Chú giải Tin Mừng CN XXX TN B (Mc 10,46-52)


Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, S.V.D.

Xem toàn bộ bài chú giải tại đây: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/10/ke-chop-thoi-co-sieu-hang-chu-giai-tin.html

Bản văn

46 Καὶ ἔρχονται εἰς ἸεριχώΚαὶ ἐκπορευομένου αὐτοῦ ἀπὸ Ἰεριχὼ καὶ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ καὶ ὄχλου ἱκανοῦ ὁ υἱὸς Τιμαίου Βαρτιμαῖοςτυφλὸς προσαίτηςἐκάθητο παρὰ τὴν ὁδόν.

47 καὶ ἀκούσας ὅτι Ἰησοῦς ὁ Ναζαρηνός ἐστιν ἤρξατο κράζειν καὶ λέγειν· υἱὲ Δαυὶδ Ἰησοἐλέησόν με.

48 καὶ ἐπετίμων αὐτῷ πολλοὶ ἵνα σιωπήσῃ· ὁ δὲ πολλῷ μᾶλλον ἔκραζεν· υἱὲ Δαυίδἐλέησόν με.

49 καὶ στὰς ὁ Ἰησοῦς εἶπεν· φωνήσατε αὐτόνκαὶ φωνοῦσιν τὸν τυφλὸν λέγοντες αὐτῷ· θάρσειἔγειρεφωνεῖ σε.

50 ὁ δὲ ἀποβαλὼν τὸ ἱμάτιον αὐτοῦ ἀναπηδήσας ἦλθεν πρὸς τὸν Ἰησοῦν.

51 καὶ ἀποκριθεὶς αὐτῷ ὁ Ἰησοῦς εἶπεν· τί σοι θέλεις ποιήσωὁ δὲ τυφλὸς εἶπεν αὐτῷ· ραββουνιἵνα ἀναβλέψω.

52 καὶ ὁ Ἰησοῦς εἶπεν αὐτῷ· ὕπαγεἡ πίστις σου σέσωκέν σεκαὶ εὐθὺς ἀνέβλεψεν καὶ ἠκολούθει αὐτῷ ἐν τῇ ὁδῷ. (Mk. 10:46-52 BGT)

Dịch sát

46 và họ đến Jêrikhô. Và khi Người và các môn đệ của Người cùng với đám đông lớn đang ra khỏi Jêrikhô người con của ông Timaiô, Bar-Timaiô, một người mù, người ăn xin, đang ngồi bên vệ đường.

47 Bởi vì anh ta nghe rằng đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu la lên và nói rằng: “Hỡi Giêsu, con vua Đavíd, xin thương xót tôi”

48 và nhiều người cứ ngăn cấm anh ta để anh ta phải im lặng, nhưng anh ta càng la nhiều hơn nữa: “Con vua Đavíd ơi, xin thương xót tôi.

49 Sau khi đứng lại, Đức Giêsu nói: “Hãy gọi anh ta và họ gọi người mù, nói rằng: “Can đảm lên, hãy trỗi dậy, Người gọi anh đó”

50 Sau khi quăng áo choàng của mình, nhảy lên, anh ta đi đến cùng Đức Giêsu.

51 Đáp lại anh ta, Đức Giêsu nói: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?” Anh mù nói: “Thưa Thầy, để mà tôi có thể thấy”

52 Đức Giêsu nói cùng anh ta: “Hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh, và ngay lập tức anh đã nhìn thấy và cứ đi theo Người trên đường của Người.

