Joseph
Tân Nguyễn, ofm
GIỚI THIỆU: KINH
THÁNH – “LỜI CỦA CHÚA” và “LỜI VỀ CHÚA”
Qua
lịch sử, người ta đã dùng nhiều phương pháp để khai triển ý nghĩa của bản văn
Kinh Thánh, nhưng nói chung, có hai trục chú giải chính yếu. Trục đầu tiên là xem
Kinh Thánh như là “Lời của Chúa”, ẩn dấu thực tại siêu việt mà Thiên
Chúa đã mạc khải, cần phải có một tâm hồn thánh thiện, khao khát sự công chính
thì mới tiếp cận sách thánh được. Dần dần qua thời gian, người ta ý thức rằng tuy
bản văn Kinh Thánh được mạc khải nhưng cũng do ai đó đã viết xuống cho một nhóm
tín hữu thuộc bối cảnh nào đó, về Thiên Chúa. Vì thế, muốn chú giải Kinh Thánh
cho chính xác thì không chỉ cần tri thức về ngôn ngữ và còn cả về bối cảnh xuất
xứ và ý định của tác giả (không gian phía sau bản văn) cùng với nhu cầu đức tin
của cộng đoàn hay các độc giả tương lai (không gian phía trước bản văn). Qua lịch
sử, cả hai cách hiểu về Kinh Thánh như là “Lời của Chúa” và “Lời về
Chúa” đã tồn tại song song với nhau. Phụng vụ thường nhấn mạnh về quan điểm
thứ nhất, còn thần học thì được khai triển dựa trên quan điểm thứ hai.
Tự
bản văn thì không có gì thay đổi, nhưng muốn hiểu Kinh Thánh như là“Lời về
Chúa” thì sẽ cần nhiều kỷ năng chú giải chuyên biệt hơn. Suốt hơn mười hai
thể kỷ đầu, việc diễn giải Sách Thánh (Sacra Pagina) được tiến hành song
song với quá trình phát triển của Giáo Lý thánh (Sacra Doctrina). Đến thời
Khai Sáng, việc chú giải được mở rộng bao gồm những tác phẩm cổ điển, các nền
văn hóa xa lạ và luật pháp, từ đó, khoa giải thích học được thành hình, nghiên
cứu điều kiện cho việc am hiểu mọi đối tượng mà ý nghĩa đã bị mơ hồ vì khoảng
cách lịch sử hay phạm trù tri thức. Đến thể kỷ XX, giải thích học được kết nối
với hiện tượng luận và triết hiện sinh và trở thành một loại triết học thông diễn
về hiện tượng “hiểu” như là cách con người tồn tại. Sự kiện này đánh dấu “khúc
quanh ngôn ngữ” trong triết học hiện đại,
Bài
này sẽ được giới hạn trong phạm vi chú giải Kinh Thánh. Trước tiên, Đức Giêsu
và các Tông Đồ đã dùng dụ ngôn và phương pháp ứng nghiệm để giải thích Torah trong
bối cảnh mục vụ của mình. Kế tiếp, các Tông phụ khi phản biện lại cách tách biệt
quá khích của phái Ngộ giáo giữa “bầu cũ” với “rượu mới” đã giới thiệu một số nền
tảng cho tính “linh ứng” của Kinh Thánh. Các Giáo phụ sau thế kỷ III đã thêm
vào yếu tố “thánh truyền” để bảo vệ tính vẹn toàn của mặc khải giữa sự đa dạng
của các trường phái chú giải Kinh Thánh. Thời Trung Cổ, với học thuyết “bốn ý
nghĩa” của bản văn thì việc chú giải Kinh Thánh đã trở nên tinh vi hơn, và cuối
cùng ngành nghiên cứu về các tín khoản (sacra doctrina) được tách biệt
ra thành nền tảng cho thần học tín lý tương lai. Thời Cận Đại với khát vọng muốn
phục hồi ý nghĩa chính xác của bản văn, phong trào Cải Cách và Phục Hưng đã
khai triển sâu sắc hơn về không gian “phía sau” bản văn (ý định và cá tính của tác
giả, bối cảnh văn hóa, hình thức ngôn ngữ). Từ đó, “giải thích học” đương nhiên
trở thành phương pháp nghiên cứu chung cho ngành nhân văn học chứ không riêng
gì về Kinh Thánh nữa.
ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC
TÔNG ĐỒ CHÚ GIẢI CỰU ƯỚC
Mục
tiêu của việc chú giải Torah (lề luật) trong Do Thái giáo là giúp các tín đồ nắm
bắt được bản chất thiêng liêng của nó, tức là sự hiện diện của Yaweh. Các Kinh sư
dùng phương pháp Aggadah để khai triển khía cạnh luân lý để giúp tín đồ vươn
lên đến Torah, và phương pháp Kabbalah để suy diễn trật tự thánh thiêng của vũ
trụ và ý nghĩa thần bí của Torah. Được sinh ra và trưởng thành trong Do Thái
giáo, Đức Giêsu, thánh Phaolô và các tông đồ rất quen thuộc với các lối chú giải
này. Họ đã thêm vào những nguyên tắc chú giải mới cho phù hợp với nhu cầu sứ vụ
của mình, và đã dùng Cựu Ước để chứng tỏ rằng biến cố Kitô chính là thực tại của
những hình bóng mà Cựu Ước đã nói đến.
Đức
Giêsu chú giải Cựu Ước
Các
Kinh Sư Do Thái giáo cho rằng toàn thể Torah xuất phát từ thẩm quyền của Thiên
Chúa và được mặc khải qua lời của Môisen, nhưng Đức Giêsu phân biệt giữa luật
Thiên Chúa và luật của Môisen đặt ra cho đám dân cứng lòng trong sa mạc (Mc
10:2). Đôi khi Thần Khí Thiên Chúa nói qua con người, như trong trường hợp
Môisen cho phép dân ly dị hoặc Vua David ăn bánh thánh dâng trong đền thờ. Đức
Giêsu tố cáo các Kinh sư đã lạm dụng và coi thường luật Thiên Chúa. Họ chỉ lo
giữ truyền thống (Mc 7:9), qui luật phụng vụ (Mc 2:25), và nghi thức thanh tẩy
(Mc 7) của họ.
Nhưng
làm sao phân biệt được khi nào thì chú giải Kinh Thánh được soi sáng bởi Thần
Khí Thiên Chúa và khi nào thì bị lạm dụng bởi lề luật? Cách trả lời của Đức
Giêsu thường nhắm vào lòng thương xót của Thiên Chúa (Mt 9:13), nhu cầu hoán cải
tâm hồn của tội nhân (Isa 29:13), và phục hồi nền tảng luân lý của lề luật. Đức
Giêsu phản đối việc dùng nơi thờ phượng để kinh doanh (Mc 11:17). Người đặt
lòng nhân từ của Thiên Chúa trên lề luật, nhu cầu chữa lành trên ngày Sabbath
(Jn 7:22), và truyền thống ngôn sứ trên truyền thống tư tế. Người tóm tắc sách
Đệ Nhị Luật vào điều răn “Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (Mc 9:29)
và thêm vào đó đòi hỏi của Liviticus “yêu tha nhân như chính mình” (Mc
12:31). Người dùng thẩm quyền của chính mình khi tuyên bố, “Không có quy luật
nào cao cả hơn các quy luật này”, và tất cả luật lệ và ngôn sứ đều bao gồm
trong hai qui luật này (Mt 22:40).
Một
nguyên tắc khác nữa là tính độc lập trong cách Đức Giêsu chú giải Kinh Thánh.
Người thường nói. “Anh em đã nghe… nhưng tôi nói.” Cho dù Đức Giêsu phê
bình thái độ khắc khe về lề luật của nhóm Pharisêu nhưng Người không coi thường
luật lệ, trái lại đã củng cố và phục hồi ý nghĩa chân chính của lề luật và lời
ngôn sứ, vì các lời đó đang nói về Người. Chính Người là sự ứng nghiệm của các
ngôn sứ, “Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần kề” (Mc 1:15). Đây
không phải là điều gì bí ẩn vì ai cũng biết Kinh Thánh nói Elijah phải đến trước,
và Đấng Messiah phải chịu đau khổ và bị loại trừ. Người giải thích các phép lạ
làm cho người mù được thấy, người què được đi như là sự ứng nghiệm lời của các
Tiên tri trong Cựu Ước (Mt 11:5, Lc 7:22). Lúc biết mình sắp ra đi, Đức Giêsu
đã lập bí tích Thánh Thể như lời giao ước mới mà ngôn sứ Jeremiah đã báo trước.
Người cẩn thận nhắc nhở kẻ phong hủi mới được chửa lành phải đi báo cho các kỳ
mục biết như luật Môisen buộc phải làm (Mc 1:44).
Cuối
cùng, Đức Giêsu diễn giải Cựu Ước từ kinh nghiệm của Người về “Abba” và “Nước
Trời”. Ngài khẳng định rằng, với sự hiện diện của Người thì lề luật được thay
thế bằng tình yêu của Thiên Chúa. Ai tin vào luật Môisen mà không tin vào Đức
Giêsu là đã sai lầm rồi vì Môisen nói về Người Ga 5:46). Chúng ta hiểu sai lề
luật nếu không tuân theo thần khí ngôn sứ đã đến để dạy cho chúng ta (Ga 8:17).
Người dùng cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực khi nói về vai trò “ứng nghiệm”
của mình. Lối diễn giải dựa trên lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Cha hay bị
các Kinh Sư chống đối. Nguyên tắc chú giải Kinh Thánh của Đức Giêsu có thể được
tóm tắc trong câu: “Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi từ Nước Trời, thì cũng
giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt
13:52).
Thánh
Phaolô chú giải Cựu Ước
Thánh
Phaolô rất quen thuộc với cả truyền thống Torah cùng với các bản văn ghi lại lời
giảng của Đức Giêsu. Cả Phaolô và Đức Giêsu đều chống lại não trạng duy lề luật
của nhóm Pharisêu. Phaolô quy tinh thần của lề luật vào một nguyên tắc chung: “Ngươi
hãy yêu thương tha nhân như chính mình.” (Gal 5:14, Rom 13:9). Nhưng vì sống
sau Đức Kitô gần 20 năm, những kinh nghiệm của Phaolô về Giáo Hội, ơn cứu độ,
bí tich và đời sống đức tin của cá Kitô hữu đã để lại dấu ấn trên cách ngài giải
thích Cựu Ước. Phaolô dùng phương pháp ẩn dụ để nhân cách hóa và luân lý hóa Cựu
Ước, và dùng Cựu Ước để làm sáng tỏ ý nghĩa sứ mệnh của Đức Kitô và giáo hội.
Các trình thuật về sự sa ngã của Adam, cuộc lưu đày ở Ai-cập, biến cố xuất
hành, thanh tẩy ở sa mạc, vào đất hứa, v.v., đều là hình ảnh về những gì đã thực
sự xảy ra trong cuộc đời của Đức Kitô và Giáo Hội. Đức Giêsu được xem như là “Adam
thứ hai”, các tổ phụ chịu “phép rửa” bằng đám mây và biển đỏ qua biến cố Xuất
Hành, và được “nuôi dưỡng” bằng thức ăn và uống thiêng liêng trong sa mạc (1
Cor 10:2).
