Joseph Anh Nam
Đồng hành cùng Đức Kitô là ở lại trong tình thương của Ngài
và theo thật sát bước chân của Đấng Cứu Thế ở mọi nơi Ngài hiện diện.
“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra
Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau:“Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?” (Lc 24,30-32).
Trong sự bừng cháy của con tim rộng mở lắng
nghe Lời và sốt sắng tham dự bẻ bánh, hai môn đệ trên đường về Emmau đã kinh
nghiệm được Đấng Phục Sinh và nhận ra người lữ khách đã đồng hành với họ chính
là Đức Kitô. Sự đụng chạm cụ thể ấy đã biến đổi họ từ những con người buồn bã,
thất vọng trở nên những chứng nhân đầy hy vọng và tràn trề niềm hân hoan. Những
bước chân chậm chạp, nặng nề bỗng trở thành những bước chạy rộn rã! Từ đây, họ
ý thức sứ mạng của người môn đệ, mặc cho màn đêm đã phủ khắp không gian, ngay lập
tức, họ lên đường trở lại Giêrusalem để loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả những
ai là môn đệ Đức Giêsu đều được mời gọi tiếp nối sự hiện diện của Ngài trên trần
gian và cùng lên đường với Ngài. Cùng Chúa, họ đến với mọi người, đi vào giữa
đêm đen của thế gian và làm bừng lên ánh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Thời gian
quý giá trong Tập Viện là cuộc mở đầu cho đời tu sĩ – tông đồ Chúa Cứu Thế, nơi
đó, chúng tôi kinh nghiệm một cách cụ thể sự đồng hành của Đức Kitô. Cùng với vị
Tập sư, trong đồng hành thiêng liêng, chúng tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa
qua khung cảnh những cuộc đối thoại cởi mở và kiên nhẫn, bầu khí của cầu nguyện
và phân định. Nhờ đó, chúng tôi nhận biết ngày càng sâu sắc hơn gương mặt của
Thiên Chúa tình yêu, một tình yêu cá vị và trung thành. Một Thiên Chúa mà bây
lâu chúng tôi ngỡ rằng Ngài ở nơi cao xa, trong thánh điện hay ẩn hiện ở đâu đó
trong khoảng mênh mông vô định của trời đất này. Nhưng không, Ngài ở rất gần,
ngay trong chính chúng ta, tận nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Chính biến cố
Nhập Thể đã mang đến cho nhân loại Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi, để cứu
chúng ta (x. Pl 2,7tt). Việc cử hành mừng biến cố Nhập Thể hàng tháng trong Tập
Viện theo truyền thống Nhà Dòng đã liên tục nhắc nhở chúng tôi về sự gần gũi của
Thiên Chúa – Đấng Emmanuel.
Trong đồng
hành thiêng liêng, nhờ sự hướng dẫn của vị Tập sư, đồng thời cầu nguyện và suy
gẫm Lời Chúa, chúng tôi nhận ra sự tăm tối và hỗn độn của cái tôi vốn bị nhận
chìm trong thế gian. Nó trở nên những rào cản to lớn khiến chúng tôi khó có thể
sống mối tương quan con cái đối với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị
em. Trong cái nhìn quy ngã và ích kỷ, chúng tôi đã xây nên những bức tường kiên
cố, ngăn cách chính mình với tha nhân. Những méo mó của các động cơ khiến con
đường trở nên quanh co, gập ghềnh. Và giờ đây, Lời Chúa như ánh sáng dọi
vào nơi tối tăm, mời gọi chúng tôi sửa lại lối quanh co, những khúc gập ghềnh
(x. Lc 3,4-6). Chúng tôi phải
phá đổ “bức tường” cố hữu ấy để chẳng còn “hòn đá nào trên hòn đá nào” hầu có
thể được xây dựng lại trên nền đá tảng vững bền là chính Đức Kitô. Các giá trị
sống đều được nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Như thế, chúng
tôi mặc lấy tâm tình và kinh nghiệm của vị Tông đồ dân ngoại, là xem mọi thứ
như rác rến so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu và Tin Mừng của
Ngài (x. Pl 3, 8). Đó cũng là điều mà Hiến pháp Dòng Chúa Cứu Thế, số 41 kêu gọi:
“Các tu sĩ phải hết sức lưu tâm đến việc mặc lấy con người
mới được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi
chết, hầu thanh luyện động cơ của mình trong việc phán đoán và hành động. Việc
hoán cải tâm hồn và canh tân lòng trí không ngừng phải là nét đặc thù của toàn
bộ đời sống thường nhật của họ.”
