(Cảm nhận mục vụ Hè 2024)
Trước
khi đến giáo xứ Cao Bình thuộc giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng – trong chuyến mục
vụ hè năm 2024, tôi đã đi qua những con đường gấp khúc và ngoằn ngoèo với cảnh
núi non hùng vĩ, thơ mộng. Thật khó có thể dùng từ ngữ để diễn tả hết khung cảnh
núi non chập chùng, đèo nối đèo, núi nối núi, các con suối nhỏ như bức tranh thủy
mặc mê hoặc lòng người. Tôi không khỏi trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và
thầm ca ngợi Chúa: “Ngắm tầng trời tay
Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài,…” (Tv 8, 4).
Khi
đến nơi, Cha Giuse Nguyễn Văn Phượng – bề trên cộng đoàn dòng Chúa Cứu Thế Cao
Bằng, chánh xứ Giáo xứ Cao Bình – cùng hai cha phó đã đón tôi rất thân tình. Bởi
lẽ khi đến đó, tôi rất bỡ ngỡ và chưa thể tưởng tượng ra khung cảnh ở các điểm
truyền giáo mà tôi sẽ được sai đến trong dịp hè này. Sau khi đặt chân đến nơi
và chung sống với người dân trên các bản làng, tôi mới phần nào hiểu được truyền
thống văn hóa, cũng như cảm nghiệm được sự vất vả, khó khăn, thiếu thốn về của
cải vật chất lẫn tinh thần của người dân trên vùng cao này. Phía sau phong cảnh
tuyệt đẹp của thiên nhiên thơ mộng là biết bao ngôi nhà đơn sơ, cũ nát; biết
bao những gia đình nghèo; cùng những em bé ngây thơ, trong sáng không có đủ điều
kiện cần thiết cho việc học cũng như sinh hoạt hằng ngày như các trẻ em nơi
khác. Bên cạnh đó, tôi còn cảm nhận được công lao của qúy cha, qúy thầy và những
vị thừa sai đã từng đặt chân đến nơi đây. Tất cả những hình ảnh đó đã làm con
tim tôi thổn thức và ưu tư hơn nữa cho công cuộc truyền giáo trên vùng cao
trong tương lai.
Giáo điểm Thành Công – Na
Rị
Sau
khi ở giáo xứ Cao Bình một vài ngày, cha Bề trên đưa tôi đến với giáo điểm
Thành Công – Na Rị do cha Giuse Nguyễn Văn Sơn, C.Ss.R. đang phụ trách. Ấn tượng
đầu tiên của tôi khi đến đây đó là Thánh Lễ Chúa Nhật dành cho người H’Mông với
hai ngôn ngữ Kinh – H’Mông. Dù tôi không hiểu gì về tiếng H’Mông, nhưng tôi thấy
được tinh thần sốt sắng của bà con người miền núi khi tham dự Thánh Lễ. Để có
thể dự Lễ Chúa Nhật, một số anh chị em phải đi 40km đường đèo để đến giáo điểm.
Hay, một số người khác phải vất vả đi bộ 6km đường núi ngoằn ngoèo xuống trạm
xe buýt, rồi bắt xe đi thêm 20km mới đến được giáo điểm. Họ khiến tôi khâm phục
vì tinh thần kiên cường và khao khát được đến với Chúa nơi giáo điểm nhỏ bé. Ấn
tượng thứ hai là cửa hàng áo quần 0 đồng cho người nghèo với dòng chữ: “Ai cần mời lấy, ai có mời cho” thể hiện
sự chia sẻ lẫn nhau trong tình người.
Tại
giáo điểm này, tôi tôi được sống và sinh hoạt với các em nội trú đang học đàn, có
cả người kinh lẫn người H’Mông. Các em đã đem đến không chỉ riêng cho tôi, mà còn
cho các cha trong cộng đoàn niềm vui và hạnh phúc khi được làm người phục vụ. Trong
thời gian tôi ở, giáo điểm đang trong quá trình xây dựng thêm sân sau và một số
hạng mục để đáp ứng nhu cầu học tập và sân chơi cho các em thiếu nhi.