Trong
khi Đức Giêsu chấp nhận thập giá như là con đường đưa đến ơn cứu rỗi cho con
người thì Phaolô nhấn mạnh vào sự ô nhục của Thập giá để vạch trần sự khao khát
vô vọng của sự tìm kiếm sự khôn ngoan trong triết lý Hy-La. Cách Phaolô giải
thích tình trạng nước đôi của lề luật cho thấy tài hùng biện và khả năng trực
giác của ngài. Một mặt, vì lề luật đến từ Thiên Chúa nên là công chính và thiện
hảo (Rm 7:12). Nhưng mặt khác, “tình yêu là sự ứng nghiệm của lề luật”
(Rm 13:10), do đó ý nghĩa của Cựu Ước là không phải trong chính nó mà trong
tương quan với Đấng sẽ đến (Mt 12:38, Lc 11:29). Phaolô đã kết nối chú giải “ứng
nghiệm” với biện chứng “tiên trưng” khi cho rằng những phúng dụ và lời nói bóng
trong Cựu Ước là hình ảnh cho thực tại thiêng liêng hay tội lỗi trong Giáo Hội.
Ví dụ, Đức Giêsu phục hồi những gì Adam đã đánh mất (1 Cor 15), hai đứa con
trai của Abraham, một sinh ra bởi thân xác tội lỗi và một sinh ra bởi lời hứa của
Thiên Chúa, là hình bóng của hai lời giao ước ở Sinai và ở Jerusalem (Gal
4:22-26). Trong các thư mục vụ, ngài thường dùng kinh nghiệm cá nhân như mô phạm
để khuyên bảo anh em sống và hiểu Lời Chúa (2 Thess 1:7, 1 Cor 10:6).
Phaolô
có khuynh hướng dùng các trình thuật lịch sử của Cựu Ước như là phúng dụ (allegory),
chứa đựng các mức độ ý nghĩa tiềm ẩn khác nhau về biến cố Kitô. Từ ngữ thì
không quan trọng cho bằng ý nghĩa trung tâm: cả Kinh Thánh phải được hiểu qua
nhãn quan của sự chết, sống lại và sứ mệnh của Đức Kitô. Người là trung tâm chú
giải mới về lịch sử cứu độ: từ Israel cũ đến Israel mới là Giáo Hội, từ Adam thứ
nhất đến Adam thứ hai là Đức Kitô. Khi xem sự kiện lịch sử như là phúng dụ,
Kitô hữu có thể hiểu rõ hơn về hành trình đức tin và tội lỗi của mình. Sự bất
tuân của Adam mang tội lỗi và sự chết vào thế gian (Rom 5:12), đức tin của
Abraham công chính hóa ông trước mặt Thiên Chúa (Gal 3:6), nhưng “biến cố Kitô”
mặc khải cho chúng ta sợi dây liên kết phổ quát của toàn thể nhân loại: “Như
trong Adam tất cả phải chết, thì trong Đức Kitô tất cả sẽ được cho sống lại”
(1 Cor 15:22).
Ngoài
phúng dụ, Phaolô còn dùng biểu tượng (symbol) để khai thác trí tưởng tượng
khi cần kết nối niềm tin Kitô giáo với các biến cố Cựu Ước. Ví dụ, Đức Kitô
chính là hiện thân của Đức Khôn Ngoan và là đầu của Giáo Hội (1Cor 10). Thức ăn
và nước uống thiêng liêng, tảng đá gốc thiêng liêng của các Tổ Phụ Do thái là
biểu tượng cho bánh từ trời, nước hằng sống, và đá tảng thật vốn là Đức Kitô.
Khăn che mặt của Môisen khi tiếp cận với Đức Chúa là hình ảnh của cách người Do
Thái hiểu Cựu Ước. Nhưng màn che đó đã được tháo bỏ qua biến cố Kitô khi Thần
Khí Thiên Chúa giải thích Kinh Thánh trực tiếp nơi con tim của các Kitô hữu. Đó
là ý nghĩa của sự tự do khi lề luật được công chính hóa bằng đức tin và ân sủng
(2 Cor 3:14). Não trạng duy lề luật làm cho ta bị mù và không nhận ra những mầu
nhiệm bí ẩn hay hình ảnh Thiên Chúa ẩn dấu trong Cựu Ước. Bối cảnh gốc của Cựu
Ước thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa nó mang lại cho chủ đề Kitô học. Vì lẽ,
theo Plaolô, “bất cứ điều gì đã được viết xuống trước đây thì được viết để dạy
dổ chúng ta… Niềm hy vọng đây chính là Đức Kitô phục sinh và quang lâm”
(Col 1:15). Sau khi trở lại, động lực bền vững trong cách Phaolô chú giải Kinh
Thánh chính là kinh nghiệm cá nhân: “không phải tôi sống mà Đức Kitô sống
trong tôi” (Gal 2:20).
Tân
Ước chú giải Cựu Ước
Các
tác giả của Tin Mừng dùng cả ẩn dụ và biểu tượng, nhưng nhấn mạnh hơn về tính
tiên trưng (typology) của Cựu Ước. Phương pháp tiên trưng đi xa hơn “ứng
nghiệm” khi nó giải thích rằng Cựu Ước chứa đựng những lời tiên tri, cho thấy
trước những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô. Các biến cố trong cuộc đời của Đức Giêsu
đã được Cựu Ước biết trước, nhưng chỉ được tiên báo bằng ngôn ngữ hình tượng và
ngôn sứ. Chân lý chứa đựng trong Cựu Ước đã được Chúa Giêsu hoàn thực. Thánh
Linh sẽ chọn thời gian và không gian để tác động lên sự hiểu biết của người
nghe, giúp họ nhận thức các chân lý này. Phương pháp tiên trưng giả định một sự
hài hòa giữa biến cố Cựu Ước trong quá khứ và thực tại đang được trình thuật lại
trong Tân Ước. Chỉ qua phương pháp này thì các sách Ngôn Sứ mới được hiểu đúng.
Tuy
nhiên, sự hài hòa này nhiều khi được tạo nên cách tùy tiện với mục tiêu minh chứng
rằng Cựu Ước đã biết trước về sứ mệnh và vai trò của Đức Kitô. Phương pháp tiên
trưng dựa trên kỷ năng tưởng tượng và đồng cảm hơn là lôgic. Sự tương đồng giữa
các biến cố này tùy thuộc vào khả năng người chú giải nhận ra ý nghĩa thiêng
liêng và luân lý của bản văn, nhưng bối cảnh lịch sử gốc của nó thì thường bị
lướt qua. Một ví dụ cụ thể là “Thư Do Thái” vốn được viết để an ủi và củng cố đức
tin của những người bị tổn hại sau khi trở thành Kitô hữu và tự phân vân có phải
tại vì Đức Kitô mà cuộc sống của họ đã trở nên chao đảo. Bức thư Do Thái giải
thích rằng tất cả lễ nghi linh đình tại đền thờ Giêrusalem chỉ là “hình bóng” của
một sự kiện khác vĩ đại hơn nhiều. Ơn thứ tha tội lỗi, lòng tôn thờ Thiên Chúa
trong thần khí, niềm khác vọng của toàn bộ Cựu Ước, phải do vị tư tế chân chính
của toàn thể nhân loại là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thực hiện thì mới được hoàn
tất. Hình ảnh tư tế “Melkizedek”, vốn cao trọng hơn hàng tư tế của phái Levi,
được dùng để minh họa cho vai trò tư tế vĩnh cửu của Đức Kitô. Đây là cách lý
luận từ hình bóng đến thực tại, từ sự kiện tạm bợ đến vĩnh cửu, và từ tính mỏng
giòn yếu đuối của con người đến tính siêu việt và hoàn hảo của Thiên Chúa, vốn
phản ảnh tri thức luận nhị nguyên “thực tại/ảo ảnh” của Platô.
Các
Tin Mừng nhất lãm dùng cả hai phương pháp tiên trưng và ứng nghiệm. Tin Mừng
Matthew xem Đức Giêsu như là ứng nghiệm của lề luật trong sự hoàn tất của giáo
huấn luân lý: “một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không qua đi cho đến
khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Mọi biến cố trong cuộc đời Đức
Giêsu: ra đời tại Bethlehem, được các đạo sĩ ngoại giáo biết là Vua dân Do
Thái, chạy trốn sự bách hại của Hêrôđê, trở về từ Ai-cập, bài giảng trên núi,
biến hình, v.v., tất cả đều được hổ trợ với bằng chứng trích dẫn từ các sách Xuất
hành, Samuel, Hosea, Jeremiah. Việc trích dẫn chứng cớ lịch sử thì không hoàn
toàn chính xác, nhưng có quá nhiều sự trùng hợp giữa Cựu Ước và cuộc đời của Đức
Kitô làm cho chúng ta thấy rõ mục đích của tác giả là minh chứng Đức Kitô như
Môisen mới, mang đến lề luật mới, và cho thấy lời tiên tri đã được ứng nghiệm.
Trong
khi Tin Mừng Matthew giải thích lời tiên tri được ứng nghiệm nơi Đức Kitô, thì
Tin Mừng Luca cho thấy sự ứng nghiệm đó xảy ra cho dân ngoại. Luca nhắm vào sứ
mệnh và ơn gọi của dân Chúa được tuyển chọn. Ngay từ đầu, các Bài Ca
“Magnificat” và “Benedictus” cho chúng ta một cái nhìn về lịch sử ân sủng Thiên
Chúa đã ban tặng cho dân Israel. Cuối bản Tin Mừng, Đức Kitô phục sinh cũng đã
hai lần trách móc các môn đệ về sự chậm hiểu của họ về Kinh Thánh. Người mở
lòng trí và giải thích cho họ biết những gì sách Ngũ Kinh, các Ngôn Sứ và Thánh
Vịnh nói về Người (Lc24,13-35). Lưu tâm của Luca là sự đóng lại màn lịch sử cũ
và mở ra một sân khấu mới với sứ mệnh mới cho dân Israel mới, đó chính là cộng
đồng các Kitô hữu, hay giáo hội. Nói chung, cả hai Tin Mừng Matthew và Luca đều
phải tìm cách giải quyết mối tương quan giữa “Bình cũ/Rượu Mới”, tiêu biểu
cho mặc khải Cựu Ước và sứ vụ của Đức Kitô.
Tin
Mừng Gioan tuy không trực tiếp trích dẫn Cựu Ước, nhưng vẫn dùng các chủ đề của
Cựu Ước làm khung cho các bài giảng thuyết để nói lên Thần Khí Thiên Chúa đang
đồng hành với Đức Kitô. Gioan dùng phạm trù “Logos” để tạo nhịp cầu giữa “biến
cố Kitô” với nền văn hóa Hy-La và các Tông Phụ sau 100AD. Cựu Ước được dùng như
là hậu cảnh “bóng tối” mà ánh sáng Logos đã chiếu soi vào, xuyên qua các ngôn sứ
và những ai đã từ chối ánh sáng đó. Những ai đón nhận thì được ơn làm con Thiên
Chúa và được hiệp thông trong mầu nhiệm của sự sống với Thiên Chúa. Tính siêu
việt của Đức Kitô được tiền tri như là hình bóng của Thiên Chúa qua Cựu Ước
(Isaia 6:5), vì không ai có thể thấy Thiên Chúa, trừ khi được con Thiên Chúa mặc
khải cho. Ở đây có sự so sánh giữa mặc khải của Hòm Bia Thánh trong Cựu Ước với
mặc khải siêu việt và hoàn hảo hơn, chính là thân thể của Đức Kitô. “Lề luật
thì được ban cho Môisen, nhưng ân sủng và chân lý thì qua Đức Giêsu Kitô” (Ga
1:17).
Các
Thư Mục Vụ của Timothy và Titus mang ảnh hưởng giáo hội học và Kitô học của
Phaolô. Lề luật là tốt nhưng phải được chú giải theo Thần Khí Đức Kitô, vốn được
ân ban để xây dựng cộng đồng dân Chúa. Phaolô dùng sự hiểu biết về Cựu Ước và
kinh nghiệm đức tin trưởng thành giữa lòng cộng đoàn Kitô để khuyên bảo
Timothy: “Tất cả sách thánh đều do Thiên Chúa linh ứng và có ích cho việc giảng
dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tim 3:18). Sau hết,
Tân Ước cho biết Đức Giêsu còn nhiều điều muốn nói về Kinh Thánh nhưng Thần Khí
Thiên Chúa sẽ là người dạy và nhắc nhở các môn đệ về những gì Đức Giêsu đã nói
và dẫn dưa họ đến chân lý. Ý nghĩa của Cựu Ước sẽ được mở rộng và thông diễn bằng
chính đời sống và lời chứng tá của các Kitô hữu.