Chẳng dễ
dàng chút nào! Quả thật, tất cả chúng tôi đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc,
nhiều nỗi nghi nan tưởng chừng như đã có thể dừng lại! Nhưng cuộc “trở mình”
nào cũng thế, đau đớn như là điều tất yếu để được sinh ra một lần nữa, như Đức
Giêsu đã nói với các môn đệ: “Khi sinh
con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình nhưng sinh con rồi thì không còn
nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chứa chan niềm vui vì một con người đã sinh
ra trong thế gian” (Ga 16,21). Và Chúa giải thích thêm: “Bây giờ anh em lo buồn nhưng Thầy sẽ gặp lại
anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được”
(Ga 16,22). Quả thế, như một bệnh nhân mắc một thứ ung nhọt độc dữ cần phải chấp
nhận để cho vị lương y “cạo xương chữa thuốc”[1]. Để
có thể chữa trị tận căn, phải chấp nhận một thứ nứt nẻ, đau đớn nào đó, sự đau
đớn không hề được “gây mê” trước! Chẳng ai muốn khơi lại hay đụng chạm vào những
tổn thương trong quá khứ còn tồn đọng nơi tâm lý hay thể lý, nhưng đây là lúc cần
phải có bản lĩnh của bậc nam nhi. Vậy hãy cởi mở, chân thật, khiêm hạ và đơn
sơ, cùng với vị Tập sư – lương y của Chúa, khám phá và chỉ ra những “triệu chứng”,
hậu quả và tình trạng khốn cùng của “căn bệnh”, can đảm đi vào tiến trình chữa
lành. Và rồi niềm vui của tâm hồn tự do sẽ đến và ngọt ngào hơn mọi đắng cay ta
đã nếm trải trong quá khứ, ta sẽ nhìn quá khứ với lòng biết ơn, sẽ thấy được
giá trị của mọi biến cố ta đã, đang và sẽ đối diện. Quả thật, Lời Chúa ngang
qua việc đồng hành thiêng liêng và cầu nguyện không ngừng trước Thánh Thể trở
nên phương dược chữa lành diệu kỳ. Từ đây, ta biết cảm nhận và sống tâm tình tạ
ơn đối với Thiên Chúa và mọi người, hơn những ngày qua ta đã sợ hãi, lẩn trốn.
Nhìn lại
hành trình đã qua, chúng tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước tình
yêu Thiên Chúa. Chúng tôi được đối diện với khoảnh khắc “vỡ ra” như chú gà con
chọc thủng vỏ trứng để đón ánh sáng, ra khỏi sự chật chội của cái tôi để sống đời
sống mới trong Thần Khí. Sự “vỡ ra” ấy làm chúng tôi nhận chân giây phút gặp gỡ
Đấng Tuyệt Mỹ! Ngài đã đi vào cuộc sống trần gian, đi vào chính cuộc đời mỗi
chúng tôi cách lạ lùng. Nơi đó, chúng tôi bừng nở một niềm vui nội tâm khó diễn
đạt thành lời, nhưng chân thật, sung sướng đến phát khóc. Đức Giêsu Kitô làm tất
cả vì yêu thương chúng tôi, Ngài đã ở bên chúng tôi từ lâu mà chúng tôi chẳng
hay biết, chúng tôi đã thờ ơ với Ngài quá lâu. Và giờ đây, một cách cá vị, Ngài
gần chúng tôi hơn bao giờ hết, chúng tôi được hạnh phúc sống quyền làm con, làm
công dân Nước Trời, sống giá trị Tin Mừng một cách có ý thức hơn những ngày
qua. Xin được mượn tâm tình của thánh Augustino đã thốt lên trong “tự thuật” của
ngài rằng:
“Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi! Đấng
Tuyệt Mỹ, rất cổ kính nhưng cũng rất tươi mới. Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ngài đã ở trong con mà con lại ở một thế giới ngoài bản thân con. Ngài đã gọi
con, Ngài đã than khóc vì con, Ngài đã mở tai con, Ngài đã chiếu sáng trên con,
ánh sáng của Ngài bao phủ lấy con, Ngài đã cho con thoát khỏi sự mù lòa. Ngài đổ
đầy hương thơm của Ngài trên con, con đã nín thở, nhưng giờ đây con được ngửi
hương thơm ngọt ngào của Ngài. Con được cảm nếm Ngài và giờ đây con đói khát được
ở trong Ngài. Ngài chạm đến con và con được ngập chìm trong tình yêu và bình an
của Ngài.”[2]
Thật kỳ diệu khi một ngày chúng tôi biết được
rằng Chúa Kitô gọi chúng tôi cất bước theo Ngài, ở lại trong Ngài, sống với
Ngài và cùng Ngài lên đường làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Không nơi đâu có
thể cảm nghiệm rõ và sống động điều ấy cho bằng ở trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Đấy
chính là điểm hẹn lý tưởng cùng Giêsu sau những lần đồng hành, lao động, học tập
hay bất cứ thời khắc nào trong ngày. Ngài luôn ở đó cách chắc chắn để ngỏ lời,
nâng đỡ, thêm sức mạnh và củng cố lòng tin cho tất cả chúng ta: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ” (Mt
14,27).
