý. Đây là điều cần xem xét từ quan điểm mục vụ.
Các
đề xuất
l) Chúng ta cần tạo điều
kiện để nhận diện, đào tạo và đồng hành với những người đã làm việc với tư cách
là những người truyền giáo kỹ thuật số, đồng thời tạo điều kiện cho việc kết
nối mang lưới giữa họ.
m) Điều quan trọng là phải
tạo ra các mạng lưới cộng tác của những người có ảnh hưởng bao gồm những người
thuộc các tôn giáo khác hoặc thậm chí không theo một tôn giáo nào nhưng muốn
hợp tác vì các mục đích chung nhằm thúc đẩy nhân phẩm, công lý và chăm sóc ngôi
nhà chung của chúng ta là điều quan trọng.
18. Cơ cấu tham gia
Đúc
kết ý kiến
a) Là thành viên của Dân
trung thành của Thiên Chúa, tất cả những người đã được rửa tội đều đồng trách
nhiệm truyền giáo, mỗi người tùy theo ơn gọi, khả năng và kinh nghiệm của mình.
Do đó, tất cả đều góp phần vào việc hình dung về tương lai và phân định các
bước để canh tân các cộng đồng Kitô hữu và toàn thể Giáo Hội. Bằng cách này,
Giáo Hội cảm nghiệm được "niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng
Tin Mừng". Mục đích của tính hiệp hành, trong cách thức tổ chức và hoạt
động của các cơ quan mà nó hình thành, là vì sứ mạng truyền giáo. Đồng trách
nhiệm là vì truyền giáo: điều này chứng thực rằng chúng ta thực sự quy tụ nhân
danh Chúa Giêsu, nhờ đó giải phóng các cơ cấu của Giáo Hội ra khỏi những giới
hạn quan liêu và logic quyền lực kiểu thế gian, và làm cho việc quy tụ sinh hoa
trái.
b) Dưới ánh sáng của giáo
huấn gần đây của Giáo Hội (đặc biệt là Lumen gentium và Evangelii gaudium), sự
đồng trách nhiệm này của tất cả mọi người trong sứ mạng phải là tiêu chuẩn làm
nền tảng cho việc cấu trúc các cộng đồng Kitô hữu và toàn thể Giáo Hội địa
phương với tất cả các công việc phục vụ , trong tất cả các tổ chức, trong mỗi
cơ quan mục vụ (x. 1Cr 12,4-31). Sự công nhận đúng đắn về vai trò của giáo dân
đối với sứ mạng truyền giáo trên thế giới không thể trở thành cái cớ để giao
trọn vẹn trách nhiệm chăm sóc cộng đồng Kitô giáo cho riêng các giám mục và
linh mục.
c) Thẩm quyền tối thượng là
thẩm quyền của Lời Chúa, là thẩm quyền phải truyền cảm hứng cho mọi cuộc họp
của các cơ quan tham gia, mọi cuộc tham vấn và mọi quá trình ra quyết định. Để
điều này xảy ra, điều cần thiết là, ở mọi cấp độ, cộng đoàn rút ra ý nghĩa và
sức mạnh từ Bí tích Thánh Thể và diễn ra dưới ánh sáng của Lời được lắng nghe
và chia sẻ trong lời cầu nguyện.
d) Thành phần của các hội
đồng để phân định và ra quyết định cho một cộng đồng truyền giáo cần có sự tham
gia của những người mang trong mình tinh thần truyền giáo. Những người này
không nhất thiết phải thường xuyên hiện diện ở nhà thờ, mà được phân biệt bởi
lối sống làm chứng cho Phúc Âm trong cuộc sống hằng ngày. Dân Chúa càng có khả
năng truyền giáo hơn khi đưa tiếng nói của những người đang sống sứ mạng bằng
cách hiện diện tích cực giữa thế giới và vùng ngoại vi vào trong các cơ quan ra
quyết định của mình.
Các
vấn đề cần xem xét
e) Dựa trên những điều
chúng ta đã chia sẻ, điều quan trọng là phải đặt câu hỏi làm thế nào chúng ta
có thể thúc đẩy sự tham gia vào các hội đồng khác nhau khi nhiều người cảm thấy
họ không đủ khả năng đảm nhận nhiệm vụ. Tính hiệp hành phát triển khi mỗi thành
viên tham gia vào các tiến trình và ra quyết định cho sứ mạng của Giáo Hội.
