Vincent
Phạm
Đức
Maria là niềm hy vọng mà Giáo Hội cậy nhờ không chỉ mỗi khi con thuyền Giáo Hội
gặp phong ba bão táp mà ngay cả lúc thuận buồm xuôi gió. Vì chính Mẹ là bảo chứng
cho niềm hy vọng chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa, là dấu chứng chắc chắn của ơn
cứu độ mà Thiên Chúa ban xuống cho con người.
Thánh
Phaolô đã từng thốt lên: “Hiện tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa”
(1Cr 15,10). Điều ngài đã xác tín về chính mình cách mạnh mẽ và dứt khoát như
thế, chúng ta cũng có thể nhìn thấy nơi Đức Trinh Nữ Maria. Ân sủng là lời giải
thích trọn vẹn về Đức Maria, về vẻ đẹp và sự cao trọng của Người. Mẹ chính là lời
công bố sống động và cụ thể rằng ngay từ đầu, ân sủng đã là yếu tố căn bản
trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo.[1] Tất
nhiên ân sủng nơi Đức Maria tùy thuộc vào sứ mạng làm Mẹ Đấng Mêsia mà thiên thần
loan báo, nhưng điều đó chưa giải thích hết ân sủng nơi Mẹ. Quả thật, chính nơi
Đức Maria, Thiên Chúa đã làm cho lời hứa của Người với con người được nên thành
toàn khi Mẹ đón nhận và cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể. Mẹ là hiện thân cho ân sủng
của Thiên Chúa muốn tuôn đổ trên nhân loại này. Chúng ta sẽ cùng suy tư về cuộc
đời của Đức Maria khởi đi từ Kinh Thánh, dưới ánh sáng của Truyền Thống để cùng
nhau làm nổi bất lên khía cạnh Người Nữ Tông đồ của niềm hy vọng của Mẹ. Khi
chiêm ngắm như thế, chúng ta sẽ cùng đi với Mẹ trong ba thời điểm chính yếu, cấu
thành mầu nhiệm Kitô giáo: Nhập Thể, mầu nhiệm Vượt Qua và Lễ Ngũ tuần. Nhập Thể,
lúc chính Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa và là người được hình thành; mầu nhiệm Vượt
Qua, lúc Đấng Cứu Thế hoàn tất công trình cứu chuộc chúng ta; lễ Ngũ tuần, lúc
Thánh Thần, Đấng làm cho ơn Cứu Độ luôn hiện hiện và hoạt động trong Giáo Hội
được ban xuống.[2] Bước
theo Đức Maria trên hành trình này, chúng ta sẽ có được sự nâng đỡ trong bước
đường theo Chúa Kitô Cứu Thế, bởi Mẹ sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm của
Chúa bằng một sự trợ giúp cụ thể và mang tính quyết định, vì Mẹ là niềm hy vọng
cho mỗi người chúng ta.
Đức
Maria trong mầu nhiệm Nhập Thể
Khởi đi
từ những trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta nhận ra một nhân loại đang rên xiết
trong khổ đau, mong ngóng và trông chờ một Đấng Mêsia đến giải thoát con người
khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi và sự chết. Những lời loan báo của các ngôn sứ
trong Cựu Ước diễn tả nỗi niềm khao khát để cho lời Thiên Chúa hứa được hoàn tất:
“Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở
ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is
45,8). Dân Israel đang lầm bước trong tăm tối như thế, hẳn trong
thâm tâm của mỗi người, ai cũng trông đợi từng ngày để mong thấy được ơn cứu
chuộc Israel tận mắt. Đức Maria cũng không ngoại lệ. Chắc hẳn, trong tâm hồn, Mẹ
khao khát và hy vọng Thiên Chúa sẽ đến cứu thoát Dân Người. Và Thiên Chúa đã
chuẩn bị một kế hoạch vĩ đại khôn lường. Không ngờ rằng, một thôn nữ ở một ngôi
làng nhỏ bé miền Nadarét, nơi vùng đất Palestin, lại được đẹp lòng Thiên Chúa
và được Người tuyển chọn giữa muôn ngàn phụ nữ để làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Đức
Maria đã được diễm phúc biết là dường nào. Nơi Mẹ, Ngôi Lời Nhập Thể là chính
Thiên Chúa đã được cưu mang và hạ sinh cho đời. Nói như các Giáo phụ, cung lòng
của Mẹ là “máy dệt”, là “xưởng thợ” nơi Chúa Thánh Thần dệt cho Ngôi Lời tấm
hình hài nhân loại, là “giường cưới” nơi Thiên Chúa kết hiệp với con người.[3]
Đức
Trinh nữ Maria được Thánh Kinh giới thiệu là “Đấng đầy ân sủng” (Lc
1,28) , là người nữ thật diễm phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì
Người đã nói với Mẹ (x. Lc 1,42). Lời chào của sứ thần Gabriel nói cùng Đức
Maria bao hàm hai tầng ý nghĩa. Trước nhất, Mẹ được đắc sủng của Thiên Chúa.