CÁC TÔNG PHỤ VÀ VẤN
ĐỀ “BẦU CŨ & RƯỢU MỚI”
“Biến
cố Kitô” đã để lại những chấn động trên cuộc sống của các môn đệ và các thế hệ Kitô
hữu sau đó. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại sự hăng say, nóng lòng muốn lan truyền
cho thế giới về một Thần Khí Mới đang phát sinh nơi cộng đồng những người mới
chịu Phép Rửa. Tuy nhiên, sự hăng say này đã mang lại nhiều phản ảnh tiêu cực từ
các lãnh đạo Do Thái giáo. Sau khi Giêrusalem bị quân đội Rôma phá hủy, người
Do Thái trở nên thù nghịch hơn với các Kitô hữu và đã khai trừ họ ra khỏi hội
đường. Nhưng các Kitô hữu vẫn luôn kiên trì, xem lời hứa cứu rỗi của dân Do
Thái cũng là lời hứa cho chính mình, và muốn giữ sự liên tục giữa Kinh Thánh và
“biến cố Kitô”, vì cả hai cùng đến từ một Thiên Chúa. Có những nhóm Ngộ giáo (Gnostics)
quá khích, muốn hoàn toàn loại bỏ “bầu cũ” một khi đã có “rượu mới”, trích xuất
các Thư của Phaolô để hỗ trợ cho việc họ lên án linh đạo lề luật Cựu Ước. Đó là
chưa kể những cuộc bắt đạo đẫm máu mà Giáo Hội sẽ gánh chịu. Vì thế, sẽ cần thời
gian và ơn soi sáng của Thần Khí để tạo một hợp đề “công giáo” thích ứng cho bối
cảnh này. Các Tông Phụ tiên phong như Inhaxiô và Barnaba, Marcion và Justinô,
cũng như Plôtêmê và Valentinô là những vị tiên phong, nhưng Irênê mới là người đã
xây dựng nền tảng linh ứng của Tân Ước với truyền thống của Giáo Hội. Tính vẹn
toàn của mặc khải này sẽ là nền tảng cho sự hình thành của thư quy “Tân Ước”.
Các
Tông Phụ giải quyết vấn đề vẹn toàn của Lời Chúa
Thời
các Tông Phụ, khái niệm “Tân Ước” vẫn còn linh động. Đối với những Kitô hữu gốc
Do Thái, “biến cố Kitô” là sự ứng nghiệm của lề luật và ngôn sứ. Nhưng các Kitô
hữu gốc Hy Lạp không mang cùng tâm thức lịch sử về “Vượt Qua”, “Xuất Hành”, “Sa
Mạc” hay “Đất Hứa” như người Do Thái, cho nên khái niệm “ứng nghiệm” của Cựu Ước
không đóng góp gì cho đức tin của họ. Việc tuân giữ lề luật cũng gây tranh cãi
giữa các cộng đoàn truyền giáo. Một bên cho rằng: “Đức Giêsu đến để
hoàn thiện lề luật. Không một dấu, một vết của lề luật có thể bị bỏ qua” (Mt
5,18). Còn bên kia thì quả quyết: “Đức Giêsu đến để giải thoát chúng ta
khỏi lề luật, do đó chúng ta được tự do sống theo Thần Khí và ân sủng” (2
Cr 3,4-6). Giữa hai thái cực này còn có nhóm Ngộ giáo với linh đạo cuồng tín vốn
không phù hợp với tính “công giáo” của đạo mới. Với tác phẩm “Tông Đồ Công Vụ”,
cộng đồng Kitô hữu bắt đầu gom lại các thư của Phaolô và các Tông Đồ để truyền
nhau đọc trong các buổi phụng vụ. Tuy cùng chia sẻ chung một niềm tin rằng “mặc
khải Kitô” thì siêu việt hơn mặc khải của Cựu Ước, nhưng vẫn còn đó sự khác biệt
về cách kết nối “bầu cũ” với “rượu mới”. Chúng ta sẽ sơ lược qua các quan điểm
của một số tông phụ trước khi đi vào nguyên tắc linh ứng dựa trên thẩm quyền của
Irênê
Inhaxiô,
Barnabas và Marcion
Inhaxiô (c
108) trên đường bị truy điệu về Rôma để chịu án tử hình đã viết bảy lá thư mục
vụ khuyên bảo các cộng đoàn Kitô hữu giữ vững đức tin.[1] Qua đó, ngài đã để lại một
nguyên tắc quan trọng về việc chú giải Lời Chúa. Một số Kitô hữu tại
Philadelphia cho rằng, nếu không tìm thấy “bản văn” Kinh Thánh trong các “Thư”
thì chúng không thể thuộc về Tin Mừng. Phản hồi lại thái độ quá lệ thuộc vào Cựu
Ước này, Inhaxiô giải thích rằng “Bản Văn” được mặc khải chính
là Đức Giêsu Kitô, công cuộc cứu độ và đức tin phát xuất từ Người. Vì Kinh
Thánh được viết về Đức Kitô, nên ý nghĩa thư quy phải là hiện thân và là sứ vụ
Nước Trời của Người. Như thế, Inhaxiô đã giới thiệu một nguyên
tắc linh ứng dựa trên quan điểm Kitô luận.
Nguyên
tắc Kitô luận cũng được Barnabas(70-132)[2] dùng để biện phân
tính chân thực của “Lời Chúa”, nhưng đã đưa đến kết luận hơi thái quá. Barnabas cho
rằng, vì người Do Thái đã hiểu sai những hình bóng về lịch sử ơn cứu độ; do đó,
không có lý do gì mà Kitô giáo cần phải viện đến lời giao ước cũ, để giải thích
cho ý nghĩa về sự trọn vẹn hay hoàn tất của lời giao ước mới, chính là Đức
Kitô. Barnabas muốn cắt đứt mối liên kết giữa hai lời giao ước
và cách dùng lịch sử Cựu Ước để minh họa cho mặc khải Kitô giáo.
Marcion
(85-160) thuộc phái Ngộ giáo, nhấn mạnh tính đối nghịch giữa lề luật và ân sủng
thường được thấy trong các thư mục vụ của Phaolô.[3] Dựa trên quan điểm nhị
nguyên này, Marcion phân biệt Thiên Chúa Công Chính (Lề luật và Do thái giáo) với
Thiên Chúa Thiện Hảo (Cha của Đức Kitô). Sự mới mẻ của Tin Mừng đã loại bỏ tính
thô lỗ hay cục mịch của Cựu Ước. Những nhân vật như Cain, dân thành Sôđom, dân
Ai Cập và những kẻ gian tà khác đều đến với Đức Kitô để mong được cứu rỗi; thế
nhưng, vì dựa trên sự công chính, họ đã bị loại trừ. Chỉ có ân sủng và đức tin
mới cứu độ. Marcion dùng thuyết ân sủng của Phaolô để cắt đứt mối tương quan giữa
hai lời giao ước vốn xuất phát từ cùng một Thiên Chúa.
Justinô,
Ptôlêmê và Valentinô
Justinô (100-162)
là nhà biện giáo đưa đã tạo nền tảng cho quan điểm mặc khải của Giáo Hội sơ
khai. Ngài phản đối sự tách biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước và cho rằng Thiên Chúa
của Cựu Ước cũng là Thiên Chúa của Tân Ước, và chính Người cũng (được mạc khải)
là Cha của Đức Kitô. Không có Cựu Ước thì cũng sẽ không có Tân Ước. Tất cả các ngôn
sứ trong Cựu Ước lẫn triết gia Hy Lạp đều là chứng nhân cho Thiên Chúa và thuộc
cùng một gia tộc Kitô hữu, nhưng với cấp độ mặc khải khác nhau. Có một mối
tương quan giữa Lề luật và linh đạo Kitô giáo, cũng như giữa các ngôn sứ và sự
mong chờ vào sự hoàn tất của lời tiên tri. Các tổ phụ Do Thái vẫn được cứu rỗi,
nhưng không cần phải cắt bì, giữ ngày Sabat hay luật lệ về ăn uống và của lễ hiến
tế; bởi vì, hai biến cố cuộc khổ nạn và sự (phục sinh) vinh quang của Đấng
Mêsia đã được Cựu Ước tiên báo. Justinô đã ra công bảo tồn Cựu Ước cho Kitô
giáo, nhưng cách dùng phương pháp tiên trưng của Justinô hơi lỏng lẻo và khó
minh chứng các lời tố cáo rằng một số bản văn nói đến mặc khải Kitô giáo trong
Cựu Ước đã bị người Do Thái cắt bỏ.
Một
cách liên kết lịch sử khác đến từ Ptôlêmê (100-170)[4] thuộc phái Ngộ giáo. Ptôlêmê cho
rằng mặc khải Cựu Ước (lề luật) thì không hoàn toàn do Thiên Chúa mà một số đến
từ con người vì nhu cầu đặc biệt của dân Do Thái. Còn “luật tình yêu” trong Tân
Ước thì do chính Đức Kitô, Con Thiên Chúa ban cho chúng ta. Luật Thiên Chúa thì
hoàn hảo, nhưng cách giải thích chúng thì bất toàn, cần phải hoàn thiện bởi Đấng
Cứu Độ, Người đã cải biến thực tại khả giác thành những thực tại thiêng liêng
và vô hình. Lề luật Do Thái cần được mặc lấy ý nghĩa thiêng liêng, như thánh
Phaolô đã tuyên bố: “Đức Kitô, cuộc vượt qua của chúng ta đã hiến tế
cho chúng ta” (1 Cr 5,7). Với lý luận này, việc chú giải Kinh
Thánh không phải cắt bỏ truyền thống, nhưng cần biện phân các thực tại thiêng
liêng và vô hình tiềm tàng trong đó.
Mặt
khác, Valentinô (100-180)) đại diện cho giới trung lưu có hiểu biết
nhiều về triết lý Hy Lạp[5]. Ông có thái độ cứng rắn
hơn về mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước khi trích dẫn Gioan 10,8: “Mọi
kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp.” Cựu Ước chỉ là một cuốn sách tầm
thường với luật lệ bất cập, mâu thuẫn và đôi khi bất nhân. Thiên Chúa của Do
Thái giáo không được giới triết gia Hy Lạp tôn trọng, nhưng thời đó Giáo Hội
chưa có cách đáp ứng thích đáng cho vấn đề này. Phaolô và tác giả của “Thư Do
Thái” chỉ thỏa mãn nhu cầu cập nhật đức tin cho các tín hữu nội bộ; nhưng cấp
bách hơn là nhu cầu cần lý giải đức tin cho những kẻ bên ngoài, nếu Giáo Hội muốn
tiếp tục sứ mệnh truyền giáo của mình.
Irênê
(130–202): vai trò của thánh truyền và thẩm quyền Giáo hội
Irênê,
Giám mục người Hy Lạp ở Lyon, đưa ra “nguyên tắc tông truyền”[6] khi giải thích đức tin
Kitô giáo cho dân ngoại và vạch trần các sai lầm của Valentinô và Marcion.