Theo nghĩa này, chúng ta được khích lệ bởi nhiều cộng đồng Kitô hữu nhỏ trong
các Giáo Hội non trẻ, những người sống gần gũi hàng ngày, xung quanh Lời Chúa
và Thánh Thể.
f) Trong Amoris Laetitia,
Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác cho Giáo Hội thực hiện các thay đổi cấu trúc
của các cơ quan tham gia, nhiệm vụ này không thể bị trì hoãn thêm nữa. Sự tham
gia của những người nam nữ đã được rửa tội sống trong những hoàn cảnh phức tạp
của mối tương quan yêu thương "có thể được diễn tả trong các công việc mục
vụ khác nhau của Giáo Hội, điều này nhất thiết đòi hỏi phải biện phân những
hình thức loại trừ nào hiện đang được thực hiện trong khuôn khổ phụng vụ, mục
vụ, giáo dục và tổ chức có thể được vượt qua" (299). Sự biện phân này cũng
liên quan đến việc loại trừ họ khỏi các cơ quan tham gia cộng đồng giáo xứ và
giáo phận như đã xảy ra trong một số Giáo Hội địa phương.
g) Từ viễn cảnh về tính độc
đáo của sự hiệp thông Giáo Hội: làm thế nào chúng ta có thể đan xen các khía
cạnh tư vấn và thảo luận của tính hiệp hành? Với sự đa dạng của các ân sủng đặc
sủng và thừa tác viên của Dân Chúa, làm thế nào để chúng ta kết hợp các nhiệm
vụ cố vấn, biện phân và quyết định trong các cơ quan tham gia khác nhau.
Các
đề xuất
h) Dựa trên sự hiểu biết
Dân Chúa như là chủ thể tích cực của sứ mạng truyền giáo, chúng tôi đề nghị lập
pháp cho bản chất bắt buộc của các Hội đồng Mục vụ trong các cộng đồng Kitô
giáo và các Giáo Hội địa phương. Cũng mong muốn củng cố các cơ quan tham gia,
với sự hiện diện thích hợp của giáo dân, nhận ra vai trò của họ trong việc biện
phân các quyết định dựa trên bí tích Rửa tội của mình.
i) Các cơ quan có sự tham
gia đại diện cho cấp độ đầu tiên để trải nghiệm sự minh bạch giải trình của
những người nắm trách nhiệm. Trong khi chúng tôi hoan nghênh nhiệt liệt và ủng
hộ cam kết của họ, đến lượt họ, họ được mời thực hành văn hóa trách nhiệm giải
trình minh bạch đối với cộng đồng mà họ là một biểu hiện.
19. Các nhóm Giáo Hội trong
sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội
Đúc
kết ý kiến
a) Chúa Thánh Thần ban phát
dồi dào các ân sủng của Người vì lợi ích chung, và vì thế chúng ta xác tín rằng
mỗi Giáo Hội, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, có nhiều điều để cống
hiến. Khi chúng ta xem Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, chúng ta hiểu dễ dàng
hơn rằng các chi thể khác nhau phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ cùng một sự sống:
"nếu một chi thể chịu đau đớn, thì mọi chi thể cùng chịu đau khổ với nó;
và nếu một chi thể được tôn vinh, tất cả các chi thể đều cùng mừng vui" (1
Cr 12,26). Do đó, chúng tôi muốn phát triển các thái độ thiêng liêng phát sinh
từ quan điểm này: khiêm tốn và quảng đại, tôn trọng và chia sẻ. Điều quan trọng
là sự sẵn sàng lớn lên trong sự hiểu biết lẫn nhau và chuẩn bị các cấu trúc cần
thiết để việc trao đổi của cải thiêng liêng, vai trò môn đệ truyền giáo và của
cải vật chất có thể trở thành hiện thực.
b) Câu hỏi về các nhóm của
các Giáo Hội địa phương đã được chứng minh là nền tảng cho việc thực thi đầy đủ
tính hiệp hành trong Giáo Hội. Để trả lời câu hỏi làm thế nào để cơ cấu tổ chức
mang tính hiệp hành và tính hợp đoàn liên quan đến các nhóm của các Giáo Hội
địa phương, Thượng Hội đồng đã đồng ý về tầm quan trọng của việc phân định Giáo
Hội được thực hiện bởi các Hội đồng Giám mục và Hội đồng Châu Lục để tiến hành
đúng giai đoạn đầu của tiến trình hiệp hành.
c) Tiến trình hiệp hành đã
cho thấy các cơ quan do Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật cho các Giáo Hội Đông
phương quy định thực hiện chức năng của chúng một cách hiệu quả hơn khi các cơ
quan này được hiểu từ các Giáo Hội địa phương. Thực tế là Giáo Hội toàn thể
(Ecclesia tota) là một sự hiệp thông giữa các Giáo Hội đòi hỏi mỗi giám mục một
cách trực tiếp và ràng buộc hơn để thực hiện bổn phận chăm sóc của mình đối với
tất cả các Giáo Hội (sollicitudo omnium Ecclesiarum) như một khía cạnh cấu
thành thừa tác vụ của mình với tư cách là mục tử của một Giáo Hội địa phương.