Những
lần được quý cha dẫn tôi đi thăm nhà dân trên bản, tôi thêm khâm phục và ngưỡng
mộ những con người miền núi hơn. Cơn mưa bất chợt làm con đường lên bản như được
bôi lên một lớp mỡ gà để thách thức người đi. Các cha và anh em không vì thế mà
chùn chân, chúng tôi đi bộ một đoạn đường nhỏ với những con dốc đầy sỏi đá trơn trượt
để đến với vài gia đình sống trong những ngôi nhà được dựng bên vách núi cheo
leo. Những con người trên bản với thân hình ốm và khuôn mặt đượm nét vất vả, những
em bé dễ thương và thiếu thốn nhiều thứ khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Mặc dù
thời gian tôi ở với dân trên bản rất ngắn, nhưng tôi cảm nghiệm được sự khao
khát về của ăn thiêng liêng tinh thần của họ. Những điều ấy gợi lên trong lòng tôi
lời hỏi của của các Tông đồ với Chúa Giêsu năm xưa: “Ai sẽ cho họ ăn đây?”
Bản Lũng Gà
Kết
thúc 2 tuần ở giáo điểm Thành Công, tôi được đi đến và sống cùng người dân ở bản
Lũng Gà. Vừa đặt chân đến nơi, tôi được đi bẻ ngô cho nhà anh Trường. Con đường
dẫn ra cánh đồng nhỏ hẹp với toàn sỏi đá khiến việc di chuyển khá khó khăn. Thế
nhưng, người dân vẫn dùng xe máy để chở ngô về đến nhà. Đa số những cánh đồng
ngô của người dân đều thế và tay lái của những người chở ngô cũng thật chắc. Bên
cạnh đó, cũng có rất nhiều người vác từng bao ngô gần bằng với cân nặng của
mình về nhà tựa như người con trai H’Mông vác người con gái mình thương để đưa
về nhà giữa thời tiết mưa nắng thất thường.
Qua
thời gian một tuần cùng sống với người dân, tôi phần nào cảm nghiệm được sự vất
vả, khó nhọc của họ. Cuộc sống của người dân H’Mông gắn liền với công việc làm
nông và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trên lưng của mỗi người luôn đeo một chiếc
gùi, lúc thì đựng củi, lúc thì ngô, rau rừng, măng rừng hay thức ăn cho gia súc,…
Từng chiếc gùi, từng bao ngô vác trên vai trong thời tiết khắc nghiệt của vùng
cao diễn tả sức nặng của cuộc sống mưu sinh, gánh nặng gia đình, những lo lắng
của thân phận con người. Nếu thời tiết thuận hòa, thì họ may mắn được no ấm; nếu
không thì họ cũng chỉ dựa vào thức ăn tự kiếm được trong tự nhiên để sống qua
ngày. Một thiếu thốn của họ nữa là chưa có nguồn nước sạch. Tất cả sinh hoạt đều
dựa vào nguồn nước mưa. Quả thực, ngang qua từng cây rau rừng, bụi măng và từng
giọt nước mưa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, chăm sóc và không để dân Người
phải đói khát. Trong những vất vả đó, tình yêu gia đình, tình làng nghĩa xóm và
tình nghĩa anh em huynh đệ là những điều thiêng liêng giúp cho mỗi người có được
niềm vui trong cuộc sống. Dù thiếu thốn của cải vất chất, nhưng tình người rất
đong đầy và đầm ấm. Thần Khí Chúa luôn hoạt động trong con người nơi đây. Những
hoa quả của Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, hiền hòa, tiết độ,… (x. Gl 5,22) đang hiện rõ trong mỗi người dân nơi
đây trong ánh mắt, nụ cười, hay trong những bữa cơm gia đình.