Hãy nhìn xem, các nguồn suối đổ đầy ra biển khơi thế nào thì Mẹ cũng được Thiên
Chúa đổ đầy dư nơi tâm hồn như vậy. Có ai trong Cựu Ước được tràn đầy ân sủng
như Mẹ. Và có lẽ không ai nữa sau Mẹ được dư đầy như thế. Hãy nghiệm xem có ai
được Thiên Chúa ở cùng đến mức như Đức Maria. Thiên Chúa ở cùng Mẹ không chỉ bằng
quyền năng, bằng sự quan phòng nhưng là sự hiện diện đích thân của Người
nơi tâm hồn Mẹ. Thứ hai, vì Đức Maria không chỉ được Thiên Chúa đem lòng sủng
ái mà Người còn tự trao ban trọn vẹn trong Con của Người. Bởi vậy, nơi Mẹ,
Thiên Chúa biểu dương sự thánh thiện của Người, khi làm cho Mẹ trở nên “vô tì
tích, không vương nhiễm bất cứ tội gì”. Do đó, Giáo Hội mượn lời của sách Diễm
ca để ca khen Mẹ là Đấng “tuyệt mỹ” (Dc 4,1), diễm lệ như ánh bình minh, Mẹ
hoàn toàn tinh sạch, thuần khiết. Nơi Mẹ có tất cả mọi nhân đức và tất cả vẻ đẹp
lộng lẫy phát xuất từ ân sủng.[4]
Thêm vào
đó, lời loan báo ân sủng của thiên thần năm xưa còn mang lại sự can trường và
niềm an ủi. Đức Maria được sứ thần Chúa mời gọi hãy vui lên vì “ân sủng” của
Chúa tràn đầy trên Mẹ và đừng sợ cũng vì “ân sủng” bởi chính Thiên Chúa thương
luôn ở cùng Mẹ: “Đừng sợ, vì Bà được đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc
1,30). Với sự tin tưởng đầy vững vàng, Mẹ đã nói lên lời thưa Fiat với Thánh ý
của Thiên Chúa. Sự tràn đầy lòng tin nơi Đức Maria tương ứng với ân sủng tràn đầy
do bởi Thiên Chúa ban xuống cho Mẹ. Thế nhưng, chúng ta không thể nói rằng lòng
tin của Đức Maria có vẻ là một hành vi dễ dàng, đương nhiên. Bởi chưng, đức tin
đích thực không bao giờ là một ưu tuyển hay một vinh dự, mà là luôn dưới hình
thái của một sự chết đi. Thiên Chúa không khi nào lừa dối những người được Chúa
mời gọi thực hiện ý định của Người bằng cách cố tình che dấu đi những khó khăn,
thử thách sẽ xảy đến[5].
Như lời sách Huấn ca đã viết: “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức
Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách” (Hc 2,1). Điều
này được áp dụng cách đặc biệt cho Đức Maria. Trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần,
Mẹ chắc chắn thoáng nhận ra, con đường mình đi sẽ không tránh khỏi những thử
thách, gian truân. Và lời tiên báo của cụ già Simêon làm cho linh cảm đó càng
thêm rõ nét khi ông loan báo cho Mẹ biết một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ
(x. Lc 2,34-35). Ngay trên bình diện nhân loại, Mẹ sẽ phải ở vào một trạng thái
cô đơn hoàn toàn. Tất cả những gì sẽ xảy ra cho Mẹ, ai có thể giải thích nổi.
Ai sẽ tin lời Mẹ nói rằng đứa trẻ ở trong cung lòng Mẹ hoàn toàn do quyền năng
của Chúa Thánh Thần. Chúng ta tin chắc rằng Đức Maria hoàn toàn hiểu được tình
trạng mà Mẹ sẽ phải đối diện với cái xã hội nơi Mẹ đang sống, bởi vì chính sự sống
của Mẹ sẽ gặp nguy khi Mẹ chấp nhận lời loan báo này (x. Đnl 22, 20tt ).