d) Các Hội đồng Giám mục đã
đóng một vai trò quyết định trong giai đoạn đầu của tiến trình hiệp hành. Quá
trình này đưa ra nhu cầu về tính hiệp hành và tính hợp đoàn ở cấp lục địa. Các
cơ quan hoạt động ở các cấp độ này góp phần vào việc thực thi tính hiệp hành,
tôn trọng các thực tại địa phương và các tiến trình hội nhập văn hóa. Hội nghị
bày tỏ tin tưởng rằng bằng những phương tiện này, nguy cơ đồng nhất và tập
trung hóa trong việc quản trị Giáo Hội sẽ được khắc phục.
Các
vấn đề cần xem xét
e) Trước khi tạo ra các cấu
trúc Giáo Hội mới, chúng ta cần củng cố và hồi sinh những cấu trúc hiện có.
Cũng cần phải nghiên cứu dưới góc độ Giáo Hội và giáo luật về ý nghĩa của cải
cách liên quan đến các nhóm Giáo Hội, để họ có thể đảm nhận một đặc tính hiệp
hành đầy đủ hơn.
f) Xem xét các thực hành
hiệp hành của Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, chúng tôi đề nghị nghiên
cứu cách thức khôi phục các tổ chức cổ xưa trong luật giáo luật hiện hành và
hài hòa chúng với các tổ chức mới được thành lập, chẳng hạn như các Hội đồng
Giám mục.
g) Bản chất giáo lý và pháp
lý của các Hội đồng Giám mục cần được nghiên cứu thêm, thừa nhận khả năng hành
động cùng nhau, kể cả các vấn đề về giáo lý phát sinh tại địa phương, do đó mở
lại suy tư về Tự sắc Motu Proprio Apostolos suos.
h) Các khoản giáo luật đề
cập đến các công đồng địa phương (khoáng đại và giáo tỉnh) có thể được sửa đổi
để gia tăng sự tham gia của Dân Chúa, noi theo ví dụ miễn trừ được cho phép
trong Công đồng Khoáng đại gần đây của Úc?
Đề
nghị
i) Trong số các cơ cấu đã
được quy định trong Giáo luật, giáo tỉnh hoặc tổng giáo phận phải được phục hồi
và củng cố như một nơi hiệp nhất cho các Giáo Hội địa phương trong lãnh thổ của
họ.
j) Các cơ quan có thẩm
quyền phải thực hiện tính hiệp hành ở cấp khu vực, quốc gia và lục địa phù hợp
với những hiểu biết sâu sắc đã nảy sinh liên quan đến các nhóm Giáo Hội.
k) Khi cần thiết, chúng tôi
đề nghị thành lập giáo tỉnh quốc tế để mang lại lợi ích cho các giám mục không
thuộc bất kỳ Hội đồng Giám mục nào và thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo Hội
xuyên biên giới quốc gia.
l) Ở các nước theo Nghi lễ
Latinh cũng có hệ thống Giáo Hội Công giáo Đông phương, chúng tôi đề nghị bao
gồm các Giám mục Đông phương trong các Hội đồng Giám mục quốc gia, đồng thời
vẫn giữ nguyên tính tự trị của họ được thiết lập bởi Bộ Giáo luật riêng.
m) Cần xây dựng một cấu
trúc giáo luật cho các Hội đồng Châu Lục tôn trọng tính đặc thù của mỗi châu
lục, đồng thời tính đến sự tham gia của các Hội đồng Giám mục và các Giáo Hội,
với đại biểu của riêng họ thể hiện sự đa dạng của Dân Chúa.
20. Thượng Hội đồng Giám mục
và Đại hội Giáo Hội
Đúc
kết ý kiến
a) Ngay cả khi trải nghiệm
"cùng nhau bước đi" đôi lúc mệt mỏi, Đại hội vẫn cảm nhận được niềm
vui Tin Mừng khi là Dân Chúa. Những kinh nghiệm mới liên quan đến giai đoạn này
của hành trình hiệp hành nói chung được hoan nghênh. Những điều rõ ràng nhất
bao gồm sự thay đổi việc cử hành Thượng Hội đồng từ một sự kiện sang một tiến
trình (như được chỉ ra bởi Tông hiến Episcopalis communio); sự hiện diện của
các thành viên khác, nam cũng như nữ, cùng với các giám mục; sự hiện diện tích
cực của các đại biểu huynh đệ; khóa tĩnh tâm để chuẩn bị cho Đại hội; cử hành
Thánh Thể tại nhà thờ Thánh Phêrô; bầu không khí cầu nguyện và phương pháp Đối
Thoại trong Chúa Thánh THần; và chính sự bố trí của Đại hội trong Đại sảnh
Phaolô VI.