Trong khi các nhóm Ngộ giáo phân biệt tính thứ cấp của Thiên Chúa Cựu Ước so với
Thiên Chúa của Tân Ước, thì Irênê lý luận rằng chỉ có một Thiên Chúa vốn đã mặc
khải qua cả hai lời giao ước. Lề luật trong Cựu Ước là thật và đúng cho thời đại
của nó, nhưng Thiên Chúa trong Tân Ước đã hài lòng với cách mặc khải mới qua sự
hiện diện của Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Lề luật hay lời ngôn sứ tự nó không chứa
đựng lời giải thích. Nhưng với “biến cố Kitô”, lề luật và lời ngôn sứ được xem
như là những báu vật chôn cất từ lâu, nay được khám phá qua Thánh Giá của Đức
Kitô và đã được giải thích sau biến cố Phục sinh (x. Lc 24,27). Từ nhãn quan lịch
sử tính của mặc khải, Irênê đã tìm một hợp đề mới cho cả hai lời giao ước.
Ngoài
ra, Irênê cón vạch ra khuynh hướng “lấy râu ông này gắn cằm bà nọ” khi
phái Ngộ giáo ráp nối hình ảnh trong truyện thần thoại Hy Lạp với hình ảnh về
Chúa Cha, Thánh Linh và Đấng Nhập Thể. Irênê lên án cách pha trộn những giai
thoại Eliad và Odyssey vào Kinh Thánh là tạo nên những đám hỏa mù, che dấu linh
đạo mờ ám và bí ẩn của phái Ngộ giáo, và là một sự lừa đối với những kẻ có kiến
thức về Homer. Lối chú giải ẩn dụ của Irênê căn cứ trên “quy phạm của đức tin”.
Sứ mệnh loan báo Tin Mừng được Thiên Chúa giao phó cho Giáo Hội, do đó chân lý
chỉ được tìm thấy nơi Giáo Hội. Triết học có thể cung cấp nhiều cách giải thích
đáng tin cậy và cũng đáng hoài nghi; thế nhưng, chân lý thì luôn ở trong sự
quan phòng của Thiên Chúa. Lời giáo huấn của các Tông Đồ, do tính tông truyền của
các vị giám mục kế vị, là sự hiểu biết chân chính nhất. Muốn tìm ý nghĩa chân
thực của Kinh Thánh, thì hãy đọc Kinh Thánh với các vị giám quản vốn được giáo
huấn theo qui luật của đức tin Công giáo.
Như
thế, Irênê đã làm nổi bật yếu tố thẩm quyền của truyền thống trong việc chú giải
Kinh Thánh. Giáo Hội không tạo nên Tin Mừng, nhưng qua sự linh ứng của Thần
Khí, Giáo Hội đã mang Tin Mừng vào sự tồn tại của nó như một bản văn. Tin Mừng
là cuốn sách mà Giáo Hội đã chọn giữa các trình thuật về Đấng Sáng Lập và nguồn
gốc của chính mình. Do đó, không thể tách biệt thẩm quyền của Giáo Hội ra khỏi
việc chú giải Kinh Thánh. Irênê là thần học gia đầu tiên bảo vệ tính linh ứng của
Tân Ước trên nền tảng thánh truyền. Bản văn Kinh Thánh không thể tự chú giải
chính mình, nhưng chúng ta đọc và giải thích Kinh Thánh cho phù hợp với nhu cầu
đức tin của Giáo hội. Chú giải là mang mạc khải Kinh Thánh vào hiện tại bằng
ngôn ngữ của mình, và đó chính là sự thể hiện và phát huy tiệm tiến của truyền
thống, vốn được tích tụ từ những bài học khôn ngoan qua hành trình sống Lời
Chúa. Là một lịch sử phê phán, truyền thống Giáo hội có thẩm quyền trên cách
chúng ta chú giải và sống mầu nhiệm đang mạc khải cho chúng ta.
GIÁO HỘI SƠ KHAI CHÚ
GIẢI KINH THÁNH CHO DÂN NGOẠI
Ở
thế kỷ thứ III, tuy thư quy “Tân Ước” đã được hình thành nhưng việc chú giải
Kinh Thánh còn chưa thống nhất trong bối cảnh truyền giáo. Có những giáo hội địa
phương xem Tân Ước như một bản văn chứa đầy ẩn dụ, vốn có thể được làm sáng tỏ
qua ý nghĩa biểu tượng hay luân lý, như cách triết gia Hy Lạp chú giải các chuyện
thần thoại, và xem nhẹ các tình tiết lịch sử quan trọng trong sứ mạng của Đức
Giêsu. Có nơi khác thì xem Tân Ước như một sân khấu lịch sử, với kịch bản gồm
các chứng cứ được tiên báo từ Cựu Ước để củng cố cho niềm tin về Thần Khí Thiên
Chúa đang hoạt động giữa lòng dân ngoại. Phương pháp này có nguy cơ áp đặt ý
nghĩa hiện tại và gán lên các bản văn quá khứ những “nhãn hiệu” không phù hợp với
bối cảnh gốc của chúng. Vì thế, cần phải có thẩm quyền để bảo đảm cho tính tông
truyền và chính thống của Kinh Thánh và tránh các thái độ quá khích của Ngộ
giáo thuyết. Theo thời gian, các trường phái chú giải đặc thù được thành hình như
Alexandria (ẩn dụ), Antiôkia (tiên trưng) và các Giáo phụ (thánh truyền).
Trường
phái Alexandria: phương pháp ẩn dụ
Trường
phái Alexandria gồm có những nhà trí thức quen thuộc với văn hóa Ai cập và triết
học Hy Lạp, vốn xem các ý nghĩa nguyên tự, thiêng liêng, và thần bí như là ba
phần của con người, thân xác, linh hồn và thần khí. Đối với họ, vật chất là nguồn
gốc của sự dữ và biến cố lịch sử là ẩn dụ về thực tại vĩnh cửu. Phương pháp chú
giải ẩn dụ giúp giải thích những đoạn văn khó hiểu, nhưng lịch sử và hành động
của Thiên Chúa thường bị lướt qua. Bối cảnh văn hóa - xã hội được xem như vỏ bọc
không cần thiết, một khi ý nghĩa của bản văn được nắm bắt.
Philô
(20 TCN–40 CN), một triết gia Do Thái, là người đầu tiên dựa trên tu từ học của
phái Khắc Kỷ (Stoic) để chú giải các biểu tượng về sự vật hoặc về trách
nhiệm luân lý của con người. Các nhân vật trong biến cố “sa ngã” là ẩn dụ về nhục
dục (Satan), về thân xác (Evà), và về lý trí (Adam). Phương pháp ẩn dụ giải thích
những sự kiện có vẻ mâu thuẫn với kinh nghiệm thường ngày như “tên” của những
cây trong vườn Địa Đàng, cây “Sự Sống”, cây “Biết Lành Biết Dữ”,
cũng như sự mâu thuẩn khi nói về “ngày đầu” của tạo dựng trong lúc mặt
trời hay mặt trăng chưa được tạo nên. Philô để lý luận rằng, lời Kinh Thánh được
Thiên Chúa mặc khải cho Do Thái giáo, nhưng nếu được chú giải cách chính chắn
thì không khác gì Người đang mạc khải cho dân Hy Lạp qua ẩn dụ. Cách chú giải ẩn
dụ chạm đến thực tại thánh thiêng và phổ quát đang ẩn giấu bên dưới ngôn ngữ của
Kinh Thánh nhưng cũng được nhóm Ngộ giáo đón nhận rất tích cực. Họ loại bỏ
Thiên Chúa của Cựu Ước, và xem việc tạo dựng và lịch sử Do Thái là một sai lầm
trầm trọng. Các nhóm Ngộ giáo này tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội, và cho rằng con
người chìm đắm trong bóng tối tội lỗi và chỉ được cứu rỗi nhờ tri thức bí nhiệm
đến từ các tia sáng thần linh.
Thứ
đến, Clementê thành Alexandria (150–215) là người đưa phương pháp ẩn dụ
của Philô vào Kitô giáo. Clementê cho rằng, tất cả Kinh Thánh được viết bằng
ngôn ngữ biểu tượng, ký hiệu và hình ảnh bí nhiệm để truyền tải ý nghĩa, không
khác gì cách Môsê, Platô, dân Hy Lạp và Ai Cập đã làm. Mọi ý nghĩa của Kinh
Thánh đều có thể được khai triển qua nhiều mức độ như: lịch sử, tín lý, ngôn sứ
và tiên trưng, triết lý về vũ trụ và tâm linh, cuối cùng là thần bí. Những gì Cựu
Ước nói đến Logos, thì cuối cùng đã được ánh sáng Đức Kitô mặc khải trọn vẹn. Một
khi đón nhận ánh sáng đó, người tín hữu sẽ hiểu biết thật sự về chân lý cao
siêu của Kitô giáo. Đây cũng là một hình thức của phái Ngộ giáo. Tuy nhiên,
Clementê không tách mình ra khỏi Giáo Hội mà vẫn duy trì tính hiệp nhất của mặc
khải giữa hai lời giao ước. Clementê đã mở rộng tầm nhìn của phương pháp ẩn dụ
để quan sát các tôn giáo và văn hóa khác, cũng như để khai triển nền tảng biểu
tượng cho Lời Chúa. Thế nhưng, Clementê không phải là một thần học gia đủ khả
năng để khai triển các tín điều. Sứ mệnh đó dành cho Origen.
Origen
(185–253) mở trường dạy thần học tại Alexandria vả đã dùng phương pháp chú giải
ẩn dụ trong bộ thần học tín lý Các Nguyên Lý (De Principiis).
Ông chứng minh tính siêu nhiên của Giáo Hội dựa trên sự kiện Kitô giáo vẫn tiếp
tục tồn tại, đúng như lời Đức Kitô đã tiên báo. Hơn nữa, biến cố Kitô đã soi
sáng ý nghĩa lời các ngôn sứ và tính thiêng liêng của luật Môsê. Việc ứng nghiệm
các sấm ngôn chính là bằng chứng cho tính linh ứng của nó. Kinh Thánh mặc khải
cho chúng ta các “chân lý tri thức”, chứ không phải việc làm của Thiên
Chúa trong lịch sử. Lối chú giải theo nghĩa văn tự có thể làm cho chân lý Kinh
Thánh bị che lấp; ví dụ: Thiên Chúa rảo bộ trong vườn Địa
Đàng, trồng một vườn cây, hay Cain đi ra khỏi mặt của
Thiên Chúa. Các mâu thuẫn này cho thấy chân lý của Kinh Thánh không hệ tại
trong tính vật chất của chữ viết. Tuy không phải mọi nghĩa văn tự của Kinh
Thánh đều là hợp lý, nhưng tất cả ý nghĩa của Kinh Thánh đều mang nghĩa thiêng
liêng. Như thế, muốn chú giải các mầu nhiệm chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng
của Kinh Thánh thì cần phải có ân sủng siêu nhiên. Lối chú giải ẩn dụ giúp cho
đức tin khỏi rơi vào tình trạng phải chấp nhận tất cả chi tiết của Kinh Thánh
theo nghĩa văn tự, và giải thoát việc chú giải khỏi những giới hạn cục bộ của “ứng
nghiệm”. Qua cách thiết lập nền tảng chung giữa việc chú giải Kinh Thánh và triết
học Hy Lạp, Origen đã xây dựng nền tảng lý tính cho thần học Kitô giáo.
