
TÔNG HIẾN
INDULGENTIARUM
DOCTRINA
(GIÁO LÝ ÂN
XÁ)
do Đức Giáo hoàng Phaolô VI
ban hành ngày 01 tháng 01 năm 1967
Chương 1:
1. Giáo lý và thực hành về ân xá trải qua
nhiều thế kỉ trong Hội Thánh Công giáo, đã có nền tảng vững chắc trong mặc khải
Kinh Thánh. Khởi sự từ thời các Tông Đồ và phát triển trong Hội Thánh với sự trợ
giúp của Chúa Thánh Thần. Qua các thế kỉ nối tiếp nhau, Hội Thánh hằng theo đuổi
sự viên mãn của chân lí cho tới khi Lời Chúa hoàn tất nơi Hội Thánh.
Cần phải
hiểu chính xác về giáo lí này và sử dụng cách hữu ích. Nhớ rằng: Hội Thánh được
Lời Chúa soi dẫn trong đức tin, các Giám mục, những người thừa kế Tông Đồ, nhất
là Giáo hoàng Rôma, thừa kế thánh Phêrô, đã giảng dạy trong giáo lí và thi hành
trong mục vụ qua các thế kỉ cho tới thời nay là giáo lý chân thật.
2. Điều mặc khải thần linh cho biết rằng,
tội lỗi, vì xúc phạm đến sự thánh thiện và công chính của Thiên Chúa, nên đã
sinh ra những hình phạt. Những hình phạt này được đền bù ở đời này bằng những
đau buồn, bất hạnh, tai nạn, nhất là cái chết. Hoặc đền bù ở đời sau bằng lửa
và những hình khổ, hoặc hình phạt thanh tẩy. Vì vậy, các tín hữu phải xác tín rằng,
đường đưa tới sự dữ là đường lầm lạc, là đường đem đến nghịch cảnh, đắng cay,
tai hại…
Những hình
phạt này do Thiên Chúa thiết lập bởi sự phán xét công bằng và thương xót của
Chúa để thanh tẩy các linh hồn, bảo vệ sự thánh thiện trong trật tự luân lý, và
hồi phục đầy đủ vinh quang cao cả của Thiên Chúa.
Thật vậy,
mọi tội lỗi đều là nguyên nhân gây xáo trộn trật tự chung do Thiên Chúa thiết lập
theo sự khôn ngoan không thể tả và tình yêu vô biên của Chúa, đồng thời nói lên
sự huỷ hoại ghê gớm những giá trị đáng kính cho chính tội nhân, và cho cộng đồng
nhân loại.
Các giáo
dân trong những thế kỉ qua, luôn luôn nhìn nhận tội lỗi, không những phạm đến
luật Chúa, mà còn phạm đến tình bạn giữa Thiên Chúa và nhân loại, dù không trực
tiếp, nhưng cũng xúc phạm cách vô lượng đến Thiên Chúa, vô ơn từ bỏ Tình yêu
Thiên Chúa tỏ ra với chúng ta qua Chúa Kitô, Đấng gọi các môn đệ là bạn hữu chứ
không là tôi tớ nữa.
3. Vậy điều cần thiết là sự đền bù tội lỗi,
không những "tình bạn" với Thiên Chúa, tái lập lại trong tâm trí, những
gì đã phạm đến sự khôn ngoan và nhân lành của Chúa, mà còn tái lập tương quan
giữa cá nhân với xã hội, và trật tự tổng quát, đã bị suy nhược, huỷ diệt bởi tội
sinh ra. Sự đền bù phải do tình nguyện chấp nhận hình phạt do sự công chính và khôn
ngoan rất mực của Thiên Chúa, đã chiếu giãi trong thế giới sự thánh thiện, huy
hoàng của Thiên Chúa cao quang.
Sự hiện hữu
và nặng nề của hình phạt cho ta hiểu về sự điên dại và xấu xa của tội lỗi, và
những hậu quả tai hại của nó. Hình phạt tội lỗi hoặc dấu vết vẫn còn, sau khi tội
lỗi đã được tha thứ, đã chứng tỏ rõ ràng trong giáo lí về luyện ngục.
Quả thế,
trong luyện ngục, các linh hồn "chết trong tình yêu của Chúa và thực tình
sám hối, trước khi đền bù cân xứng với tội phạm để được tha, phải "thanh tẩy
sau khi chết" bằng những khổ hình trong luyện ngục. Điều này đã rõ ràng
qua những lời cầu trong phụng vụ, qua việc các Kitô hữu cử hành trong mầu nhiệm
các thánh thông công, dâng lên Thiên Chúa từ thời rất sơ khai: "Chúng con,
chịu những hình phạt vì tội lỗi chúng con đã phạm, xin thương xót tha thứ chúng
con vì Vinh Danh Chúa".
Vì mọi người
sống trên trần gian, đã phạm ít là tội mọn hằng ngày, vì thế, tất cả đều cần đến
lòng thương xót của Chúa ban ơn tha thứ những hình phạt bởi tội phát sinh.