Bên
cạnh những điều rất đẹp ấy, vẫn còn đó một vài nét tập tục xưa như tảo hôn. Trẻ
em người H’Mông không được đi học đầy đủ và phải lập gia đình sớm. Văn hóa uống
rượu đã có từ lâu vẫn còn kéo dài đến hôm nay, gây ảnh hưởng xấu đến giới trẻ,
dẫn đến bạo lực gia đình và các tệ nạn khác. Số lượng người theo đạo Công giáo
chỉ là số nhỏ.
Trải
nghiệm cuộc sống với người dân trên bản, tôi lại càng ngưỡng mộ hơn sự hy sinh
vất vả của những vị thừa sai đầu tiên đã đặt chân lên vùng cao này, cũng như quý
cha đang hoạt động ở cánh đồng truyền giáo rộng lớn này. Các ngài chắc phải có
trong mình tình yêu sâu đậm lắm với Đức Giêsu, mới có thể đi đến với người dân
nơi các bản làng. Hơn nữa, ngôn ngữ cũng là rào cản cho việc truyền giáo nơi đây.
Tuy nhiên, với sự hy sinh, quý cha cũng có thể tiếp xúc và dần dần giao tiếp được
với bà con.
Sau
thời gian ở bản, tôi nhận thấy còn biết bao gia đình đang đói khát của ăn
thiêng liêng tinh thần, chưa nhận biết Chúa và đón nhận đức tin. Lời Chúa lại
vang lên: “Chính anh em hãy cho họ ăn”
(Lc 9, 13) như câu trả lời cho câu hỏi mà Thiên Chúa muốn chất vấn tôi. Vì chỉ
có Chúa mới là Đấng an ủi những ai vất vả, lo âu và mang gánh nặng cuộc sống “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi,
và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ
được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt
11,28-30).
Giáo điểm Bảo Lạc và Bảo
Lâm
Cuối
cùng, cha Bề trên đưa tôi đi thăm giáo điểm Bảo Lạc cách giáo xứ Cao
Bình khoảng 140km. Sau đó, tôi được ở lại giáo điểm Bảo Lâm hai ngày. Hai giáo
điểm này được xem là vùng “trắng” tôn giáo. Người theo đạo Công giáo ở đây rất ít.
Đời sống tâm linh của người dân nơi đây đang thiếu sự nuôi dưỡng thường xuyên,
vì gặp nhiều khó khăn trong việc đón nhận Tin Mừng. Do đó, họ rất khao khát có
những vị thừa sai đến để đồng hành với họ.
Chuyến
đi Bảo Lạc và Bảo Lâm dịp hè này đã mang đến một ý nghĩa lạ thường, thôi thúc
trong tôi lòng nhiệt huyết và sự thao thức làm sao có thể đi đến và ở cùng với
những người đang khao khát Chúa, khao khát cuộc sống tâm linh đích thực nơi
vùng cao.
Khoảng
thời gian mục vụ không dài, nhưng đủ để tôi cảm nhận được tình Chúa tình người
nơi miền đất cao chập chùng đồi núi đầy nắng và gió này. Thấy được những vất vả
và sự nhiệt tâm loan báo Tin mừng của quý cha nơi đây, cảm nhận được cuộc sống
khó nhọc mưu sinh của những anh chị em người H’Mông, những kỉ niệm khi ở bên
các em nội trú, và tình cảm của biết bao con người, tôi nhận thấy, có lẽ để có
thể truyền giáo cho những người trên vùng cao, chúng ta cần quan sát để nhận ra
và đáp ứng nhu cầu của dân làng, cả vật chất cũng như tinh thần “chính anh em hãy cho họ ăn.” Bên cạnh đó,
đối với tôi, dịp gặp gỡ này nung đốt trong tôi tinh thần cầu nguyện và thôi
thúc tinh thần thừa sai. Đồng thời, tôi cần học hỏi thêm tinh thần phục vụ của
các thế hệ cha anh đi trước và mong muốn
có thể tiếp nối tinh thần truyền giáo của các vị như cha thánh Anphongsô – Đấng
sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế - đi đến và ở cùng với người nghèo khổ tất bạt nơi vùng
núi Scala năm xưa.
Phêrô Phùng Quốc Vũ, C.Ss.R.