Trường
phái Antiôkia: phương pháp tiên trưng
Trường
phái Antiôkia nhấn mạnh đến các biến cố lịch sử và lời ngôn sứ, nhưng không phải
để chứng minh tính “ứng nghiệm” của bản văn mà để giải thích cho ý nghĩa của
Tân Ước. Họ chú giải Thánh theo cách Phaolô đã dùng thực tại lịch sử của Kinh
Thánh để minh họa quan điểm Kitô học của ngài. Nếu Ađam không là Ađam thật sự
và không có mặt trong địa đàng, nếu con rắn không phải là con rắn thật, và các
sự cố này không có thật, thì sự kiện Ađam bất tuân lời Thiên Chúa, sự chết xâm
nhập vào thế gian và ơn cứu độ sẽ trở thành vô nghĩa. Cần phải hiểu đúng là:
Khi Tân Ước trích dẫn Cựu Ước như việc Đức Giêsu thốt lên trên Thánh giá (Tv
22,5), hay việc Gioan nhắc lại hình ảnh Môsê giương cao con rắn đồng (Ga 3,14),
thì Tân Ước đang nói lên sự tương đồng giữa hai biến cố lịch sử, cho dù cách áp
dụng thì khác nhau. Trường phái Antiôkia muốn bảo tồn lịch sử và bối cảnh
nguyên thủy của bản văn. Nếu tác giả của Kinh Thánh đã chọn ngôn ngữ, ký hiệu,
biểu tượng và dụ ngôn để tạo nên ý nghĩa cho thế giới họ đang sống, thì chúng
ta không thể cắt bỏ các thực tại đó, cũng như không thể để mình bị lôi kéo vào
thế giới ảo ảnh nào khác.
Trước
tiên, Thêođorê (350–428) thành Mopsuestia,[7] khẳng định rằng khi Kinh
Thánh mô tả sự kiện lịch sử, thì Kinh Thánh cũng cho thấy nhãn quan linh ứng và
nguyên tắc Kitô luận đứng đằng sau. Do đó, bản văn nào mà không chứa đựng các yếu
tố ngôn sứ hoặc lịch sử cứu độ (Diễm Ca, Gióp) thì cần phải loại ra khỏi “thư
quy”. Quan điểm “lịch sử” này được áp dụng vào tính linh ứng của Tân Ước khi Thêođorê
giải thích rằng Tân Ước chưa hoàn toàn khẳng định thần tính của Đức Kitô, vì
Thánh Thần chưa ngự xuống các Tông Đồ. Trước biến cố Hiện Xuống, Đức Giêsu chỉ
được gọi là “Con Thiên Chúa” như các sứ giả khác của Thiên Chúa. Phản ứng của
Tôma, “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi” (Ga 20,28) chỉ là một sự ngạc nhiên
vì phép lạ xảy ra chứ không phải là một tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, quan điểm
“lịch sử” của Thêođorê thì quá hạn hẹp và bị nhóm dị giáo Nestôriô lạm dụng. Điều
này dẫn đến sự kiện tác phẩm của ông bị thiêu hủy tại Công Đồng Constantinôp II
(553). Tuy nhiên, nguyên tắc lịch sử và linh ứng này đã để lại âm vang trong
các cẩm nang chú giải và công trình sáng tác của trường phái Antiôkia.
Kế
tiếp, Gioan Kim Khẩu (340–407), Tổng Giám Mục thành Constantinôp, đã giải
thích khái niệm “linh ứng” một cách hệ thống hơn. Ông cho rằng không có chìa
khóa bí ẩn hay ý nghĩa sâu xa nào, ngoài những sự kiện lịch sử về Đức Kitô vốn
đã được báo trước qua các biến cố trong Cựu Ước. Đức Giêsu chính là hiện thân của
Đấng Thiên Sai đã được tiên báo trước đây, và cho thấy rõ nhân tính và thần
tính đại của Cựu Ước và Tân Ước. Lối chú giải này muốn bảo vệ tính vẹn toán của
lịch sử Do Thái, cùng với chiếc áo mới mà Kitô giáo đã mặc lên nó. Gioan Kim Khẩu
phân biệt giữa “tên gọi” của chân lý và chân lý tự thân. Một họa sĩ có thể phác
họa những đường nét tinh hoa về hình ảnh (tên gọi) của nhà Vua trước khi tô màu
vào đó, nhưng, cho khi nhà Vua thật sự xuất hiện, chúng ta sẽ bái phục nhà Vua
chứ không phải bái phục bức hình. Một khi chân lý xuất hiện thì “tên gọi” không
cần nữa, Như thế, cách Gioan Kim Khẩu kết nối lịch sử tính với phương pháp chú
giải tiên trưng đã giới thiệu bản chất “loại suy” của ngôn ngữ Kinh Thánh.
Cuối
cùng, Giêrônimô đã mở rộng trường phái Antiôkia qua công trình chuyển dịch
và chú giải Kinh Thánh “Vulgata” (Bản Phổ Thông).[8] Lúc đầu, Giêrônimô dùng
phương pháp “ẩn dụ” của Origen; nhưng qua cách bình phẩm lịch sử của Apollinariô
thành Laođikêa, ngài nhận ra rằng muốn hiểu biết sâu sắc về Kinh Thánh thì cần
chú tâm đến những ý nghĩa thiêng liêng dựa trên lịch sử của các bản văn. Ý
nghĩa thiêng liêng thì vượt trên ý nghĩa thể lý, nhưng không bao giờ loại trừ
nó. Phương pháp bình phẩm này được áp dụng qua các cẩm nang chú giải của Ađrianô
[9] và Junilius
Africanus[10].
Họ liệt kê các thành ngữ giúp nhận diện hình thức của những bản văn ngôn sứ và
lịch sử, cũng như dùng triết học của Aristote để giải thích cho phương pháp
tiên trưng. Tuy quan điểm chú giải lịch sử của trường phái Antiôkia còn đơn sơ
và thiếu phê phán, nhưng sự nhấn mạnh vào bình phẩm lịch sử đã để lại ảnh hưởng
lên thần học Kitô giáo thời Trung Cổ và Kinh Viện.
Các
giáo phụ: nguyên tắc “tông truyền”
Sự
kiện có những quan điểm quá khích của các nhóm dị giáo đã đưa đến ý thức rằng
chú giải Kinh Thánh không chỉ là khai triển các mức độ ý nghĩa của bản văn, mà
còn tham dự vào công cuộc bảo vệ tính hiệp nhất và tông truyền của Giáo Hội. Từ
đó, vai trò của thẩm quyền trở thành tất yếu trong việc xác định phạm vi của việc
chú giải cũng như các phạm trù tín lý cho thần học. Tertulianô, một luật
sư xuất thân từ Carthagô ở thể kỷ III,[11] phản đối quyền tham dự các
buổi tranh luận về Kinh Thánh của các nhóm dị giáo vì họ đã gây ấn tượng tiêu cực
trên các tín hữu, làm cho những kẻ có đức tin đơn sơ và yếu lòng bị hoang mang.
Ông cho rằng cần phải thẳng tay trừng trị các nhóm này, vì chúng làm băng hoại
đời sống Giáo Hội vốn là nơi mà đức tin chân chính, cách chú giải trung thực,
và tính tông truyền của thẩm quyền được tìm thấy. Tertulianô đưa ra trên ba lập
luận: (1) Đức Kitô đến rao giảng chân lý để mặc khải về Thiên Chúa; (2) Đức
Giêsu trao phó chân lý này cho các Tông Đồ; và (3) Các Tông Đồ đã thiết lập
Giáo Hội và truyền lại mặc khải đó. Do đó, Kinh Thánh thuộc về Giáo Hội và các
nhóm dị giáo chỉ là kẻ gian gieo hạt giống cỏ xấu vào ruộng lúa của ông chủ và trích
dẫn Kinh Thánh để biện minh cho mục đích riêng của họ. Tertulianô lên án
Marcion, Valentinô và Apelles đã “chặt trộm cây”, “hái trộm quả”,
“chuyển dòng nước” trong vườn của Giáo Hội, nơi mà họ đã không ra sức
vun trồng và không có quyền sở hữu. Tertulianô cũng chỉ trích cách Origen dùng
triết học vốn là mẹ của mọi tư tưởng dị giáo để chú giải Kinh Thánh.
Ở
thế kỷ thứ IV, có hai giáo phụ khác cũng đã lên tiếng bảo vệ yếu tố thẩm quyền.
Methodius (311), một Giám Mục ở Olympus,[12] dùng triết lý Platô để bảo
đảm cho ý nghĩa thiêng liêng của Kinh Thánh. Methodius cho rằng cần phải khám
phá chiều sâu và chiều rộng của “tư duy của Kinh Thánh”, nếu không thì người
chú giải rất có thể đang rơi vào tình trạng xây một tháp canh lở dở (Lc 14,28)
như trong tư tưởng của các nhóm dị giáo. Vincentê, một Đan sĩ ở Lerinum,[13] giải thích thêm rằng, chỉ
có một Tân Ước và được lưu truyền qua Giáo Hội, không thể bị chia cắt ra từng mảng
bởi các cách chú giải của phái Ngộ giáo. Kitô giáo tuy có sự phát triển và trưởng
thành như một chi thể, nhưng vẫn là một trong sự hiệp nhất của nó. Nếu có sự
hoài nghi về chú giải Kinh Thánh, thì hãy xin ý kiến của những bậc khôn ngoan
và hữu trách. Thẩm quyền của Giáo Hội đến từ tính phổ quát của mặc khải, mở rộng
tầm nhìn đức tin cho tất cả mọi người từ các góc độ nhập thể và cánh chung.
TỪ “SACRA PAGINA”
ĐẾN “SACRA DOCTRINA”
Bắt
đầu từ thời Trung Cổ, công việc chú giải Kinh Thánh được mang vào các Đan viện,
Học Viện và Đại Học, từ đó đã trở nên chuyên nghiệp hơn để đáp ứng nhu cầu của
mỗi bối cảnh. Có ba cột mốc trong tiến trình chú giải Kinh Thánh ở giai đoạn này:
Augustinô với mục tiêu gia tăng lòng mến Chúa & yêu người, giai đoạn tiền
Kinh Viện với mục tiêu gia tăng sự phong phú về ý nghĩa Kinh Thánh, và Tôma
Aquinô với nhu cầu tìm hiểu giáo lý thánh.
Thánh
Augustinô: gia tăng lòng mến Chúa yêu người
Từ
khi Augustinô được nghe Ambrôsiô giải thích và trích dẫn thư Phaolô,“Chữ viết
thì giết chết, nhưng Thần Khí thì mang lại sự sống” (2 Cr 3,6) thì con
mắt thiêng liêng của ngài được mở ra. Từ đó ngài hiểu Kinh Thánh như là ngôn ngữ
hay ký hiệu của Thiên Chúa và mục tiêu của việc chú giải Kinh Thánh là giải mã các
ký hiệu để đạt đến thực tại thánh thiêng, tức là tri thức về Thiên Chúa, đang
tiềm ẩn trong đó. Tri thức về Thiên Chúa thì vượt trên khả năng tự nhiên của lý
trí, do đó ngoài việc nghiên cứu triết học và tu từ học, tâm hồn con người cần
được thanh luyện cùng với thẩm quyền của Giáo hội, tức là kinh nghiệm sống đức
tin được tích lũy qua dòng thời gian. Tri thức mà Kinh Thánh mạc khải cho chúng
ta chính là sự khôn ngoan giúp gia tăng đức tin và lòng “mến Chúa yêu người”
nơi chúng ta.
Augustinô
là nhân vật đầu tiên khai triển mối tương quan giữa ngôn ngữ và việc tìm hiểu
thánh ý Chúa. Trước khi được rửa tội, ngài dạy môn tu từ học (rhetorics)
nên rất am hiểu về văn chương và ngôn ngữ. Kinh Thánh chứa đựng mầu nhiệm thực
tại vô hình trở thành hữu hình nơi Đức Kitô, thực tại siêu việt vốn là nguồn cội
của mọi tri thức và khôn ngoan mà đức tin đang tìm kiếm. Đứng sau lối tiếp cận
của Augustinô là triết học nhị nguyên của Platô: Cần phải giải thích những gì
thay đổi, hữu hình, thuộc thời gian và lịch sử con người trong tương quan với
những gì là bất biến, siêu việt, vĩnh cửu và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ
có tri thức về thực tại vĩnh cửu mới có thể giúp giải thích các ký hiệu vật chất,
tức là ngôn ngữ của Kinh Thánh. Thực tại vĩnh cửu đó đang soi chiếu trên tâm hồn
của con người và chờ đợi con người trở về nội tâm của chính mình. Do đó, chú giải
Kinh Thánh bao gồm cả hai chiều kích khách quan (ngôn ngữ) và chủ quan (tâm hồn
của người chú giải).