b) Hội đồng Giám mục, với
đặc tính Giám mục nổi bật của mình, đã thể hiện rõ ràng trong dịp này mối liên
hệ nội tại giữa chiều kích hiệp hành của đời sống Giáo Hội (sự tham gia của tất
cả mọi người), chiều kích hợp đoàn (sự chăm sóc của các giám mục cho toàn thể
Giáo Hội) và chiều kích đứng đầu (sự phục vụ của Giám mục Rôma, người đảm bảo
sự hiệp thông).
c) Tiến trình hiệp hành đã
và đang là thời gian ân sủng khuyến khích chúng ta. Thiên Chúa đang ban cho
chúng ta cơ hội để trải nghiệm một nền văn hóa hiệp hành mới, có khả năng hướng
dẫn đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng tôi nhắc lại rằng chỉ
tạo ra các cơ cấu đồng trách nhiệm mà hiếu sự hoán cải cá nhân theo hướng hiệp
hành truyền giáo là chưa đủ. Các tiến trình hiệp hành không làm giảm bớt trách
nhiệm cá nhân của những người được kêu gọi tham gia vào nó ở mọi cấp độ của
Giáo Hội nhờ thừa tác vụ và đặc sủng riêng của họ, nhưng thực sự kêu gọi họ cố
gắng hơn nữa.
Các
vấn đề cần xem xét
d) Sự hiện diện của các
thành viên khác ngoài các giám mục với tư cách là nhân chứng cho hành trình
hiệp hành đã được đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn bỏ ngỏ câu hỏi về ảnh hưởng
của sự hiện diện của họ với tư cách là thành viên đầy đủ đối với đặc tính giám
mục của Hội đồng. Một số người nhìn thấy nguy cơ là nhiệm vụ cụ thể của các
giám mục sẽ không được hiểu đúng đắn. Các tiêu chuẩn mà theo đó các thành viên
không phải là giám mục được kêu gọi trở thành một phần của Hội đồng cũng sẽ cần
phải được làm rõ.
e) Các kinh nghiệm như Đại
hội Giáo Hội Mỹ Latinh và Caribe đầu tiên vào tháng 11 năm 2021, các Tổ chức
của Dân Chúa ở Brazil và Hội nghị khoáng đại Úc đã được báo cáo. Vẫn còn phải
xác định và đào sâu cách hội nhập tính hiệp hành và tính hợp đoàn trong tương
lai, phân biệt (không có sự tách biệt quá mức) sự đóng góp của tất cả các thành
viên của Dân Chúa vào việc xây dựng các quyết định và nhiệm vụ cụ thể của các
giám mục. Việc trình bày tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính thủ lĩnh không
nên được giải thích dưới dạng tĩnh hoặc tuyến tính mà theo một vòng tròn động,
trong một đồng trách nhiệm có sự khác biệt.
f) Ở cấp độ khu vực, có thể
nghĩ đến các bước kế tiếp (một Đại hội Giáo tỉnh theo sau bởi một Đại hội Hội
đồng giám mục), nhưng việc làm rõ cách đề xuất này cho toàn thể Giáo Hội Công
giáo được coi là thích hợp.. Một số người tin rằng công thức được thông qua
trong Đại hội đồng này đáp ứng nhu cầu này; những người khác đề nghị rằng một
Hội đồng Giám mục tuân theo một Hội đồng Giáo Hội để kết thúc việc phân định.
Tuy nhiên, những người khác thích dành vai trò của các thành viên của Hội đồng
Thượng Hội đồng cho các Giám mục.
g) Sự đóng góp cho công
việc của Đại hội đồng và các tiến trình của Giáo Hội hiệp hành, được thực hiện
bởi các chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là các nhà thần học và
giáo luật, cũng có đấng được lưu tâm.
h) Cũng cần phải suy tư về
sự tương tác giữa tiến trình Thượng Hội đồng và truyền thông Internet và truyền
thông.
Các
đề nghị
i) Các tiến trình hiệp hành
ở tất cả các cấp của Giáo Hội cần được đánh giá.
j) Các kết quả của Phiên
họp thứ nhất của Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục cần
được đánh giá.