Chương 2:
4. Nơi loài người, có mầu nhiệm về thánh ý
Thiên Chúa tốt lành ẩn giấu, một sự liên kết siêu nhiên "nơi đâu có tội
làm hại con người, nơi đấy cũng có sự thánh thiện cứu giúp con người". Người
Công giáo tương trợ lẫn nhau để đạt đích siêu nhiên. Chứng cớ sự tương trợ này
thể hiện nơi Adam, từ ông, tội lan ra mọi người. Nhưng chúng ta có sự tương trợ
lớn nhất, hiệu quả nhất, trên nền tảng và gương mẫu Chúa Kitô, liên kết chúng
ta với Đấng kêu gọi chúng ta.
5. Thật vậy, Chúa Kitô, Đấng đã chịu khổ
vì chúng ta, nhưng không hề phạm tội, đã bị thương tích vì tội chúng ta, chịu
thiệt thòi vì chúng ta, nhờ thương tích của Ngài mà chúng ta được chữa lành.
Theo chân
Chúa Kitô, các tín hữu luôn trợ giúp nhau, đưa nhau về cùng Cha trên trời, qua
lời cầu nguyện, trao đổi phúc lành và việc đền tội. Họ càng dấn thân vào đức ái
nồng nhiệt, họ càng tỏ ra noi gương Chúa Kitô đau khổ, vác thập giá mình để đền
tội mình và tội tha nhân, nắm chắc rằng họ giúp anh chị em đạt tới ơn cứu độ
nơi Thiên Chúa là Cha thương xót. Đây là giáo lí rất xưa về "các thánh
thông công", từ đó, đời sống mỗi người con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô
và qua Chúa Kitô được liên kết cách lạ lùng với các anh chị em kitô hữu khác
trong sự hợp nhất linh thiêng của nhiệm thể Chúa Kitô, như trở thành một nhiệm
thể riêng biệt.
Điều này
giải nghĩa về "kho tàng của Hội Thánh" qua các thế kỷ, không phải là
gom góp của vật chất, nhưng là góp giá trị việc đền tội vô cùng vô tận với công
nghiệp Chúa Kitô Chúa chúng ta trước Nhan Thiên Chúa, được dâng lên để đền tội
loài người và thông hiệp với Chúa Cha. Chính trong Chúa Kitô, sự đền bù và công
nghiệp cứu chuộc của Người có sức mạnh đó. Kho tàng này cũng thực mênh mông
không thể dò thấu, luôn tươi mát trước Thiên Chúa những lời cầu nguyện và việc
lành của Đức Mẹ Maria và của các thánh, là các đấng theo chân Chúa Kitô, và nhờ
ơn thánh Người, được thánh hoá đời sống và chu toàn sứ mạng được Thiên Chúa Cha
trao phó. Vì vậy, trong khi chờ ngày cứu độ riêng mình, họ cũng cộng tác cứu rỗi
anh em mình trong sự hợp nhất của thân mình mầu nhiệm.
"Chính
Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ,
nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của
mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác
ái" (Ep 4,16). Như thế, sự hợp nhất với các lữ hành, đã qua đi trong Chúa
Kitô trong giấc ngủ bình an của Chúa Kitô, không làm suy yếy hay gián đoạn,
nhưng trái lại, theo đức tin hằng có của Hội Thánh, được tăng sức bởi sự thông
công của cải thiêng liêng. Vì các thánh trên thiên đàng, kết hợp chặt chẽ với
Chúa Kitô hơn, các ngài xây dựng sự thánh thiện vững vàng hơn, trong Hội Thánh,
trong sự thánh thiện, trong sự thờ phượng Thiên Chúa trổi vượt hơn Hội Thánh
dâng lên Thiên Chúa tại dương thế này, qua cách xây dựng khác (x. 1 Cr 12,12-27).
Vì sau khi
được nhận vào nhà thiên đàng, và hiện tại trong Thiên Chúa (x. 1 Cr 5,8), nhờ
Người, với Người và trong Người, các ngài không ngừng can thiệp với Cha cho
chúng ta, bày tỏ công nghiệp các ngài đã lập được trên thế gian này qua Trung Gian
duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và là người (x. 1 Tm 2,5), bởi phụng sự
Chúa trong mọi sự và mang trong mình những gì còn thiếu trong cuộc tử nạn của
Chúa Kitô cho Thân thể Người là Hội Thánh (x. Cl 1,24). Đó là nhờ lợi ích tình
huynh đệ, sự yếu đuối của chúng ta được vững mạnh.
Vì lý do
này, chắc chắn có sự kiện giữa các tín hữu đã tới nhà thiên quốc, những tín hữu
còn đang đền tội trong luyện ngục, và các tín hữu còn lữ hành nơi dương thế,
liên kết với nhau trong đức ái, trao đổi dồi dào với nhau những ơn lành, nhờ
đó, phép công thẳng của Thiên Chúa được đền bù trong toàn nhiệm thể Chúa. Lòng thương
xót của Chúa đưa tới sự thứ tha, cốt để những hối nhân ăn năn thống hối thành
tâm, được hưởng nhiều chừng nào có thể những ơn phúc trong gia đình Thiên Chúa.