“Nếu tin
như là ‘lênh đênh giữa trùng khơi, dưới chân là biển sâu thăm thẳm’, nếu tin
như là ‘thực hiện một hành động qua đó ta thấy mình như hoàn toàn bị quăng ném
vào cánh tay của Tuyệt Đối’”[6] thì
Đức Maria phải là kẻ tin tuyệt vời và khôn sánh. Mẹ hoàn toàn phó mình cho
Thiên Chúa. Mẹ đã tin ngay khi được loan báo, không do dự, không trì hoãn, đã dấn
thân cách lập tức, trọn vẹn. Như thế, lời chào của bà Êlisabét khi được Mẹ viếng
thăm đã nói lên tất cả những gì mà tâm hồn của Mẹ hằng quy hướng về Thiên Chúa.
Đức Maria đã tin và điều Mẹ tin đã xảy ra nơi Mẹ. Vì thế, chúng ta cũng hãy
tin, ngõ hầu điều xảy ra nơi Mẹ cũng ích lợi cho chúng ta.[7]
Đức
Maria trong mầu nhiệm Vượt Qua
Mầu nhiệm
Vượt Qua của Đức Kitô bao gồm cả sự chết và phục sinh của Người. Mầu nhiệm này
là sự vượt qua từ sự chết đến sự sống lại hiển vinh. Thế nhưng, Đức Maria chỉ
được nhắc đến dưới chân thập giá và trong cái chết của Đức Giêsu. Không một chứng
từ Kinh Thánh nào nhắc đến việc Đấng Phục Sinh hiện ra với Mẹ. Trong Tin Mừng
Gioan, tác giả giới thiệu: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu
Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với
bà Maria Mácđala” (Ga 19,25). Khi trình bày như thế, thánh sử Gioan muốn
đặt Đức Maria vào ngay trung tâm của mầu nhiệm Vượt Qua. Nếu như đối với Gioan,
“Giờ” của Đức Giêsu là giờ của vinh quang, là thời mà “Chúa Con được Chúa Cha
tôn vinh” thì chúng ta có thể hiểu được rằng Mẹ có mặt dưới chân thập giá không
phải chỉ trong sự thất bại và cái chết của Con Mình nhưng còn là trong sự tôn
vinh, trong vinh quang của thập giá. Chúng ta có thể hiểu câu nói này của Gioan
đối với Đức Maria: “Chúng tôi đã được chiêm ngắm vinh quang của Người” (Ga
1,14). Chính Mẹ đã tận mắt thấy và chiêm ngắm vinh quang của Chúa Kitô, một
vinh quang thật khác biệt và mới mẻ so với thứ vinh quang của loài người. Chính
Mẹ đã thấy vinh quang của Thiên Chúa tình yêu.
Nói như
thế, không có nghĩa là Đức Maria không phải đau khổ khi ở trên đồi Calvê đẫm
máu đó. Còn đau khổ nào có thể sánh được với khổ đau của người mẹ khi chứng kiến
người con yêu dấu duy nhất của mình bị trao nộp vào tay người đời, bị hành hạ,
chế diễu, sỉ nhục, gục ngã thảm thương và bị chết treo cách nhục nhã trên thập
giá. Những hình dung mà Mẹ thoáng thấy năm xưa khi cụ già Simêon loan báo giờ
đây đã thành hiện thực trước mắt Mẹ. Có thể nói, Đức Maria cũng đã uống cạn
chén đắng mà Thiên Chúa đã trao vào tay Mẹ. Mẹ đã tham dự trọn vẹn vào cuộc khổ
nạn của Con Mình. Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ, đã rời xa vòng tay êm ái của Mẹ và
giờ này đây, thân hình Người như nát tan dưới những đòn tra tấn và dưới sức nặng
của thập giá. Đức Maria thốt ra làm sao được nỗi khổ đau đang hành hạ Mẹ từ
trong thẳm sâu của tâm hồn. Lời của thiếu nữ Xion thốt lên có thể áp dụng cho Mẹ
trong những giờ phút này: “Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem:
Có nỗi khổ nào sánh được với nỗi khổ mà tôi đang phải chịu” (Ac 1,12).