Từ
khía cạnh khách quan, Augustinô xem ngôn ngữ như là ký hiệu nói lên ý định của
tác giả. Người đọc dựa trên kinh nghiệm riêng của mình để giải mã những ký hiệu
đó, nhưng với kinh nghiệm và uy tín của nhiều người khác thì sự hiểu biết đó sẽ
được mở rộng và phổ quát hơn. Nếu Giáo Hội là một “cộng đoàn chú giải” vốn có
uy tín và thẩm quyền trên cách cá nhân chú giải Kinh Thánh, thì truyền thống đức
tin của Giáo hội cần phải được trân trọng. Từ khía cạnh chủ quan, Augustinô cho
rằng nếu muốn nắm bắt mạc khải siêu việt đứng sau Kinh Thánh, thì người chú giải
phải có một sự khao khát tâm linh cho hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn nhận ra ánh sáng
thần linh đang chiếu tỏa trên tâm hồn của con người, thì con người cần phải có:
lòng kính sợ Thiên Chúa; lòng sùng mộ; gắn bó vào đức ái; dũng cảm tìm sự công
chính; tâm hồn thanh luyện; và thái độ khôn ngoan rút tỉa từ thực hành chiêm niệm.[14] Chú giải Kinh Thánh không
buộc phải có kiến thức mới lạ, nhưng đòi phải biết khám phá cho ra thánh ý
Thiên Chúa, ngõ hầu đạt tới mức chiêm niệm các chân lý trường cửu vốn là đối tượng
của sự khôn ngoan. Trong trường hợp hoài nghi về ý nghĩa của bản văn thì dùng
quy tắc“Hãy chú giải để Lời Chúa làm gia
tăng lòng mến Chúa yêu người.” Như thế, cả hai vế, ‘dựa trên đức tin chân
chính của Giáo Hội’ và ‘gia tăng lòng mến Chúa yêu người’ đều là tiền thức để chú
giải Kinh Thánh. Mục tiêu làm sáng tỏ ý nghĩa của những thực tại siêu việt tiềm
ẩn trong Kinh Thánh có tương quan hết sức mật thiết với việc suy tư thần học
trong giai đoạn Kinh Viện này.
Tiền
Kinh Viện: gia tăng mức độ phong phú của bản văn
Các
trường phái chú giải Kinh Thánh ở các thế kỷ đầu đã giúp cho nội dung của đức
tin Kitô giáo giảm bớt tính thần thoại của các tôn giáo cổ xưa, nhưng cũng đưa
đến tranh luận về một số chủ đề giáo lý nền tảng. Do đó, vai trò của các Công Đồng
trở nên tất yếu để giải quyết các tranh chấp và thiết lập tính chính thống của
thần học. Từ Nicea I (325) cho đến Nicea II (787), có tổng cộng bảy Công Đồng
đã đóng góp vào việc thiết lập các quy phạm về tín lý Kitô giáo. Đây là giai đoạn
việc chú giải Sách Thánh (Sacra Pagina) trở thành hàn lâm hơn, bao gồm
những bản chú giải của các Giáo Phụ cùng với các đoạn trích dẫn ngắn gọn của
các học giả bình luận về bài chú giải gốc. Tất cả được kết nối lại thành những
bài “bình phẩm” (catena), thường mang
tên của các học giả nổi tiếng như: Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Hilariô, Augustinô
và Giêrônimô.
Ở
thế kỷ X dưới triều đại Carolingius, một cải cách mới bắt đầu xuất hiện. Thay
vì sáng tác những bài bình phẩm như trước đây thì người ta dùng “chú thích” (gloss), tức là những lời giải thích ngắn
gọn và ý kiến cá nhân được ghi chú bên lề, chen vào giữa bản văn gốc, hoặc để
riêng cuối sách, như cách chúng ta dùng “footnotes” hoặc “end notes” ngày nay.
Trong các thế kỷ sau, nhiều câu hỏi và chủ đề thần học được thêm vào các “chú
thích”; và cuối cùng, các “chú thích” ngày càng càng dài thêm ra và trở thành
những “tiểu phẩm” bình luận riêng biệt, được các sinh viên ghi chép lại từ bài
giảng của các giáo sư về bản văn gốc. Từ đó, việc chú giải Kinh Thánh sớm trở
thành một môn học thuật riêng biệt, lan rộng từ thư viện của các Kinh sĩ Đan viện
Victor (Victorines) đến Đại học Paris.
Nét
đặc thù của chú giải Kinh Thánh thời Trung Cổ là cách dùng ngụ ngôn (allegory). Thay vì đi tìm một nền tảng
nào khác bên ngoài (ẩn dụ, triết lý, kinh nghiệm thần bí) để minh họa cho ý
nghĩa của Kinh Thánh, thì phương pháp ngụ ngôn nhấn mạnh các mức độ ngữ nghĩa.
Phương pháp này gia tăng tối đa sự phong phú về ngữ nghĩa và thỏa mãn khát vọng
chú giải của thời Trung Cổ. Ví dụ, hạn từ “Giêrusalem” là ngụ ngôn về bốn thực
tại: thành đô Do Thái, Giáo Hội, Thiên Đàng, và linh hồn. Kết quả là có bốn
ý nghĩa của bản văn: (1) Nghĩa lịch sử nhấn mạnh vào ý nghĩa cụ thể của mặt chữ
hay thân xác; (2) Nghĩa biểu tượng chú giải theo luân lý hay tâm linh; (3)
Nghĩa tiên trưng xem sự kiện quá khứ như hình ảnh về biến cố hiện tại, ví dụ,
“tàu Nôê” hay “rắn đồng” là hình ảnh tiên trưng cho “Thánh giá”; (4) Nghĩa loại
suy chỉ ra nhiều mức độ bản thể luận mà cùng một hạn từ có thể được dùng.
Thời
đó, Kinh Thánh được xem như một Vương Cung Thánh Đường đầy dẫy những biểu tượng
và hình ảnh, cho nên người chú giải phải tìm mọi cách để nói lên tính siêu việt
của Đấng Tối Cao vốn vượt trên mọi giới hạn của ngôn ngữ và ý niệm. Trời Trung
Cổ chưa có một học thuyết mạc khải rõ ràng và thần lý học hay thần học tự nhiên
cũng chưa được phát triển đầy đủ. Các giáo phụ chú giải Kinh Thánh dựa trên niềm
tin vào sự linh ứng của Lời Chúa. Đến thời Kinh Viện thì có khuynh hướng chú giải
duy lý của Albertô Cả và khuynh hướng thần bí của Gioakim thành Flora. Khuynh
hướng thần bí cuối cùng bị lên án và lối chú giải ẩn dụ cũng mất dần ảnh hưởng.
Với sự ảnh hưởng của Tôma và nghiên cứu tại các đại học, thì việc khai triển
các tín khoản (Sacra Doctrina) được tách ra khỏi ngành chú giải Kinh
Thánh, và trở thành nền tảng cho thần học tín lý sau này.
Thánh
Tôma: khai triển “Sacra Doctrina”
Trong
khi học thuyết chú giải của Augustinô nhấn mạnh vào hảnh trình hoán cải nội
tâm, thì Tôma Aquinô chú tâm nhiều hơn đến khía cạnh khách quan của bản văn.
Qua nhãn quan duy thực của Aristotle: “Tất
cả mọi tri thức đều bắt đầu từ giác quan”, Tôma lý luận rằng chúng ta không
cần phải loại bỏ thực tại vật chất để có thể nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của
Kinh Thánh, nếu chúng ta biết cách kết nối đức tin với lý trí. Tôma cẩn thận so
sánh hình thức của các bản văn để xác định tính trung thực và phân tích cách
dùng ngôn ngữ của nó. Chú giải Kinh thánh thì đồng nghĩa với việc khai triển
tri thức về Thiên Chúa và đó cũng là sứ mệnh của thần học.
Tôma
cho rằng nếu Kinh Thánh nói về Thiên Chúa bằng nhiều loại ngôn ngữ thì người
chú giải cần phải có sự hiểu biết về nhiều cách dùng ngôn ngữ khác nhau để nắm
bắt chân lý của bản văn. Ngôn ngữ phủ định có thể nói chính xác về Thiên Chúa,
nhưng chúng ta không thể mãi mãi nói “Thiên
Chúa không là…”. Mặt khác, nếu dùng ngôn ngữ khẳng định (“Thiên Chúa
là...”) thì cũng sẽ vướng vào sự mâu thuẫn của “đơn nghĩa” hay sự mơ hồ của
“đa nghĩa”. Vì thế, chỉ có ngôn ngữ “loại suy” mới phù hợp nhất cho thần học,
vì nó bao hàm sự hiểu ngầm về mức độ khác biệt bản thể luận giữa Thiên Chúa và
con người. Phương pháp loại suy cho phép chúng ta dùng ngôn ngữ của thế giới
này (khôn ngoan, chiến thắng, đá tảng, tức giận, v.v.) để nói về Thiên Chúa mà
không bị mâu thuẫn. Thần học tự nhiên của Tôma đã dùng ngôn ngữ loại suy để “gọi
tên” Thiên Chúa rất sáng tạo (Ngũ đạo).
Trong
thế kỷ thứ XII, người ta truy vấn liệu Giáo Lý Thánh (sacra doctrina) có
được xem là “tri thức” (scientia) hay
không? Tôma giải quyết vấn đề này dựa trên cách Aristotle phân biệt giữa khoa học
xuất phát từ các nguyên lý tự nhiên (số học và hình học) và khoa học khởi phát
từ những nguyên lý thứ cấp (quang học thì dựa trên hình học; âm nhạc thì dựa
trên số học). Theo Tôma, Giáo Lý Thánh là một khoa học thứ cấp xuất phát từ những
nguyên lý được mạc khải; và qua đó, con người mới có được tri thức thực sự. Qua
đức tin và sự hiểu biết đúng đắn về Kinh Thánh, thần học gia thông dự vào chính
nguồn tri thức của Thiên Chúa, và chú giải nội dung của Giáo Lý Thánh. Thẩm quyền
của họ được thể hiện qua việc trích dẫn Kinh Thánh hay các tác giả có uy tính
trong các bài bình phẩm. Một khi trào lưu tranh luận về ý nghĩa của những lời
chú giải trở nên tự lập và tách rời khỏi công việc diễn giải văn bản, thì danh
xưng “Thần Học” đã dần dần được dùng để thay thế cho Giáo Lý Thánh (sacra
doctrina).
CHÚ
GIẢI KINH THÁNH THỜI CẬN ĐẠI
Sau
thế kỷ XV, sự tổng hợp triết-thần bị thử thách và việc học thuyết “bốn ý nghĩa”
của bản văn thời Kinh Viện cũng mất dần hiệu lực. Quan điểm chú giải Kinh Thánh
của Origen, “chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor3:4-7)
được phong trào Cải Cách mặc lên một chiếc áo mới. Vấn đề “sống/chết” giờ đây
trở thành tình huống hiện sinh của con người đứng trước lời mời gọi của Kinh
Thánh. Hơn nữa, não trạng Khai Sáng nêu lên nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa của các bản
văn và nền văn hóa xa lạ vốn bị đánh mất vì khoảng cách lịch sử. Cuối cùng, triết
học lãng mạn đã biến chú giải bản văn thành một nghệ thuật cân bằng giữa hai
khía cạnh khách quan và chủ quan của ngôn ngữ, lội ngược dòng chảy từ “ngôn từ”
đến “ý tưởng” của tác giả. Để tránh sự hiểu lầm về văn hóa và bản văn xa lạ,
thì người chú giải cần khai triển không gian “phía sau bản văn”.