Chương 3:
6. Hội Thánh, ý thức những chân lí từ nguồn
gốc, thiết lập, áp dụng nhiều cách khác nhau những hiệu quả ơn cứu chuộc của
Chúa cho từng tín hữu cũng như cộng tác để cứu rỗi anh chị em mình, để tất cả Hội
Thánh chuẩn bị trong công chính và thánh thiện cho tới khi Nước Thiên Chúa hoàn
tất, trở nên mọi sự cho mọi người.
Chính các Tông
Đồ kêu gọi môn đệ mình cầu nguyện cho phần rỗi các tội nhân. Lối thực hành này
trong Hội Thánh được duy trì cách tốt lành, cách riêng kêu gọi cộng đoàn cầu bầu
cho các hối nhân, cho những người qua đời thoát hình khổ, nhất là nhờ dâng Thánh
Lễ. Các việc lành, nhất là những người yếu đau trong thân thể, cũng được dâng
cho Thiên Chúa để cầu cho các tội nhân được cứu độ. Từ thời xa xưa, Hội Thánh
đã thực hành như thế. Các khổ hình của các vị tử đạo vì đức tin và vì lề luật
Chúa được coi như có giá trị lớn. Các tội nhân thường hướng tới các vị chứng nhân
này, nhờ công nghiệp các ngài giúp mình mau chóng được hoà giải nơi các Giám mục.
Quả thực, lời cầu nguyện và việc lành của người công chính có giá trị lớn lao
giúp hối nhân được thanh tẩy, cứu rỗi với sự trợ giúp của toàn thể cộng đồng
dân Chúa.
Nhưng
không phải công nghiệp cá nhân tín hữu đem lại ơn tha thứ tội lỗi cho hối nhân
anh em mình, nhưng là nhờ toàn thể Hội Thánh, như là thân thể cá biệt hợp nhất
với Chúa Kitô là đầu, mang lại sự đền bù.
Các giáo phụ
trong Hội Thánh thâm tín rằng, theo đuổi công việc cứu rỗi trong cộng đồng, dưới
quyền bính các chủ chăn, được Chúa Thánh Thần thiết lập, là các vị Giám mục điều
hành Hội Thánh Chúa. Vì thế, các ngài khôn ngoan hành xử, thiết lập mức độ đền
tội theo giáo luật, được thay thế bằng những việc có thể nhẹ nhàng hơn, mang lợi
ích chung và thích hợp nuôi dưỡng lòng đạo đức, tội nhân và các tín hữu khác thực
hành được.
Chương 4:
7. Hội Thánh thâm tín rằng, các chủ chăn của
đoàn chiên có thể xoá đi những dấu vết tội lỗi bằng cách áp dụng công nghiệp
Chúa Kitô và các thánh, dần dần qua các thế kỉ, dưới sự soi sáng từ từ của Chúa
Thánh Thần cho dân Chúa, sử dụng những ân xá do giáo lý và kỷ luật của Hội
Thánh ban chứ không phải là thay đổi. Từ cội rễ của mặc khải, lợi ích mới gia
tăng cho các tín hữu và cho toàn Hội Thánh.
Việc sử dụng
những ân xá, dần dần trở nên hiển nhiên trong lịch sử Hội Thánh khi các Giáo
hoàng Rôma ban các sắc lệnh chỉ định một số việc nào đó hữu dụng cho công ích
"có thể thay thế việc đền tội" và rằng giáo dân nào thực tình sám hối
và xưng tội" và làm việc được chỉ định, sẽ được ban "nhờ lòng thương xót
của Thiên Chúa cao cả… và tin vào công nghiệp, và quyền bính các Tông Đồ"
và nhờ sự sung mãn sức mạnh tông toà, không những được tha thứ đầy đủ và dồi
dào, mà còn được tha thứ rất trọn vẹn tội đã phạm".
Vì
"Con Một Thiên Chúa đã sinh ra, đã sắm cho Hội Thánh chiến đấu một kho
tàng, và kí thác cho Phêrô, người mang chìa khoá Thiên đàng, và các vị đại diện
ngài, các đại diện Chúa Kitô trên trái đất, để các ngài có thể phân phát kho
tàng ấy cứu rỗi các tín hữu, áp dụng cách thương xót vì những lí do hợp lí cho
những ai sám hối và xưng tội, tha tất cả hoặc từng phần hình phạt tạm phải chịu
vì tội phạm, cách tổng quát hoặc cách riêng biệt, tuỳ sự phán xét thích hợp trước
mắt Chúa. Công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh cũng được cộng thêm vào kho tàng
này".
8. Sự tha thứ hình phạt tạm, bởi tội đã được
tha trước, gọi bằng tên riêng là ân xá. Đây là cách giảm bớt dấu vết tội, đồng
thời tẩy sạch các dấu vết ấy.
Qua ân xá,
Hội Thánh nhờ sức mạnh của Chúa Kitô, qua lời cầu nguyện và qua sự can thiệp của
quyền bính, áp dụng cho người tín hữu, như họ chuẩn bị, kho tàng đền bù mà Chúa
Kitô và các thánh đã lập để tha các hình phạt tạm.