Thế nhưng, không một tiếng khóc than nào của Đức Maria được thuật lại. Hoàn
toàn chỉ có sự thinh lặng nơi Mẹ. Sự thinh lặng nơi Mẹ nói lên điều gì? Tất cả
những gì đang diễn ra trên ngọn đồi năm xưa ấy phải được diễn ra nơi ngôn ngữ của
thập giá. Đức Maria lặng thinh bởi “Mẹ dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng
của một người Mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra”.[8] Mẹ
hiệp nhất với hy tế của Con mình, cùng chia sẻ một nỗi đau với Con. Mẹ phải chịu
khổ trong tâm hồn những gì mà Con của Mẹ phải chịu nơi thân xác. Và điều này
hoàn toàn có thể hiểu được ngay trên bình diện tự nhiên.
Chúng ta
đã nói rằng, Đức Maria đã sống trọn vẹn mầu nhiệm Vượt Qua, điều đó bao hàm rằng
Mẹ đã ở bên thập giá Chúa “trong niềm hy vọng”. Mẹ đã cùng thông phần với Con của
Mẹ không chỉ trong cái chết nhưng còn trong niềm hy vọng về sự phục sinh. Chúng
ta có thể áp dụng hình ảnh của Abraham năm xưa cho Đức Maria. Theo Thánh Kinh,
do lòng tin đặt nơi Thiên Chúa, ông Abraham đã tiến dâng người con một của mình
là Isaac. “Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có
một dòng dõi mang tên ngươi.” Quả thật, ông Abraham
nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận
lại người con ấy như là một biểu tượng” (Hr 11,18-19). Về niềm tin này
nơi ông Abraham, thánh Phaolô quả quyết: “mặc dầu không còn gì để trông cậy,
ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18). Những điều này còn đúng hơn khi
nói về Đức Maria dưới chân thập giá. Mẹ đã tin dù xem ra lời hứa năm xưa qua miệng
sứ thần trở nên đối nghịch với hoàn cảnh hiện tại. Mẹ vẫn cậy trông dù trên
bình diện tự nhiên, Mẹ ở trong một tình trạng hoàn toàn bị tước hết mọi hy vọng.[9] Đức
trông cậy nơi Mẹ đã trở nên hoàn hảo vì Mẹ xác tín cách vững mạnh rằng: “điều
gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm
4,21).
Đức
Maria trong ngày lễ Ngũ tuần
Chúng ta
nhận ra sự hiện diện hết sức đặc biệt của Đức Maria trong lúc khởi đầu của Giáo
Hội. Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Luca viết: “Tất cả các ông đều đồng
tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với
bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu (Cv
1,14). Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, đời sống của Giáo Hội Chúa Kitô
được khởi đầu. Sự non trẻ của Giáo Hội ngay từ tiên khởi đã được củng cố và đỡ
nâng bởi Chúa Thánh Thần. Ở đây, chúng ta nhận ra một mối liên kết không thể
tách rời giữa Thánh Thần và Đức Maria. Mối liên kết đó là chính Đức Kitô Giêsu
trong mầu nhiệm Nhập Thể. Ngay từ đầu, Thánh Thần Chúa đã được ban xuống trên Đức
Maria, quyền năng Đấng Tối Cao đã rợp bóng trên Mẹ. Mẹ đã cùng song hành với
Con của Mẹ và Thánh Thần, Đấng hiện xuống giữa tông đồ đoàn và tất cả những người
có mặt tại phòng tiệc ly chính là Đấng được Chúa Kitô gửi đến để hướng dẫn,
nâng đỡ và gìn giữ Hội Thánh. Ở đây chúng ta muốn nói đến vai trò của Đức Maria
giữa lòng Hội Thánh. Mẹ hiện diện ngay tại trung tâm của Giáo Hội. Nếu như dưới
chân Thập giá, Đức Maria hiện diện như là Mẹ của Giáo Hội, thì giờ đây nơi nhà
tiệc ly, Mẹ xuất hiện như Người Mẹ đỡ đầu của Giáo Hội. Chúng ta có thể nói như
thế là vì chính Mẹ đã chịu phép rửa trong Thánh Thần và bây giờ, Mẹ mang Giáo Hội
đến chịu phép rửa bởi Thánh Thần.[10] Đó
là những gì Mẹ đã làm cho các tông đồ và là điều Mẹ đang làm với chính chúng
ta.