Bối cảnh

Xét về không gian, Mc 10,46-52 là đoạn văn cuối cùng trong loạt bài giảng của Đức Giêsu trên đường lên Jêrusalem bắt đầu từ Mc 10,1. Tiếp theo ngay sau đoạn này, sẽ là trình thuật về sự kiện Đức Giêsu tiến vào thành Jêrusalem. Xét về nội dung, câu chuyện này tiếp tục những phép lạ nhằm mạc khải Đức Giêsu là Đấng Kitô và sự chậm chạp của các môn đệ trong việc hiểu và đón nhận một Đức Kitô chịu khổ nạn, chịu chết. Địa danh Jêrikhô nối kết với nhiều trình thuật trong Cựu Ước, đặc biệt là trình thuật chiếm đất hứa (Gs 6). Trong Tân Ước, Jêrikhô cũng xuất hiện trong câu chuyện người Samari nhân hậu (Lc 10); chuyện liên quan đến Giakêu (Lc 19). Danh xưng “con vua Đavíd” được nhắc đến nhiều lần trong cả ba Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 9,27; 15,22; 20,30; 21,15; Lc 18,38). Khuyết tật “mù” cũng là một đề tài khá phổ biến trong truyền thống Tin Mừng (Mc 8; 10; Mt 12; 15; Ga 9). Chủ đề về “đức tin” dẫn đến sự cứu chữa cũng là một trong những chủ đề chính yếu trong các phép lạ chữa lành (Mc 5,34; 10,52; Mt 8,10.13; 9,22.29; Lc 8,48.50; Lc 17,19). Động từ “trỗi dậy” là một động từ đặc biệt. Nó diễn tả sự sống lại của Đức Giêsu (Mc 6,14.16; 14,28; 16,6.14). Hành động “đi theo” là hành động của một người môn đệ (Mt 4,20.25; Mc 1,18.20).

Cấu trúc

Câu chuyện được đóng khung bằng phần mở đầu và phần kết thúc. Phần mở đầu giới thiệu số phận hẩm hiu của anh mù: Ăn xin, ngồi bên vệ đường // Phần kết nói đến sự đổi đời của anh mù: Đứng dậy, nhìn thấy và bước đi. Phần giữa là câu chuyện giữa anh mù và Đức Giêsu được xây dựng xoay quanh chủ đề niềm tin của anh mù. A. Mù, ngồi bên vệ đường // A’. Nhìn thấy, đi theo trên đường; B. Tiếng kêu đầy hy vọng // B’. Hy vọng thành hiện thực; C. Đức Giêsu lắng nghe tiếng kêu và kêu mời anh mù // C’. Lắng nghe khát vọng của anh mù; trung tâm là loạt hành động can đảm của anh mù: D. Quăng áo choàng, nhảy lên, đi đến cùng Đức Giêsu.

A. Mở đầu: Người mù, ăn xin, ngồi bên vệ đường (10,46)

(B) Tiếng kêu cầu trong niềm tin của người mù bất chấp sự cản trở (47-48)

(C) Đức Giêsu lắng nghe và yêu cầu gọi anh mù (10,49)

(D) Hành động trong đức tin: Quăng áo choàng, nhảy lên, đi đến (10,50)

(C’) Đức Giêsu lắng nghe khát vọng của anh mù: Anh muốn tôi làm gì cho anh (10,51)

(B’) Đức Giêsu đáp trả cho đức tin: Đức tin đã cứu anh (10,52a)

A’. Kết thúc: Người mù nhìn thấy, và đi theo Đức Giêsu trên đường (10,52b)