Mục đích
khi quyền bính Hội Thánh ban ân xá, không những nhằm tín hữu thoát khỏi hình phạt
mà còn thúc đẩy họ làm việc đạo đức, đền tội, và bác ái để gia tăng đức tin và
mưu cầu công ích.
Khi tín hữu
lãnh ân xá cho người đã chết, họ vun trồng đức ái cách tuyệt diệu, và khi họ hướng
tâm trí lên trời, họ cũng nên khôn ngoan hơn nơi trần thế.
Huấn quyền
Hội Thánh đã trình bày và làm sảng tỏ giáo lý về ân xá qua nhiều văn kiện. Nhưng
bất hạnh, nhiều khi sự thực hành về việc lãnh ân xá bị dùng sai do phô trương
hoặc không đúng lúc, làm ân xá bị khinh thường, hành động vô phép, bị khinh khi
xúc phạm. Hội Thánh phải sửa sai những tệ nạn ấy và dạy rằng: "Phải duy
trì ân xá cho phần rỗi cao cả của các linh hồn như Giáo huấn Hội Thánh và Công
đồng đã chuẩn nhận, đồng thời lên án dữ cho những kẻ khinh thường ân xá, hoặc
chối quyền Hội Thánh ban những ơn này."
9. Ngày nay, Hội Thánh cũng kêu mời con
cái khắp nơi suy ngắm kĩ về những ích lợi và cách lợi dụng những ân xá cho
chính họ và cho Hội Thánh.
Điều đáng
lưu ý là, việc thực hành nhằm cứu rỗi này, cho chúng ta biết, tín hữu khi lãnh
ân xá cần hiểu rằng do sức riêng mình, họ không thể chữa trị những tai hại gây
ra cho mình và cho công đồng bởi tội đã phạm, họ phải kêu đến ơn cứu rỗi cách
khiêm nhường.
Đàng khác,
việc sử dụng ân xá cho ta thấy mình gần gũi với nhau trong Chúa Kitô, và đời sống
siêu nhiên mình có thể giúp nhau dễ dàng và gần gũi kết hợp với Chúa Cha. Dùng
ân xá có ảnh hưởng cách hữu hiệu trên đức ái nơi chúng ta, và tỏ ra đức ái cách
trổi vượt khi ta nhường ân xá cho những anh chị em đã li trần trong Chúa Kitô.
10. Khi làm việc lành để lãnh ân xá thức tỉnh
lòng trông cậy vào Chúa Cha, không được cẩu thả hay không cố gắng để chuẩn bị
được thông hiệp trọn vẹn với Chúa. Dù ân xá là ơn ban nhưng không, nhưng chỉ
ban cho người sống cũng như người chết với những điều kiện xác định.
Để được
lãnh ân xá, đòi phải làm một số việc chỉ định. Tín hữu cũng phải có những dữ kiện
cần thiết, nghĩa là: yêu mến Chúa, ghét tội, trông cậy vào công nghiệp Chúa
Kitô, và tin vững vàng vào sự trợ giúp vĩ đại phát sinh từ mầu nhiệm các thánh
cùng thông công.
Hơn nữa,
người tín hữu cũng phải nhớ rằng, để lãnh ân xá, họ phải tùng phục các vị chăn
chiên hợp pháp trong Hội Thánh, nhất là Đức Giáo hoàng kế vị thánh Phêrô, Đấng
mang chìa khoá Nước Trời. Chính Chúa Kitô đã tín nhiệm trao bổn phận nuôi dưỡng
đoàn chiên và điều hành Hội Thánh của Chúa.
Thể chế cứu
độ của ân xá, vì vậy, trình bày một Hội Thánh trước Chúa Kitô, không khuyết điểm,
nhưng thánh thiện tinh tuyền, kết hợp với Ngài bằng mối dây siêu nhiên của đức ái.
Qua những ân xá, các phần tử của Hội Thánh nên thanh sạch và mau lẹ kết hợp với
các phần tử khác của Hội Thánh trên thiên đàng, vương quốc Chúa Kitô qua những
ân xá này, lớn hơn và lẹ hơn "tới khi tất cả chúng ta đạt được sự hợp nhất
trong đức tin và trong sự nhận biết sâu xa hơn của Con Thiên Chúa, tới con người
hoàn hảo, tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô".