Trong
trình thuật mà chúng ta vừa trích dẫn, thánh Luca giới thiệu cho người đọc biết:
Đức Maria xuất hiện trong tư thế đang cầu nguyện và quả thật, qua những gì được
rút từ Kinh Thánh và truyền thống của Hội Thánh, chúng ta có thể nói, từ trong
và sau biến cố Ngũ Tuần, Đức Maria hoàn toàn rút lui về phía sau, trong sự cô tịch,
thinh lặng sâu thẳm nhất. Ở đó, Mẹ chuyên chăm cầu nguyện, kết hiệp hoàn toàn với
Thiên Chúa và nâng đỡ Giáo Hội từ phía sau. Điều mà chúng ta nói về những vị
thánh của cầu nguyện trong Giáo Hội, chúng ta hoàn toàn có thể nói về Đức
Maria, và còn hơn thế nữa, vì ngay từ đầu, Mẹ đã kết hiệp cách trọn hảo với
Thiên Chúa. Mẹ đã khai mở khía cạnh hết sức quan trọng của Giáo Hội là ẩn giấu
và cầu nguyện, bên cạnh khía cạnh tông đồ và hoạt động. Mẹ là nguyên mẫu cho đời
sống Giáo Hội cầu nguyện. Khi nói như thế, chúng ta phải hiểu rằng, đời sống của
Đức Maria là cả một sự cầu nguyện liên lỉ, không ngừng trong tâm hồn. Nó thể hiện
ở niềm khao khát Thiên Chúa mà không gì nơi trần gian này bù đắp được. Như
thánh Augustinô giải thích “bản chất của cầu nguyện là khao khát Thiên Chúa
trào dâng từ đức tin, đức cậy và đức mến. Niềm khao khát đó là lời cầu nguyện của
bạn, nếu niềm khao khát của bạn liên tục thì lời cầu nguyện của bạn cũng liên tục.”[11] Như
thế, chúng ta có thể nói gì về Đức Maria? Chúng ta hiểu rằng, tâm hồn của người
mẹ luôn đặt để nơi người con mà họ cưu mang. Một người mẹ tự nhiên luôn hướng về
người con. Do đó, Đức Maria, khi cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu, Mẹ đã không
còn thuộc về mình nữa, vì cả cuộc đời của Mẹ giờ đây thuộc trọn về Con Chí Ái của
Mẹ là Đức Giêsu. Thế mà, Đức Kitô, sau khi lên trời, Người không còn hiện diện
cách thể lý nữa. Và vì thế, Đức Maria không còn thấy Con của mình trên bình diện
tự nhiên. Ở đây, điều mà thánh nữ Monica, sau khi đã cảm nến được sự sống vĩnh
cửu đã thốt lên: “Tôi làm gì ở đây nữa nhỉ?”[12] cũng
có thể nói về Đức Maria. Hay nói như thánh Phaolô: “ao ước của tôi là ra đi
để được ở cùng Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần” (Pl 1,23). Thế nhưng,
chúng ta dám chắc rằng Mẹ vẫn hiện diện là để nâng đỡ cho Giáo Hội của Chúa. Mẹ
như là niềm hy vọng mà Giáo Hội cậy nhờ không chỉ mỗi khi con thuyền Giáo Hội gặp
phong ba bão táp mà ngay cả lúc thuận buồm xuôi gió. Vì chính Mẹ là bảo chứng
cho niềm hy vọng chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa, là dấu chứng chắc chắn của ơn
cứu độ mà Thiên Chúa ban xuống cho con người.
Chúng ta
còn thêm điều gì nữa về Đức Maria là niềm hy vọng cho chúng ta? Đó là, Mẹ là một
con đường trổi vượt, con đường tốt nhất để đến với Đức Kitô.[13] Nói
cách khác, Mẹ là con đường qua đó Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến với Chúa
Kitô. Con đường tốt nhất theo nghĩa là con đường dễ đi hơn cả, gần gũi với thân
phận hiện tại của chúng ta nhất, bởi cũng như chúng ta, Mẹ đã tiến bước trong đức
tin, đức cậy và đức mến. Mẹ luôn tâm niệm trong tâm hồn: Mẹ cũng chỉ là khí cụ
trong bàn tay của Thiên Chúa. Nhưng đó là một khí cụ hoàn hảo, một bảng chỉ đường
đúng đắn nhất, mà mỗi chúng ta, khi tin tưởng bước theo, chắc chắn Mẹ sẽ dẫn tất
cả đến cùng Đức Kitô, đến cùng Thiên Chúa, Đấng là nguyên mẫu và cùng đích của
hạnh phúc tuyệt hảo.