Phong
trào Cải Cách chú giải Kinh Thánh
Vào
khoảng 1520, Martin Luther được giao trách nhiệm soạn bộ bài giảng cho
phụng vụ suốt cả năm. Khi giải thích câu “Và họ đã tìm thấy cả Mary và Giuse và
con trẻ nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16), Luther giải thích: Mary đại diện cho Mẹ
Giáo hội, Giuse đại diện cho các giám mục và các cha xứ, vì Giáo hội thì quan
trọng hơn hàng giáo phẩm, cho nên Mary được Kinh Thánh đề cập đến trước Giuse. Luther
đang dùng một hình thức chú giải ẩn dụ (allegorical) bắt nguồn từ Philo ở
Alexandria (20BC-40AD), vốn cho rằng ý nghĩa chân chính cho bản văn bên dưới từ
nguyên của bản văn. Ví dụ, “Đức Chúa trồng một vườn trong Eden” phải được hiểu
là Đức Chúa đặt nhân đức tốt lành của tự nhiên vào loài người. Luther cố tìm trật
tự bên dưới bản văn (sự tốt lành của Giáo hội bên dưới phẩm trật chức sắc bề
ngoài). Điều mà Luther lên án là thói quen của Kinh Viện dùng các chân lý phổ
quát (triết học) để giải thích ý nghĩa của mạc khải Kinh Thánh. Luther cho rằng
đây là một sự đam mê mù lòa, hay một tình trạng đang bị rơi vào cạm bẩy của Satan,
lạm dụng sự đam mê cho tri thức độc lập để tách con người ra khỏi sự tuân phục
vào thẩm quyền của Thiên Chúa. Thánh Thần là tác giả và cũng chính là Đấng làm
chứng trong lòng các tín hữu tin vào Lời Chúa. Thay vì ẩn dụ, Luther dùng lối chú
giải “từ nguyên” (literal sensu), giải thích bản văn theo từ ngữ gốc trong bối
cảnh lịch sử đặt thù của nó, với mục tiêu luân lý hóa bản văn cho phù hợp với
linh đạo Cải Cách của họ.
John
Calvin (1509-1564) cũng nhấn mạnh vào ý nghĩa thiêng liêng của
bản văn, tức là những gì Thánh Thần muốn dạy cho chúng ta qua bản văn. Nếu Kinh
Thánh mạc khải ý định của Thiên Chúa thì người chú giải buộc phải trừu xuất từ
ngôn ngữ nguyên thủy, bối cảnh lịch sử, cảm xúc chủ quan và sự kiện khách quan những
ý nghĩa nguyên sơ và tự nhiên của mạc khải. Mục tiêu của việc chú giải là mang
lại ơn cứu rỗi của Đức Kitô qua lời mời gọi của bản văn và sự đáp trả nơi người
đọc Kinh Thánh. Hiểu Kinh Thánh là phải chấp nhận thẩm quyền tuyệt đối của Đức
Kitô, trái ngược lại với mọi thẩm quyền con người. Vì lý do này, phải thông diễn
Đức Kitô như là chủ đề chính yếu của cả Kinh Thánh, từ khởi đầu cho đến kết
thúc, Ngài là mối dây hiệp nhất nối kết mọi cuốn sách của Kinh Thánh lại với
nhau. Các thần học gia Cải Cách đã thay lối chú giải bản văn thời Trung Cổ bắng
bốn nguyên tắc sau đây: (1) Kinh thánh là bản thiết kế (blue print) của
Thánh Thần; (2) Kinh thánh phải được hiểu theo cách từ nguyên trong bối cảnh lịch
sử của nó; (3) Thần Khí muốn chúng ta đón nhận chỉ một ý nghĩa cho mỗi bản văn
(chứ không phải bốn ý nghĩa của thời Kinh Viện); và (4) Đức Kitô là tiêu điểm của
toàn thể Kinh Thánh.
John
Calvin chỉ ra chính Đức Kitô đã nói về mình như là tiêu điểm cho việc chú giải. “Rồi
bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những
gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24-27). Người chú giải
phải hiểu vai trò chính yếu của Đức Kitô trong Kinh Thánh: “Thầy đã từng nói
với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh
Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ, Người mở trí cho các
ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24:45). Sự hiện diện của Đức Kitô cũng được
tiên trưng nhiều cách trong Cựu Ước. Joshua là tiếng Hebri cho “Giêsu”, David
là một chiến sĩ như Đức Kitô chiến đấu chống lại kẻ thù của Thiên Chúa. Moses
đóng vai sự hiện diện của Chúa Cha và Aaron đóng vai Chúa Con-Đấng Ngôn Sứ trước
mặt Pharaoh. Nói chung, nguyên tắc chú giải của phong trào Cải Cách là ‘chỉ có
Kinh thánh mới chú giải Kinh thánh.”
Hơn
nữa, tất cả biến cố lịch sử trong Cựu Ước là hình bóng về những sự kiện trong
cuộc đời của Đức Kitô, như hành trình của dân Do Thái qua sa mạc, máu của Abel
kêu thất trời cao, con cừu tế lể thay cho Isaac, Moses ẩn mình để tránh bị sát
hại. Tương quan giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Kitô được tiên trưng qua tương quan
giữa Elijah và Elisha. Cái chết và sự sống lại của Người đã hiện diện trong Cựu
Ước, như được tiên trưng qua sự kiện Seth là sự sống lại cho cái chết công
chính của Abel; con bồ câu từ tàu Noah khám phá “sự sống” được tái hiện
sau cơn hủy diệt của bảo lụt; Đức tin của Abraham được “hồi sinh” vì Issac
coi như là đã chết (Hb 11:19). Giuse mang lại “sự sống” gia đình của ông qua nạn
đói (St 45:5-6). Biến cố Xuất Hành là “sự sống” của Israel từ ngục tù đến
đất hứa. Từ Sáng Thế đến Cánh Chung, Lời Thiên Chúa được Thánh Thần viết qua
ngôn ngữ của lịch sử làm chứng cho công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô. Không chỉ Kinh
Thánh mạc khải Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa là người chú giải Kinh Thánh. Người
chú giải phải đắm chìm trong dòng chảy của mạc khải Kinh Thánh. Cố tình giải thích
Kinh Thánh từ một gốc độ ngoại tại nào đó là đã chọn sự chết. Nhân đức thiết yếu
cho việc chú giải là từ bỏ chính mình, để lòng trí chúng ta được đổ đầy với Lời
mà chính Thiên Chúa đã viết xuống và ban cho chúng ta.
Giải thích học Thời Khai sáng
Giải
thích học thời Khai Sáng phản hồi lại lối giải thích “từ nguyên-thiêng liêng”
của phong trào Cải Cách. Thời Khai Sáng nhấn mạnh vào yếu tố con người và lịch
sử đứng sau bản văn với mục tiêu “phục hồi chính xác” ý nghĩa đã bị đánh mất. Họ
khai triển ba phạm vi chú giải sau đây.
Thứ
nhất, chân trời tri thức của bản văn cần phải được am hiểu một cách tiệm tiến,
cả từng phần và toàn phần của nó trong chân trời lịch sử và khối óc mà nó được
thành hình. Baruch Spinoza (1632-77) đề nghị người chú giải là một quá trình tiệm tiến và dọ dẫm. Cấn
phải đi theo một “vòng tròn giải thích” từ sự hiểu biết từng phần đến sự hiểu
biết của toàn phần của bản văn, rồi dùng sự am hiểu tổng thể để giải thích ý
nghĩa của các phần riêng biệt. Mỗi bước tiến hay lùi khi nghiên cứu lịch sử sẽ
gia tăng sự hiểu biết về bản văn. Mặt khác, Giambattista Vico (1668-1744) lý luận rằng
con người là chủ thể tự do, không thể được giải thích (explain) cách trọn vẹn,
nhưng cần phải được hiểu (understand). Hiểu bản văn là việc thấu triệt cho tận
nguồn về chân trời tri thức của nó vốn là thế giới của con người, và nuốn hiểu nó
thì ta phải đặt mình vào trong cuộc sống và hoạt động của bối cảnh lịch sử.
Thứ nhì, ý nghĩa của ngôn ngữ của bản văn phải
được liên kết với khả năng nhận thức. Johann
Martin Chladenius (1710-1759)
cho rằng để hiểu các hạn từ tối nghĩa, chúng ta nên xét kỹ những cách hiểu
ngầm, các tiền thức và tiền thiết khách quan của ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Mặt
khác, Georg Friedrich Meier (1718–77) khai thác tính khách quan từ ký hiệu ngôn ngữ và ký hiệu tự nhiên
được dùng trong bản văn. Ý nghĩa của ký hiệu có thể được xác định từ ngữ cảnh
hay mối tương quan của nó với các ký hiệu khác mà không cần phải nại đến các yếu
tố bên ngoài ngôn ngữ.
Cuối cùng, bối cảnh xã hội của bản văn và tâm lý của
tác giả là hai yếu tố quan trọng. Georg Anton Friedrich Ast (1778-1841)
cho rằng lịch sử tính của bản văn là “vị thế” (location) của nó
trong tương quan với lịch sử thế giới, tức là mối tương tác giữa bản văn với hậu
cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của nó. Mặc khác, Christian Wolff (1679-1754) nhấn mạnh và khả
năng khám phá cá tính đặc thù của tác giả. Hiểu một bản văn là phải biết cách
ngôn ngữ đã hình thành như thế nào từ dòng chảy của tư tưởng nơi tâm hồn của tác
giá. Mối quan tâm này sẽ được giải thích học lãng mạn khai triển sâu rộng hơn.
Nói tóm lại, chú giải học Khai Sáng đã mang lại nhiều
thay đổi. Thời cổ điển nhắm vào thực tại siêu việt của
Thiên Chúa nhưng thời Khai Sáng nhắm vào tinh thần văn hóa cổ điển đứng sau
cách dùng ngôn ngữ. Thời cổ điển tìm sự phóng phú của các mức độ của ngôn ngữ (ẩn
dụ, biểu tượng, loại suy, luân lý, vv.) nhưng thời Khai Sáng tìm sự thống nhất
và chính xác về ý vị của bản văn. Thời cổ điển nhắm vào không gian bên trong bản
văn (tu từ học) còn thời Khai Sáng tìm hiểu không gian phía sau bản văn (văn
hóa cổ xưa, thẩm quyền của tác giả, truyền thống nguồn liệu). Thời cổ điển đề
cao sự thống nhất và hài hòa vì Thiên Chúa chính là tác giả của Kinh Thánh,
nhưng thời Khai Sáng chi ra tính đặc thù của nhiều truyền thống lịch sử (J, E,
P, D). Cuối cùng, thời cổ điển, “hiểu sai” là không nhận ra ý nghĩa thiêng
liêng (ân sủng) của Lời Chúa, nhưng thời Khai Sáng “hiểu sai” là không nắm bắt
được “tinh thần” của lịch sử hay văn hóa xa lạ.
Giải thích học lãng mạn
Schleiermacher
(1768-1834)
đã tạo nên khoa giải thích học qua nhãn quan triết học lãng mạn của Schelling. Ông
lý luận rằng việc chú giải bắt đầu từ bản văn nhưng phải lội ngược dòng chảy
ngôn ngữ đến các hoạt động tinh thần của tác giả. Vi thế, chú giải Kinh Thánh
không chỉ cần kỹ năng ngữ phạm để hiệu ngôn ngữ và văn hóa xa lạ, mà còn cả kỹ
năng tâm lý tìm hiểu tư tưởng và đời sống cá nhân của tác giả. Lý tưởng chú giải
của Schleiermacher là “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình”, và nếu
bản văn là một sáng tác nghệ thuật, phản ảnh của một tâm hồn đặc thù và phức tạp,
thì người chú giải cần phải “nhập tâm” để cảm nhận sự rung động nơi tâm hồn của
tác giả.