11. Mẹ Hội Thánh Công giáo hỗ trợ những
chân lý này, khi khuyến khích giáo dân lãnh nhận ân xá như là những việc rất
thân thương trong nhiều thế kỉ cũng như ngày nay được chứng minh do kinh nghiệm,
nhưng không làm giảm giá các phương cách thánh hoá và thanh tẩy khác, nhất là Thánh
Lễ Misa và các bí tích, nhất là bí tích Giải tội. Cũng không làm giảm giá các sự
trợ giúp khác như các á bí tích và các việc đạo đức, đền tội và bác ái. Tất cả
các việc đền tội này đều mang đến sự thánh thiện và thanh tẩy rất hiệu quả, đem
các tín hữu đến kết hợp với Chúa Kitô chặt chẽ hơn, Ngài là Đầu của nhiệm thể Hội
Thánh, nhờ đức ái. Sự trổi vượt của đức ái trong đời sống kitô hữu cũng được
minh xác qua các ân xá. Không thể chiếm được ân xá nếu không có sự sám hối chân
thành trong tâm trí ("metanoia") và kết hợp với Chúa, làm những việc
có ân xá đã được chỉ định. Như thế là nhờ thực hành đức ái mà các hình phạt được
tha, bởi Hội Thánh phân phát kho tàng ơn phúc.
Khi khuyên
nhủ giáo dân đừng bỏ hoặc thờ ơ với những thánh truyền, nhưng đón nhận với tâm
tình đạo đức, như là kho tàng quý báu của gia đình Công giáo, Hội Thánh không hề
bỏ chúng, như những phương tiện thanh tẩy và thánh hoá thánh thiện và tự do của
con cái Thiên Chúa. Hội Thánh hằng nhắc nhở con cái rằng những phương thế này
là cần hay ít ra cũng tốt và hữu ích để đạt Ơn Cứu Độ.
Mẹ Hội
Thánh coi là thích hợp và quý trọng việc sử dụng những ân xá, giới thiệu một
vài đổi mới về qui định để lãnh ân xá.
Chương 5:
12. Những quy luật sau đây giới thiệu những
khía cạnh khác nhau trong việc lãnh ân xá, theo những đề nghị của các Hội đồng Giám
mục.
Những điều
khoản trong Giáo luật và Sắc lệnh của Toà Thánh về ân xá, không có ghi trong luật
mới này, thì giữ nguyên không thay đổi.
Theo luật
mới, 3 điều này phải đặc biệt chú ý: thiết lập mức độ mới cho các Tiểu xá, giảm
một số lớn các Đại xá, những ân xá gọi là "thực sự" và "địa
phương" đều được đơn giản hơn và lựa chọn kĩ hơn.
Đối với
các Tiểu xá, không còn liệt kê ngày và năm như trước, chỉ nói chung là "được
Tiểu xá", khi tín hữu làm công việc được chỉ định.
Do những
việc người tín hữu làm, họ được công nghiệp như kết quả chính, ngoài ra, họ được
những Tiểu xá do Hội Thánh ban để được tha những hình phạt tạm, tuỳ theo lòng mến
của họ, và tuỳ cách làm hoàn hảo hơn kém, mà được tha nhiều ít.
Khi giảm bớt
những Đại xá là để người tín hữu thụ lãnh với tâm tình quý trọng chúng hơn, và
chuẩn bị xứng đáng hơn để nhận lãnh. Vì càng dễ lãnh, người ta càng dễ thờ ơ.
Cho nhiều thì không mấy quý. Đàng khác, tín hữu cũng phải dành thời giờ để chuẩn
bị nhận lãnh Đại xá.
Về những
ân xá liên quan đến "đồ vật ảnh tượng" và "dành cho địa
phương", không những bị giảm đáng kể theo số, mà còn xác định rõ hơn về những
việc làm có ân xá, không phải đồ vật hoặc nơi chốn, nhưng là các dịp được ân
xá. Các phần tử của các hội đạo đức có thể lãnh ân xá dành cho hội mình mà
không cần điều kiện về đồ vật.
Thành luật
n.1. Ân xá là sự tha thứ trước mặt Chúa các
hình phạt tạm phải chịu vì tội đã được tha, cho những môn đệ Chúa Kitô, với những
điều kiện xác định, qua sự can thiệp của Hội Thánh, như là thừa tác viên cứu rỗi,
tha thứ với thẩm quyền, và áp dụng kho tàng đền tội do Chúa Kitô và các thánh
đã lập.
n.2. Tuỳ được Tiểu xá hay Đại xá mà hình phạt
tạm sinh ra bởi tội được tẩy xoá từng phần hay toàn phần.
n.3. Tiểu xá hay Đại xá luôn luôn có thể chỉ
cho các linh hồn đã qua đời.
n.4. Tiểu xá được xác định bằng từ "Tiểu
xá", không xác định ngày hay năm như trước.
n.5. Tín hữu, nếu ăn năn tội cách trọn, làm
việc có Tiểu xá, cũng được tha các hình phạt tạm do công việc ấy, và do sự bầu
cử của Hội Thánh.
n.6. Mỗi ngày chỉ được lãnh một Đại xá, trừ
sự tiên liệu trong số 18 dưới đây cho những ai nguy tử. Tiểu xá có thể lãnh mỗi
ngày nhiều lần, trừ khi có điều khoản ấn định ngược lại rõ.
n.7. Để lãnh Đại xá, phải làm việc có Đại xá
và giữ 3 điều kiện sau: xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng. Điều
đòi khác là phải dứt lòng quyến luyến tội lỗi, dù tội nhẹ.