Tổng
Công Hội XXVI của Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) đã chọn câu chủ đề: “Những thừa sai
của niềm hy vọng theo bước chân Chúa Cứu Thế” như là kim chỉ nam cho lục niên
này. Với câu chủ đề này, Nhà Dòng mời gọi mỗi tu sĩ hãy trở nên những thừa sai
niềm hy vọng cho một thế giới đầy dẫy những bất an và ngập chìm trong vô vọng.
Họ phải là những chứng nhân kiên cường, bất khuất và can đảm để nói cho thế giới
biết “vận mệnh cao cả của mỗi cá nhân và của toàn nhân loại rằng tất cả đều được
tuyển chọn, được cứu chuộc và được quy tụ trong Đức Kitô” (HP 7). Họ phải là những
thừa sai với niềm hy vọng lớn lao, hy vọng vì biết rằng Đức Kitô là trung tâm của
đời sống mỗi người, hy vọng vì tin rằng Chúa luôn ở cùng; hy vọng để can đảm đối
diện với những thực tại khó khăn, hy vọng để phục vụ bằng sự yêu thương và
khiêm nhường. Khi nói đến những điều này, Hiến Pháp mời gọi mỗi tu sĩ,
“Hãy
nhận Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc làm gương mẫu và là vị bảo trợ của mình, bởi
vì Mẹ đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin và đã hết lòng tuân phục ý định cứu
độ của Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn hiến mình cho thân thế và sự nghiệp của Con
mình như một nữ tỳ của Chúa, và như thế, Mẹ đã phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc. Thật
vậy, Mẹ vẫn đang phục vụ mầu nhiệm ấy, như là Đấng hằng cứu giúp của dân Thiên
Chúa trong Đức Kitô. Vì thế, các tu sĩ hãy gắn bó với Mẹ như mẹ của mình với tất
cả lòng yêu mến và sự tôn kính mà họ phải có như những người con” (HP 32).
Quả thực,
mỗi tu sĩ khi cao rao về Mẹ Maria rất thánh, họ đang nói cho thế giới biết về một
phương thế linh nghiệm mà từng người có thể chạy đến để xin Mẹ chuyển cầu, bởi
Mẹ đang ở bên Chúa Con mà chuyển cầu cho nhân loại. Mặt khác, các tu sĩ DCCT cần
phải trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô, và vì vậy, họ đón Đức Maria
về nhà mình để chính Mẹ hướng dẫn, nâng đỡ, củng cố và bảo ban. Thật thế, các
tu sĩ tôn kính Đức Maria như Đấng Vô nhiễm nguyên tội, vị quan thầy chính, Đấng
bảo trợ và gìn giữ sứ mạng thừa sai của Hội Dòng. Họ nhiệt thành trong việc quảng
bá lòng sùng kính Đức trinh nữ Maria, vì họ biết, qua Mẹ, chúng ta chắc chắn đến
được với Chúa.
Được kêu
mời để trở nên những thừa sai của niềm hy vọng, các tu sĩ DCCT nỗ lực không ngừng
để làm chứng cho những thực tại Nước Trời mà ngay ở đời này, chính Chúa sẽ ban
cho những ai hết lòng tìm kiếm với một con tim chân thành và khiêm nhường. Hơn
bao giờ hết, điều này đã được thành toàn nơi Đức trinh nữ Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế.
Vì vậy, mọi Kitô hữu hãy chạy đến cùng Mẹ, xin Mẹ dẫn dắt và chỉ bảo, bởi Mẹ là
gương mẫu cho niềm hy vọng bất diệt vào Thiên Chúa.
[1] x.
Raniero Cantalamesa, Đức Maria tấm gương cho Giáo Hội, Nguyễn
Quốc Lâm chuyển ngữ (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2022), 26.
[2] x.
Ibid., 12-13.
[3] x.
Ibid., 26.
[4] Ibid.,
32.
[5] Ibid.,
70.
[6] Kierkegaard, L’école
du Christianisme I, trích trong Đức Maria tấm
gương cho Giáo Hội, 73.
[7] Augustinô, Sermon
215, trích trong Đức Maria tấm gương cho Giáo Hội, 91.
[8] Hiến
chế Lumen gentium, số 58.
[9] x.
H. Schlier, Der Roemerbrief, trích trong Đức Maria tấm
gương cho Giáo Hội, 201.
[10] x.
Ibid., 263.
[11] Augustino, Sur
les Psaumers 37, trích trong Đức Maria tấm gương cho Giáo Hội 270.
[12] Augustino, Tự
thuật XI, 10s.
[13] x. Ibid., 356.