Trung thành với tiến trình đồng hành thiêng
liêng, chúng tôi được lớn lên về nhiều phương diện. Giờ cầu nguyện trở nên chân
thực và đúng nghĩa hơn trong sự nhận biết sâu xa hơn về tình Cha yêu thương con
cái; lòng khao khát tìm kiếm và thực thi thánh ý; sự tự do thanh khiết của trái
tim và niềm vui đơn sơ phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Ý thức về niềm hạnh
phúc được trở về và ở lại với Chúa Giêsu, giờ là lúc chúng tôi được Ngài sai đi
“như những người trợ giúp, những người đồng hành và những thừa tác viên của
Chúa Giêsu Kitô trong công trình vĩ đại của ơn cứu chuộc” (HP 2). Như thế,
chúng tôi được Tổng Công Hội XXVI của Nhà Dòng mời gọi: “Hãy can đảm lên! Hãy
nhớ rằng, chính Chúa Cứu Thế là Đấng đi bên cạnh chúng ta, và là Đấng sai chúng
ta đi với tư cách là những thừa sai mang tính ngôn sứ của hy vọng!”[3]
Ngẫm lại
những gì đã qua, chúng tôi đã thốt lên như hai môn đệ trên đường về Emmau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải
thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc
24,32). Đúng thế, lòng chúng tôi đã bừng
cháy trong giây phút nhận ra Đấng Phục Sinh đã, đang và hằng luôn đồng hành với
chúng tôi, giờ đây, chúng tôi hạnh phúc và “vui
sướng lên đường như tráng sĩ” (Tv 19,6). Cùng với Đức Kitô, chúng tôi đi
vào đời, đồng hành với những thân phận nghèo khổ, tất bạt, những tâm hồn tan
nát và mất đi niềm hy vọng, để nói với họ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả
chúng ta! Chúng tôi nhận ra mình được yêu vô hạn, yêu vô điều kiện và tình yêu ấy
thôi thúc chúng tôi đáp nghĩa ân tình, bởi vì “nơi Đức Giêsu và đặc biệt qua mầu
nhiệm chết và sống lại, người tu tìm gặp sinh lực siêu việt Nước Trời và biến cố
cánh chung của ân huệ Thiên Chúa”[4]. Chúng tôi đáp trả lời mời gọi hiến thân không nhắm mục đích tìm sự
thánh thiện cho riêng mình nhưng nhờ ơn Thánh Thần trợ lực, chúng tôi nỗ lực đạt
tới sự hiến thân trọn vẹn, qua Đức Kitô, chúng tôi nhắm đến việc trở nên lời
đáp trả cho Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương chúng tôi trước (x. HP 56). Đồng thời,
chúng tôi tham dự vào sự bỏ mình của Đấng chịu đóng đinh, toàn tâm toàn hiến
cho sự sống trần gian (x. HP 51). Xin cảm tạ tình yêu Thiên Chúa, tri ân Mẹ Nhà
Dòng cùng những vị đồng hành đầy kiên nhẫn là lòng bác ái mục tử.