Nếu không
có đủ điều đòi hỏi, hay không đủ 3 điều kiện trên, thì chỉ được Tiểu xá, trừ
khi gặp điều 11 dưới đây cho những ai ngăn trở.
n.8. Ba điều kiện đòi buộc, có thể làm ít
ngày (several days) trước hoặc sau khi làm việc lãnh Đại xá, nhưng việc rước lễ
và cầu theo ý Đức Giáo hoàng thì phải làm cùng ngày lãnh ơn.
n.9. Một lần xưng tội đủ để lãnh nhiều Đại
xá, nhưng rước lễ và cầu theo ý Đức Giáo hoàng thì đòi cho từng Đại xá.
n.10. Điều kiện cầu nguyện theo ý Đức Giáo
hoàng, được coi như đầy đủ, khi đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Kính Mừng,
nhưng tín hữu được tuỳ ý đọc thêm kinh theo lòng đạo đức của mình để cầu theo ý
Đức Giáo hoàng.
n.11. Không có gì thay đổi năng quyền ban
theo Giáo luật số 935 cho các linh mục giải tội đối với những ai ngăn trở hoặc
do việc đã nói tới, hoặc do các điều kiện (để lãnh ân xá), Đấng Bản Quyền địa
phương có thể theo luật mà ban Đại xá, cho những ai sống ở nơi không thể, hoặc
rất khó lãnh bí tích Giải tội và rước lễ, miễn là họ ăn năn tội và có ý lãnh nhận
hai bí tích này sớm bao nhiêu có thể.
n.12. Sự phân chia ân xá thành "cá nhân,
thực sự, địa phương" như trước nay bị bãi bỏ, để làm sáng tỏ ân xá theo việc
làm của người tín hữu, dù đồng thời có dính kết với đồ vật, nơi chốn.
n.13. Bảng ân xá (thu tập những việc làm và
kinh nguyện có ân xá) sẽ được cải đổi cho hợp với những lời cầu nguyện và việc
đạo đức, bác ái, đền tội quan trọng hơn.
n.14. Danh sách và tổng hợp ân xá riêng cho
các Dòng tu, những Tu hội sống chung không lời khấn, Hiệp hội đời, Hội đạo đức,
sẽ được sửa đổi rất sớm, nương theo những ý kiến của các Bề trên Tổng quyền,
các Hội đạo đức, các Đấng Bản Quyền địa phương, trong việc lãnh Đại xá vào những
ngày đặc biệt do Toà Thánh đã thiết lập.
n.15. Đại xá ngày 02 tháng 11 (lề Các đẳng),
để chỉ cho người quá cố được lãnh trong mọi nhà thờ, nhà nguyện công, bán công,
cho những ai có đủ điều kiện.
Đại xá
cũng được lãnh 2 lần trong năm tại các nhà thờ giáo xứ: ngày lễ kính thánh Bổn
mạng và ngày 02 tháng 8 ("Portiuncula"), hoặc dịp thuận tiện khác tuỳ
Đấng Bản Quyền địa phương.
Các Đại xá
nói trên, có thể lãnh vào đúng ngày hoặc Chúa nhật trước hoặc sau, tuỳ Đấng Bản
Quyền địa phương.
Các ân xá
khác liên quan tới nhà thờ, nhà nguyện sẽ được điều chỉnh sớm hết sức.
n.16. Việc phải làm để lãnh Đại xá khi viếng
nhà thờ, nhà nguyện, là tín hữu sẽ đọc một kinh Lạy Cha và kinh Tin kính.
n.17. Tín hữu dùng đồ đạo được linh mục làm
phép như tượng Chúa chịu nạn, thánh giá, tràng hạt, áo Đức Mẹ, ảnh vảy, sẽ được
lãnh Tiểu xá.
Nhưng nếu
những đồ trên được Đức Giáo hoàng hoặc Đức Giám mục nào làm phép thì có thể được
Đại xá vào lễ kính hai thánh Phêrô Phaolô Tông Đồ, nếu tín hữu ấy đọc bản tuyên
xưng đức tin hợp pháp (kinh Tin Kính).
n.18. Các tín hữu nguy tử mà linh mục không
thể cho họ lãnh Bí tích cuối cùng cũng như Đại xá giờ lâm chung theo Giáo luật
khoản 468, tuy nhiên Mẹ Hội Thánh ban Đại xá lâm chung cho họ, nếu trong đời sống
họ vẫn thường cầu nguyện, và lúc này, thật đáng khen nếu họ cầm tượng Chúa chịu
nạn hay Thánh giá và ước ao lãnh Đại xá (toàn xá).
Đại xá giờ
lâm chung này được ban cho tín hữu, dù ngày hôm đó họ đã lãnh Đại xá khác rồi.
n.19. Luật ấn định về Đại xá, liên quan tới số
16, cũng thường áp dụng từ trước tới nay như vậy để lãnh Đại xá khi viếng nhà
thờ nhà nguyện (đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính).
n.20. Mẹ thánh Hội Thánh, rất lo lắng cho các
tín hữu đã qua đời, đã quyết định có thể nhường cho các linh hồn ấy ơn phúc
cách rộng rãi nhất của bất cứ Thánh Lễ Misa nào.