Hơn
nữa, nếu tác giả là một thiên tài thì sẽ không có quy tắc cố định nào để chú giải
cho chính xác. Nhưng mỗi cá nhân thể hiện phần nào đó của bản tính nhân loại,
do đó cần phải khả năng so sánh sự sống động liên tục giữa bản ngã và bản văn,
tức là biện phân những gì giống nhau và khám phá những gì khác nhau nơi tác phẩm.
Không phải tác giả nào cũng là người bình phẩm lý tưởng nhất cho tác phẩm của họ.
Hiểu một tác phẩm là mang “tiềm thức” của tác giả lên mức độ “ý thức” nơi người
chú giải, với bản văn là trung gian vốn đưa tư tưởng của tác giả lên mức độ
ngôn ngữ. Muốn tránh hiểu lầm, người chú giải cần phải dọ dẫm từng bước, và xem
tác phẩm như là những làn sóng âm hưởng tạo nên do tác giả bơi lội trong biển cả
ngôn ngữ. Đây là hành trình tìm hiểu một cá thể rất khác với ta, một đối tác độc
nhất vô nhị. Chú giải là một tiến trình ước đoán liên tục từ hiểu đến hiểu đúng
hơn về ý nghĩa của tác phẩm, với mục tiêu chủ yếu là tránh hiểu lầm.
Từ
quan điểm chú giải lãng mạn này, Schleiermacher cho rằng sứ mệnh của thần học là
tìm hiểu kinh nghiệm đứng sau ý tưởng của tác giả. Ví dụ, kinh nghiệm nào của Đức
Giêsu đã thôi thúc Ngài theo đuổi sứ mạng rao giảng Nước Trời? Trải nghiệm tôn
giáo nào đã làm cho Phaolô nhấn mạnh đến khía cạnh “công chính hóa”? Thần học
thông diễn cách con người tiếp nhận “mạc khải”, nhưng mặt khác, hiệu lực của nó
thì nằm nơi khả năng nó được tiếp nhận bởi cộng đoàn đức tin. Đây là nền tảng của
“học thuyết tiếp nhận” (reception theory). Nhiều thế hệ qua lịch sử đã
tiếp tục đón nhận, giải thích và mang ý nghĩa của Kinh Thánh vào trong bối cảnh
của mình. Vì thế, mạc khải Tin Mừng mang tính thông diễn, mỗi thế hệ Kitô hữu sẽ
tiếp nhận mặc khải khác nhau tùy theo bối cảnh của mình. Mỗi bản Tin Mừng (Mc,
Mt, Lc, Ga) cũng là một sự tiếp nhận hay thông diễn tới lui giữa Cựu Ước và Biến
cố Kitô, qua bối cảnh đức tin của mỗi cộng đồng chú giải. Như thế, sự đa dạng của
các bản Tin Mừng cho chúng ta sự phong phú về ý nghĩa của biến cố Kitô.
Tuy
nhiên, học thuyết chú giải của Schleiermacher còn nhiều thiếu sót. Liệu kỹ thuật
nhập tâm có thể lột trần mọi động lực ẩn khuất của tác giả và bản văn không? Liệu
độc giả có thể bước vào tiến trình nhập tâm một cách vô tư không? Liệu tính
sáng tạo của bản văn có thật sự phản ánh một tâm hồn tự do và lành mạnh, nhất
là trong trường hợp mạo văn hay mạo danh? Schleiermacher đặt nặng về cá tính của
tác giả, nhưng ý nghĩa của văn chương truyền khẩu (ca dao và tục ngữ) cũng
không kém phong phú cho dù thiếu tác giả cụ thể. Chúng ta có thật sự hiểu tác
giả “hơn” tác giả hiểu chính mình không? hay chỉ hiểu “khác” tác giả thôi (Paul
Ricoeur)? Một khi tác phẩm thoát khỏi ngòi bút của tác giả thì ỳ nghĩa của nó trở
thành bất định (Jack Derida), vậy thì vai trò của tác giả có quan trọng không?
Ngôn ngữ không phải là một hệ thống đóng kín, nhưng luôn mở ra với chân trời vô
hạn của cách dùng (Wittgenstein).
CÁC VẤN ĐỀ TỒN ĐỌNG
Một
giả định chung trong việc chú giải Kinh Thánh là cuối cùng chân lý mạc khải sẽ
được tìm thấy nơi các bản văn, vì đó là lời đã được linh ứng. Nhưng khi nghiên
cứu về chú giải trở nên đa dạng và chuyên sâu hơn, thì nó cũng có nguy cơ trở
thành môn bình phẩm văn học, khảo cổ học, văn hóa học hay sử liệu học. Giả định
chung của các khoa học này là ý nghĩa nguyên thủy của bản văn sẽ được khôi phục
lại cách chính xác. Nhưng giả định này là sai lầm vì chúng ta không bao giờ có
thể hoàn toàn tái thiết lịch sử như nó đã xảy ra mà không bao hàm các tiên kiến
của mình trong đó. Phương pháp bình phẩm lịch sử coi nhẹ tính đa nghĩa của ngôn
ngữ và khả năng tiếp nhận đối với bản văn. Cách người đọc tiếp nhận bản văn thì
đã mang một lịch sử chú giải của các bản văn cổ điển trên quan điểm của người đọc
rồi.
Hơn
nữa, có một não trạng tương đối nếu chỉ giới hạn tính linh ứng trong bối cảnh
nguyên thủy của bản văn như một số người cho rằng mạc khải chấm dứt sau khi các
môn đệ cuối cùng của Chúa Giêsu qua đời. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chỉ ra
nguy cơ việc nghiên cứu lịch sử các tín điều (history of dogma) trở
thành một “giáo điều lịch sử” (dogma of history). Lịch sử không phải là
tiêu chuẩn độc nhất để khẳng định chân lý của mạc khải, nhưng cần phải có sự
quân bình giữa tính vẹn toàn của mạc khải Kinh Thánh, sự linh ứng tiếp diễn
trong truyền thống Giáo hội, như được thấy nơi các tín điều về Đức Mẹ (1854
&1950).
Tân
Ước giả định tính linh ứng của Lời Chúa, nhưng không giải thích tiến trình linh
ứng đã xảy ra như thế nào. Trong quá khứ, linh ứng được hiểu như Thiên Chúa soi
sáng các thánh sử viết ra bản văn, như Thiên Chúa gợi ý và tác giả đóng vai thư
ký. Công Giáo nhấn mạnh vào linh ứng về nội dung, còn Tin Lành nhấn mạnh về
ngôn ngữ của Kinh Thánh. Cách hiểu biết này giúp phân biệt giữa nội dung
và hình thức của mạc khải. Nhưng ngày nay, học thuyết linh ứng được mở rộng và
bao gồm cả truyền thống và lịch sử tiếp thu của bản văn. Ví dụ, qua trải nghiệm
Phục Sinh, các môn đệ nhận ra tính linh ứng của các biến cố “Xuất Hành” và “Vượt
Qua” của Cựu Ước. Linh ứng của Kinh Thánh là một triến trình liên tục của hành
trình chú giải bản văn qua nhãn quan chú giải của trải nghiệm hiện tại.
Một
nguy cơ khác nữa là khi việc chú giải Kinh Thánh chỉ lưu tâm về việc bảo vệ
chân lý tuyệt đối của bản văn thì rất dễ bị rơi vào não trạng duy cơ bản (fundamentialism). Đây là một sự phản bác
bằng cách rút lui vào trong vỏ bọc kiên cố và bảo thủ. Ngay từ lúc đầu, Giáo Hội
luôn tôn trọng tính đa dạng và phong phú về ý nghĩa của các bản văn Kinh Thánh,
như được thấy khi Tertulianô lên án thói quen chỉ chấp nhận nghĩa đen của bản
văn nơi các nhóm Ngộ Giáo. Cho dù chủ thuyết duy cơ bản muốn giải thích Kinh Thánh
một cách đơn sơ và giản dị, nhưng chính nó đang bị thao túng bởi khuynh hướng bảo
thủ trong các cộng đoàn Kitô giáo nơi nó xuất phát.
Cuối
cùng, tiền kiến hay tiền thức của người chú giải đóng vai quan trọng như Thánh
Augustinô đã nói về tâm hồn thanh sách và sự khao khát điều thánh thiện như điều
kiện để hiểu Kinh Thánh. Ngày nay, thần học Giải phóng nhấn mạnh sự đồng cảm và
hiệp thông với đau khổ hay giới bị áp bức như là điều kiện để hiểu ý nghĩa giải
phóng của Tin Mừng. Gadamer chỉ ra ảnh hưởng của những bản văn cổ điển trước đó
lên chân trời tri thức của bất cứ ai tiếp cận một tác phẩm mới. Riceour cho thấy
khoảng cách giữa bản văn và người đọc là điều kiện để ý nghĩa được phát triển
và trở nên phong phú hơn qua sự giao thoa của các địa tầng chú giải. Habermas nhận
ra nhu cầu về một thái độ phẻ phán nơi người chú giải để nhận diện ý thức hệ đang
tiềm tàng trong bản văn hay trong tiến trình chú giải. Một khi tác phẩm thoát
ra khỏi ngòi bút của tác giả thi ý nghĩa của tác phẩm thuộc về truyền thống lịch
sử tiếp thu nó, do đó tiền kiến và tiền thức của người chú giải luôn nằm trong
quỹ đạo của vòng tròn giải thích giữa bản văn và người đọc. Kinh Thánh trở nên
“cổ điển” (classical) là vì nó đã dấy lên những nỗi thao thức sâu sắc nơi tâm hồn
của các thế hệ sau đó. Thế thì, chú giải Kinh Thánh là một hành trình liên tục
và không có đoạn kết.
Tài
liệu tham khảo
Joseph
Tân Nguyễn. Thông diễn học. Đồng Nai: NXB. Đồng Nai, 2021
F.D.E.
Schleiermacher. Hermeneutics. The Handwritten Manuscript. Heinz
Kimmerle, ed. Missoula Scholar Press, 1977.
David
Tracy & Robert Grant, A Short History of the Interpretation of the Bible.
Fortress Press. Revised & Enlarged edition (1988)
Every
Dulles. “Hermeneutical Theology”, Communio 6 (Spring 1979).
Hans-George
Gadamer. Philosophical Hermeneutics. David E. Linge dịch. University of
California Press, 1976.
[1]
https://www.ccel.org/ccel/lake/fathers2.html
[2]
https://en.wikipedia.org/wiki/Epistle_of_Barnabas
[3]
https://pursuingveritas.com/2015/05/19/the-marcion-problem-irenaeus/
[4]
https://www.biblestudytools.com/dictionary/ptolemaeus/
[5]
https://www.britannica.com/biography/Valentinus
[6]
“Về cách nhận diện và đả phá các tri thức ngụy biện” (180 CN),
[7]
https://en.wikipedia.org/wiki/Theodore_of_Mopsuestia
[8]
https://en.wikipedia.org/wiki/Jerome
[9]
Ađrianô xuất bản cuốn Dẫn vào Kinh Thánh (Introduction to
the Divine Scripture, 425),
[10]
Cuốn Cẩm nang quy phạm về Thiên luật (Regulative Institute
of Divine Law, 550) của Junilius Africanus
[11]
https://en.wikipedia.org/wiki/Tertullian
[12]
https://en.wikipedia.org/wiki/Methodius_of_Olympus
[13]
https://en.wikipedia.org/wiki/Vincent_of_L%C3%A9rins
[14]
https://en.wikipedia.org/wiki/De_doctrina_Christiana