Bình luận tổng quát

Trên đoạn cuối của hành trình lên Jêrusalem, Đức Giêsu gặp một người đang mong chờ Người. Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đi qua đó như là một hành trình ngẫu nhiên, bình thường. Người đi qua đó, vì Người biết có một anh chàng đau khổ đang cần được Người đoái nhìn. Anh ta là một người mù lòa, ăn xin, ngồi bên vệ đường. Tất cả các thông số về anh ta cho thấy một thân phận hẩm hiu, cùng khổ, sống bên lề xã hội và cậy nhờ vào sự bố thí của người qua kẻ lại. Anh không có quyền lên tiếng, mà có lên tiếng cũng chẳng ai để ý. Khi anh lên tiếng liền bị người ta quát nạt, bịt miệng. Dù anh không nhìn thấy nhưng đôi tai của anh rất thính. Dường như từ lâu anh đã nghe biết, để ý về Đức Giêsu và mong chờ Người từ lâu. Anh nghe biết rằng Đức Giêsu đã làm cho người mù sáng mắt ở Bếtsaiđa (Mc 8,22-26). Anh biết rằng Người chính là “con vua Đavíd”, là Đấng Mêsia, niềm hy vọng của những người cùng khổ như anh. Chính vì lẽ đó, khi vừa nghe đó là Giêsu Nadarét, anh đã lập tức la lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavíd xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu lớn đầu tiên trong cuộc đời anh. Tiếng kêu ấy lập tức làm cho nhiều người phiền toái và quát nạt để anh im đi. Tuy nhiên, anh bất chấp sự ngăn cản ấy, vì anh biết rằng đây là cơ hội hiếm có và cò thể là duy nhất của cuộc đời anh. Thật sự, anh cũng cảm thấy hồi hộp, bởi vì lâu nay anh vẫn sống nhờ vào người qua kẻ lại, nay anh cãi lời của họ, có thể chén cơm sẽ không còn. Anh đã liều mình đánh đổi chén cơm của mình để gào lên nhiều lần nữa. Cuối cùng, Đức Giêsu đã nghe thấy, và dừng lại. Dĩ nhiên, như đã nói, Đức Giêsu không vô tâm đến vậy, Người đi qua lộ trình này có thể cũng là để gặp anh. Tuy nhiên, hành trình vượt ra khỏi bản thân, đánh đổi cả chén cơm, bộc lộ một niềm hy vọng đáng trân quý. Hơn thế nữa, khi nghe rằng Đức Giêsu gọi mình, anh chàng đã vất chiếc áo choàng lại. Đó là chiếc áo che mưa, che nắng, chống lạnh, là chăn đắp mỗi lúc đêm về, là phương tiện để làm kế sinh nhai. Anh đã bỏ lại tất cả để đến cùng Đức Giêsu. Những hy sinh, kỳ vọng của anh rồi cũng được đền đáp. Đức Giêsu đã mở một cuộc đối thoại với một anh mù ăn xin. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Có lẽ đây là người đâu tiên trong cuộc đời quan tâm đến nhu cầu của anh, mà người này lại là Đức Giêsu, “con vua Đavíd”. Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng đã mở ra một cuộc gặp gỡ giữa con người với con người. Không có một khoảng cách, hay rào cản nào về địa vị, giai cấp, giàu nghèo, bệnh tật nào, có thể hạn chế mối tương quan do Đức Giêsu khởi xướng. Người vẫn thường đến với trẻ em, những người mà các môn đệ “ngăn cản”; đến ăn uống với những người tội lỗi, thu thuế, dù bị những người Pharisêu chỉ trích; Người dám chạm vào người phong hủi (Mt 8,3) mặc cho luật về thanh sạch ngăn cấm. Đức Giêsu luôn yêu thương và tôn trọng một con người, đặc biệt là những người cùng khổ. Người hành khất mù đã bày tỏ nguyện vọng được nhìn thấy của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại cho anh thấy một điều cao quý hơn. Người công bố rằng: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Lời công bố này cho thấy ơn chữa lành này đã không xảy ra, nếu không có niềm tin mãnh liệt của anh Bar-Timaiô. Nó cũng cho thấy rằng anh không những được chữa lành thể lý, mà còn lành lặn về tâm linh. Con mắt đức tin của anh đã sáng ra, trước khi con mắt thể lý của anh được nhìn thấy. Sự sáng mắt về tâm linh, “đức tin” là đỉnh cao của phép lạ chữa lành này. Giả như con mắt thể lý của anh được sáng mà tâm linh của anh vẫn mù tối, thì sự chữa lành này chẳng mang lại giá trị gì cho cuộc đời của anh cả. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, đã “cứu độ” cuộc đời của anh chứ không chỉ “cứu chữa” đôi mắt mù lòa của anh. Từ thân phận một người mù lòa, ăn xin, ngồi bên vệ đường, giờ đây, Bar-Timaiô đã nhìn thấy tỏ tường. Anh đứng lên, hòa vào dòng người trên đường. Cuộc đời anh hoàn toàn thay đổi từ thể xác đến tâm linh. Anh chẳng những được cứu bệnh mù thể lý nhưng được cứu độ nhờ đức tin. Cái thấy quan trọng nhất là “thấy” Đức Kitô trên hành trình lên Jêrusalem. Hành trình đầu tiên và duy nhất sau khi sáng mắt là hành trình bước theo Đức Giêsu trên hành trình vào Jêrusalem, hành trình khổ-tử nạn và phục sinh. Đó là hành trình của người môn đệ đích thực.