Chuyển luật
Những luật
mới liên quan đến việc lãnh ân xá sẽ có hiệu lực trong 3 tháng kể từ ngày công
bố Tông hiến này trong Công báo Toà Thánh.
Những ân
xá liên quan đến các đối tượng tôn giáo không nói đến ở trên, sẽ chấm dứt trong
3 tháng kể từ ngày công bố Tông hiến này trong công báo Toà thánh.
Những điều
lấy lại nói đến trong số 14 và 15 phải tuân theo luật Toà Xá giải trong vòng 1
năm. Hai năm sau ngày công bố Tông huấn này, những ân xá không nói tới trong
Tông huấn này sẽ bị bãi bỏ.
Chúng tôi
muốn rằng những điều chúng tôi ấn định và ban hành đây sẽ có hiệu lực trong
tương lai, không gì hạn chế, bất kể những điều các vị tiền nhiệm chúng tôi đã ấn
định.
Ban
hành tại Rôma - Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 01 tháng 01 năm 1967
Năm
thứ 4 triều đại Giáo hoàng của chúng tôi.
Phaolô
VI
ƠN ĐẠI XÁ VÀ TIỂU XÁ TRONG HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
LM. Vinh Sơn
Nguyễn Thế Thủ
Theo Tông
hiến Indulgentiarum doctrina của Đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố 01/01/1967,
có hai loại ân xá trong Hội Thánh Công giáo: Đại xá [indulgence plénière] còn gọi
là Toàn xá, và Tiểu xá [indulgence partielle]. Việc phân loại này xét theo việc
tha toàn bộ hay một phần hình phạt của tội. Hội Thánh nhận quyền ban ân xá này từ
nơi Đức Kitô, và ban ân xá với mục đích để tha các hình phạt đáng chịu vì đã phạm
tội.
Tông hiến
của Đức Phao-lô VI xác định việc lãnh nhận các ân xá như sau:
1. Mọi tín
hữu đều có thể hưởng ân xá cho mình, hoặc nhường cho các linh hồn trong luyện
ngục.
2. Ơn Tiểu
xá được ban khi người tín hữu thực hành một số việc lành phúc đức do Hội Thánh
quy định, với điều kiện thật lòng ăn năn và từ bỏ các tội đã phạm.
3. Mỗi
ngày chỉ nhận được một ơn Đại xá mà thôi, trừ trường hợp nguy tử. Để lãnh ơn Đại
xá trong trường hợp nguy tử, người hấp hối cầm thánh giá Chúa Kitô và tin tưởng
vào lòng từ bi nhân hậu của Người.
4. Những
điều kiện thông thường để lãnh ơn Đại xá: thực hiện một công việc do Hội Thánh
chỉ định, xưng tội riêng, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng.
5. Có thể
xưng tội riêng trước hoặc sau ngày so với lúc thực hiện công việc do Hội Thánh
chỉ định. Tuy nhiên, để được ơn Đại xá cần phải rước Mình Thánh Chúa và cầu
nguyện theo ý Đức Giáo hoàng đúng vào ngày được chỉ định.
6. Có thể
xưng tội riêng một lần để lãnh ơn Đại xá, tuy nhiên mỗi lần rước lễ và cầu nguyện
theo ý Đức Giáo hoàng chỉ nhận được một ơn Đại xá mà thôi.
7. Để hoàn
tất điều kiện “cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng”, người tín hữu sẽ đọc: một
kinh Lạy Cha và một kinh Kính Mừng (hoặc một kinh nào khác do lòng sùng kính
riêng), đồng thời hướng ý cầu nguyện về Đức Giáo hoàng.
8. Đấng Bản
Quyền giáo phận có thể cho phép tín hữu lãnh ơn Đại xá khi chưa xưng tội riêng
hoặc chưa thể rước lễ vì những lý do bất khả kháng. Tuy nhiên, người này phải dốc
lòng ăn năn tội, cùng có ý hướng xưng tội và rước lễ sớm nhất có thể.
9. Tín hữu
có thể lãnh ơn Đại xá khi đi viếng bất cứ nhà thờ nào, kể cả các nhà nguyện vào
ngày 02/11, ơn Đại xá này được dành cho các linh hồn nơi luyện ngục. Ngoài ra,
các tín hữu có thể lãnh ơn Đại xá hai lần nữa trong một năm khi đi viếng nhà thờ
giáo xứ của mình: một lần vào ngày lễ bổn mạng. Một lần vào ngày 02/8 [ngày ân
xá của nhà thờ Portioncule] hoặc ngày do Đấng Bản Quyền giáo phận chỉ định.
Cũng có thể lãnh ơn Đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau hai ngày trên,
với sự chấp thuận của Đấng Bản Quyền giáo phận.
10. Khi Đấng
Bản quyền giáo phận chỉ định đi viếng một nhà thờ hay một trung tâm hành hương
để lãnh ơn Đại xá, thì người tín hữu sẽ đọc: một kinh Lạy Cha và một kinh Tin
Kính lúc viếng nhà thờ này như điều kiện để lãnh ơn Đại xá.