TIẾP
TỤC CUỘC HÀNH TRÌNH
“Chúng
ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” (Mc
4,30)
Lời
Chúa được ưu tiên hơn những lời của Giáo Hội. Những lời của các môn đệ, ngay cả
những lời của Thượng Hội đồng, chỉ là tiếng vang vọng lại những gì chính Thiên
Chúa đã phán dạy.
Chúa
Giêsu đã chọn nói bằng dụ ngôn để loan báo Triều đại Nước Thiên Chúa. Ngài tìm
thấy những hình ảnh để nói về mầu nhiệm của Thiên Chúa trong những kinh nghiệm
bình thường của cuộc sống con người: thế giới tự nhiên, nơi làm việc, các yếu
tố thường nhật. Bằng cách này, Ngài cho chúng ta biết rằng Triều Đại Nước Thiên
Chúa vượt trên chúng ta nhưng không xa cách chúng ta. Hoặc chúng ta nhìn thấy
Triều đại Nước Thiên Chúa trong những sự việc của thế gian này, hoặc chúng ta
sẽ không bao giờ nhìn thấy được.
Chúa
Giêsu đã nhìn thấy số phận của chính mình được thể hiện trong một hạt giống rơi
xuống đất, một cái gì đó không giá trị hay ý nghĩa, lẽ ra đã phải hư hoại,
nhưng lại mang sức mạnh sự sống, một sức mạnh không thể ngăn cản, không thể
đoán trước, mang tính Vượt Qua. Đây là sức mạnh mang lại sự sống; trở thành
bánh nuôi sống nhiều người; bánh được định sẵn để trở thành Thánh Thể.
Ngày
nay, trong một nền văn hóa nơi con người đấu tranh chống lại nhau để thống trị
và trở nên cuồng loạn bởi những gì hữu hình, Giáo Hội được mời gọi làm vang
những lời của Chúa Giêsu, đem lời Ngài sống lại trong tất cả sức mạnh tiềm
tàng.
"Chúng
ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” Câu
hỏi của Chúa Giêsu soi sáng công việc đang chờ phía trước chúng ta. Đó không
phải là vấn đề phân tán bản thân trên nhiều mặt trận, giảm mọi thứ thành logic
của hiệu quả và thủ tục. Đúng hơn, đó là vấn đề nắm bắt, trong vô vàn lời nói
và đề xuất của Báo cáo này, những gì xuất hiện như một hạt giống nhỏ bé, nhưng
mang trong mình tương lai, và hình dung làm thế nào để mang nó đến mảnh đất sẽ
cho phép nó phát triển và trưởng thành vì lợi ích của nhiều người." Làm
sao điều đó có thể xảy ra?", Đức Maria tự hỏi mình ở Nazareth (Lc 1,34)
sau khi lắng nghe Lời Chúa. Chỉ có một câu trả lời: hãy ở trong Thần Khí và để
cho mình được bao bọc bởi quyền năng của Người.
Khi
chúng ta hướng tới thời gian từ nay đến Phiên họp thứ hai, chúng ta hãy cảm tạ
Chúa vì cuộc hành trình cho đến nay và vì những hồng ân mà Ngài đã chúc phúc.
Chúng ta phó thác giai đoạn tiếp theo cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria,
dấu chỉ của niềm hy vọng và an ủi chắc chắn cho Dân Trung thành của Thiên Chúa
khi họ tiếp tục cuộc hành trình của họ, và cho các Thánh Tông Đồ Simon và
Giuđa, những người mà chúng ta cử hành Lễ hôm nay. Tất cả chúng ta đều được mòi
đón nhận hạt giống nhỏ bé mà Báo cáo Tổng hợp này đại diện.
Adsumus
Sancte Spiritus!
Rôma,
ngày 28 tháng 10 năm 2023,
Lễ
các Thánh Tông đồ Simon và Giuđa
[1] “Synod” (Thượng Hội đồng) có nguồn gốc từ Hy ngữ: “syn” [cùng nhau] và “hodos” [con đường], có nghĩa là “cùng nhau đi trên đường.” Từ “synodos,” trong các văn bản tiếng Việt gần đây, được dịch là “hiệp hành” – “đi trên cùng một con đường.” Tuy nhiên, theo một số nhà chuyên môn về Hán ngữ, từ “synodos” nên được dịch là “đồng đạo giai hành [ 同 道 偕 行 ]”. “Đồng đạo” [ 同 道 ]: “cùng chung một đường;” “giai hành” [ 偕 行 ]: “cùng đi.” “Đồng đạo giai hành” [ 同 道 偕 行]: “cùng đi chung một con đường.” Bản dịch này, người biên tập vẫn sử dụng từ “hiệp hành” theo “thói quen” hiện có.