Câu chuyện Anh Bar-Timaiô thật là một câu chuyện tuyệt vời, có giá trị vượt thời gian. Nó vừa mang đậm chất thần học vừa biểu lộ khía cạnh nhân bản sâu sắc. Khía cạnh thần học: Một người khiếm thị lại có thể có một tầm nhìn chân trời mà tất cả những người khác, ngay cả các môn đệ cũng không nhìn thấy được. Con đường theo Chúa là con đường khổ giá, nên thường rất khó thấy và dẫu có thấy người ta cũng rất khó chấp nhận. Chính vì thế mà ba năm rao giảng, lập nhóm Mười Hai, nhưng đến cuối cùng Đức Giêsu vẫn là người lữ khách “cô đơn” trên con đường thập tự. Có thể nói rằng, anh mù là một ngôi sao sáng tượng trưng cho những con người dám chấp nhận hy sinh để nhìn nhận rõ con đường Đức Giêsu, đường hẹp, đường thập giá, để rồi “bước theo Người trên con đường Người đi”. Khía cạnh nhân bản: Một con người bị tước mất quyền sống, bị đẩy ra bên ngoài xã hội, bị người khác sống dùm, dám chớp lấy thời cơ tìm lại cuộc sống cho chính mình. Đó là biểu hiện của một con người hy vọng, tin tưởng vào Chúa và can đảm dấn thân; Một con người ở địa vị cao, sẵn sàng cúi xuống để ôm lấy những người cùng khổ với một sự tôn trọng và yêu mến hết lòng.

Trong xã hội ngày nay, còn có rất nhiều người, cách này cách khác, đang bị người khác sống dùm; hay chọn lựa sống theo mong muốn của người khác. Đó đều là một hình thức của cuộc đời bị đánh mất. Hơn nữa, có biết bao người luôn so đo, tính toán thiệt hơn trong các mối tương quan để rồi không bao giờ có một sự gặp gỡ đúng nghĩa giữa một người với một con người khác. Đó cũng là những cuộc đời èo uột khuyết tật cách nào đó. Tuy nhiên, xã hội cũng luôn có những người dám làm, dám nghĩ khác đi. Trong buổi tiếp kiến thứ tư hàng tuần dành cho giáo dân tại đại thính đường Phaolô đệ Lục (20/10/2021), có một em nhỏ thiểu năng đã tiến lên chỗ Đức Giáo Hoàng. Vị Giáo Hoàng, mời cậu bé ngồi xuống bên cạnh mình (trên chiếc ghế của đức ông L. Sapienza, nhiếp chính phủ giáo hoàng), trong khi đó bài Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Galát đang được đọc. Một lúc sau cậu bé ngỏ ý muốn có chiếc mũ trắng nhỏ (zucchetto) của Đức Giáo Hoàng. Cậu giằng tay Đức Giáo hoàng hồi lâu, rồi đến với đức ông Leonardo Sapienza để nhờ đức ông xin chiếc mũ dùm cậu ta. Khi đức ông không làm theo ý cậu, cậu còn cầm tay vị linh mục đọc Lời Chúa bằng tiếng Bồ, kéo vị linh mục đến gần Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn vị linh mục giúp xin chiếc mũ ấy. Cuối cùng, vị Giáo Hoàng tặng cậu bé chiếc mũ và cậu vui vẻ đi về chỗ cũ của mình. Đây không phải là lần đầu một cậu bé lên gần Đức Giáo Hoàng trong một buổi tiếp kiến. Đức Giáo Hoàng cũng có lần ôm hôn một người đàn ông “không có mặt” (năm 2013), rồi ôm hôn “người mặt quỷ” (người bệnh u sợi thần kinh – neurofibromatosis – khiến gương mặt nổi u sần nhiều) (2013). Nơi vị giáo hoàng này, người ta có thể tìm thấy lại rõ nét nhân cách, hình ảnh đích thực của Đức Kitô ngày nào.

Nguyện cho tất cả mọi người có thể tận dụng được cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua đời mình để rồi cũng nhìn thấy và bước theo Người như Anh Bar-Timaiô, qua cách ăn nết ở thường ngày của mình.

Học viện Thánh Anphongsô