Đức Kitô không những đồng hành cách cá
vị với từng người, Ngài còn hiện diện cụ thể và sống động trong bầu khí huynh đệ
cộng đoàn, đồng một trật, tất cả đều được mời gọi cùng nhau lên đường với Đức
Kitô. Quả thế, khi được quy tụ bên nhau trong bầu khí Tập Viện, chúng tôi ý thức
rõ hơn về ơn kêu gọi: “Rồi Người lên núi
và gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). Chúng tôi có mặt ở đây
hoàn toàn là do ý muốn của Thiên Chúa, cho dẫu tất cả đều là tội nhân thì ở mức
độ sâu hơn, chúng tôi đã được tuyển chọn, được cứu chuộc và quy tụ trong Đức
Kitô (x. HP 7). Chính trong cảm thức ấy, chúng tôi khám phá ra sự đồng hành kỳ
diệu của Đấng Phục Sinh, được Ngài củng cố niềm tin như các tông đồ năm xưa tại
nhà Tiệc ly. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác về người anh
em, về ân sủng Thiên Chúa hoạt động nơi anh em, từ đó nảy sinh một đoàn ngũ có
Chúa ở cùng và đồng tạ ơn tình yêu Thiên Chúa. Khi cùng nhau ở lại trong Đức
Kitô như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy ở
lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9), chúng tôi được sai đi như một
đoàn ngũ thừa sai duy nhất, hiến thân cho sứ mạng như một tập thể sống động (x.
HP 2). Trên hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, tất cả đều không đơn
độc, nhưng luôn có nhau, có Đức Kitô làm trung tâm và hiệp bước cùng nhau làm
chứng cho sự hiện diện hằng sống của Thiên Chúa.
Hiến pháp Dòng Chúa Cứu Thế, số 7, chỉ
ra: “Các tu sĩ cố gắng tìm gặp Chúa tại
những nơi Ngài vẫn hiện diện và hoạt động theo cách thế nhiệm mầu của Ngài”. Mang
theo bầu khí gặp gỡ Đức Kitô, có Đức Kitô đồng hành, chúng tôi đã có được những
kinh nghiệm cụ thể và đáng nhớ khi có cơ hội thăm viếng, gặp gỡ người nghèo, bệnh
nhân trong các hoạt vụ tông đồ. Nơi những anh chị em sắc tộc Vân Kiều tại Khe
Sanh hay những hộ gia đình cùng khốn, các bệnh nhân nan y… chúng tôi nhận ra
gương mặt của Đấng chịu đóng đinh. Chính Ngài vẫn còn chịu thương tích nơi sự
thống khổ của những kiếp người nhỏ bé nghèo hèn, bị lãng quên. Ngài tiếp tục Nhập
Thể, ở giữa nhân loại, chung chia kiếp sống và đồng hóa chính mình với họ (x. HP
4). Nơi họ, chúng tôi thấy được lý do hiện diện của Dòng Chúa Cứu Thế, chúng
tôi thấy rõ sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô. Ngài mời gọi chúng tôi ở chung
quanh Ngài, không chỉ là nơi nhà nguyện nhưng còn là ở giữa người nghèo như một
đầy tớ khiêm tốn và can trường của Tin Mừng (x. HP 6) để rao truyền Lời hằng sống
và ơn cứu chuộc cho họ. Chính nơi họ, chúng tôi thấy được diệu cảm từ lòng chạnh
thương của Đấng Sáng Lập Dòng. Khi an ủi các bệnh nhân, chúng tôi liên tưởng đến
những hoạt động tông đồ của Cha thánh tại bệnh viện Bất khả trị, sự cảm thông,
liên đới của Cha thánh luôn là tấm gương sáng cho chúng tôi. Lúc tận mắt chứng
kiến cuộc sống cơ cực, tất bạt của anh chị em sắc tộc Vân Kiều, chúng tôi cảm
nhận được diệu cảm và khát khao của Cha thánh về sự hiện diện của một Hội Dòng
thừa sai ở giữa những lớp dân bị bỏ rơi hơn cả nơi miền núi cao hẻo lánh Scala.
Chúng tôi được mời gọi mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, ngang qua diệu cảm của
Cha thánh Anphongsô nhờ Thần Khí soi dẫn, hầu có thể trở nên những chứng nhân sống
động của niềm hy vọng cho thế giới hôm nay.
Đồng hành cùng Đức Kitô là ở lại trong tình thương của Ngài
và theo thật sát bước chân của Đấng Cứu Thế ở mọi nơi Ngài hiện diện. Chúng tôi
đã kinh nghiệm thấy Ngài trong cầu nguyện, trong đồng hành thiêng liêng, trong
bầu khí huynh đệ cộng đoàn và trong công việc tông đồ bên cạnh những người
nghèo và bị bỏ rơi nhất. Đó là ân huệ tuyệt vời, là quà tặng của tình yêu Thiên
Chúa, nhưng chúng tôi ý thức rõ, mình cũng chỉ là “bình sành, lọ đất” (x. 2 Cr
4,7), những con người mỏng giòn yếu đuối! Vì thế chúng tôi được mời gọi phó
thác, hoán cải tâm hồn và canh tân lòng trí không ngừng (x. HP 41), đồng thời mở
lòng mình ra, dễ dàng thuần phục đối với Chúa Thánh Thần (x. HP 25) để Ngài tự
do sử dụng chúng tôi như khí cụ bình an của Chúa. Chúng tôi có một mẫu gương
tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa và
trung kiên dõi theo Con Mẹ trên mọi nẻo đường, đồng hành với Chúa cho đến tận đỉnh
đồi Calvê, ở đó Chúa trao phó Mẹ cho chúng tôi và chúng tôi cho Mẹ (x. Ga
19,25-27). Luôn kiên trì và trung tín dẫu đang bước trên đường thập giá là minh
chứng cho lòng yêu mến và trung thành thực sự của người môn đệ Chúa Cứu Thế,
như sứ điệp của Tổng Công Hội XXVI mời gọi:
“Anh chị em thân mến, hôm nay, có lẽ hơn bao giờ hết, chúng
ta được mời gọi chấp nhận rủi ro, như những nhà thừa sai mang tính ngôn sứ của
hy vọng, hãy sẵn sàng ra đi đến nơi Thần Khí mời gọi, với tầm nhìn về tạo thành
và nhân loại được đổi mới theo hình ảnh Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc của chúng
ta. Được Mẹ Hằng Cứu Giúp và tất cả tổ tiên của chúng ta trong gia đình Dòng
Chúa Cứu Thế đồng hành, “chúng ta đừng để mất dấu Chúa Giêsu” (Hr 12, 2). Chúng
ta hãy cùng nhau tiến lên trong hy vọng đầy can đảm!”[5]
Lắng nghe lời giáo huấn của Đức Thánh
Cha Phanxicô, chúng tôi thêm xác tín rằng: “Thiên Chúa không ở đâu xa, Người
luôn ở cùng chúng ta, đến nỗi nhiều lần gõ cửa trái tim chúng ta. Chúa đi bên cạnh
chúng ta để hỗ trợ chúng ta. Chúa không bỏ rơi chúng ta. Người đồng hành với
chúng ta trong các sự kiện hiện sinh của chúng ta để giúp chúng ta khám phá ý
nghĩa của cuộc hành trình, ý nghĩa của cuộc sống hàng ngày, để khơi dậy lòng
can đảm trong thử thách và đau đớn. Giữa những giông tố cuộc đời, Thiên Chúa
luôn tìm đến với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi những mối đe dọa.”[6] Vậy hãy trỗi dậy, Đức Kitô
đang chờ đợi, hãy lên đường và cùng đi với Ngài!
[1] Câu chuyện Hoa Đà “cạo
xương – chữa thuốc” cho Quan Vũ thời Tam Quốc.
[2] x.
Mark Falkenhair, Ơn gọi yêu thương,
Nguyễn Hoài Huy chuyển ngữ, (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2021), 76.
[3] Sứ điệp của các nghị viên
Tổng Công Hội XXVI Giai đoạn theo Giáo luật, số 5.
[4] Thần học đời tu, lưu hành nội bộ, 37.
[5] Sứ điệp của các nghị viên
Tổng Công Hội XXVI Giai đoạn theo Giáo luật, số 9.
[6]
ĐGH Phanxicô, Sống Tốt, Phương Đình
Toại chuyển ngữ, (Đồng Nai: NXB. Đồng Nai, 2022), 104.