11. Khi
người tín hữu dùng một đồ vật thánh đã được linh mục làm phép như tượng chịu nạn,
thánh giá, ảnh đeo, tràng hạt… sẽ nhận được ơn Tiểu xá. Còn nếu các đồ vật này
được Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục làm phép, thì sẽ nhận được thêm một ơn Đại
xá vào ngày lễ kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô (29/6) với điều kiện phải
đọc một kinh Tin Kính vào ngày lễ này.
12. Mỗi
ngày chỉ nhận được một ơn Đại xá mà thôi.
13. Các ơn
Đại xá chỉ được ban vào các ngày được Toà Thánh xác định, theo lợi ích chung của
Hội Thánh hoàn vũ, hoặc do lời thỉnh cầu của Bề trên Thượng cấp Hội Dòng, hay của
Đấng Bản Quyền địa phương.
Ngày
29/6/1968, Toà Xá giải Tông Toà đã cho công bố tập Enchiridion indulgentiarum để
hướng dẫn cách chi tiết việc thực thi Tông hiến Indulgentiarum doctrina của Đức
Phaolô VI. Ngoài 13 điểm kể trên, tập tài liệu này còn nêu lên những điểm cơ bản
cần lưu tâm:
1. Không
ai được lãnh hộ ân xá cho người còn sống, nhưng có thể nhường ân xá cho những
người đã qua đời.
2. Tín hữu
có lòng sám hối thật và thực hiện một việc lành có ân xá, thì được tha hình phạt
tạm tùy theo công việc mình làm.
3. Không
còn áp dụng Tiểu xá mấy ngày hay mấy năm nữa. Cũng loại bỏ các ân xá về cá
nhân, nơi chỗ, sự vật theo cách thức thực hành cũ. Từ nay chỉ nói đến ân xá do
việc lành đã làm.
4. Giám mục,
Giám quản giáo phận có quyền ban ơn Tiểu xá trong giáo phận mình. Ngài cũng có
quyền ban Phép lành Toà Thánh với ơn Đại xá ba lần trong một năm, vào các dịp lễ
trọng do ngài ấn định.
5. Khi viếng
nhà thờ để lãnh ân xá, thì thời gian viếng được tính từ trưa ngày hôm trước đến
nửa đêm ngày hôm sau.
6. Khi các
đồ vật thánh có ân xá như tượng chịu nạn, thánh giá, ảnh đeo, tràng hạt… bị hư
hỏng không sử dụng được nữa hay bị đem bán, thì không còn hiệu lực về ân xá.
7. Linh mục
giải tội có thể thay đổi việc làm cho các hối nhân để họ lãnh được ân xá, khi
những người này không có khả năng thi hành những điều kiện phải giữ để hưởng một
ân xá do Hội Thánh quy định.
TÌM HIỂU VỀ ƠN TOÀN XÁ
LM. Giuse Phạm Đình Ái, S.S.S.
I.
ÂN XÁ LÀ GÌ ?
Ân
xá là việc tha trước mặt Thiên Chúa hình phạt tạm thời phải chịu do các tội gây
nên, dù tội đã được tha thứ [qua Bí tích Giải tội]. Nhờ Bí tích Hòa
giải, hối nhân được tha thứ tội lỗi và tái lập hiệp thông với Thiên Chúa, cũng
như được tha các hình phạt đời đời do tội. Nhưng những hình phạt tạm vẫn còn.
Kitô hữu nào đã được chuẩn bị đầy đủ và đã thực hiện một số điều kiện đã được
ấn định, thì được hưởng ơn tha thứ hình phạt tạm nhờ sự trợ giúp của Giáo Hội
(GL 992; GLCG 1471, 1473; Enchiridion Indulgentiarum [EI] (1999), “Normae de
Indulgentiis”, N. 1).
Ân
xá gồm có ơn xá từng phần hoặc ơn toàn xá. Tên gọi “ơn xá từng phần” và “ơn
toàn xá” được sử dụng nhiều hơn là tên gọi “Tiểu xá” và “Đại xá” (GL 993; GLCG
1471; EI, “Normae de Indulgentiis”, N. 2). Bất cứ tín hữu nào cũng có thể hưởng
ơn xá từng phần hoặc ơn toàn xá, hoặc cho chính mình, hoặc cho những người đã
qua đời (GL 994; GLCG 1471; EI, “Normae de Indulgentiis”, N. 3). Mỗi ngày một
tín hữu chỉ nhận hưởng được ơn toàn xá một lần mà thôi, ngoại trừ trường hợp
nguy tử (EI, “Normae de Indulgentiis”, N. 18).
II.
ƠN XÁ TỪNG PHẦN LÀ GÌ ?
Ân
xá được gọi là gọi là ơn xá từng phần (indulgentia partialis), nghĩa là ân xá
chỉ tha một phần hình phạt tạm thời phải chịu vì tội (GL 993; GLCG 1471; EI,
“Normae de Indulgentiis”, N. 2).
III.
ƠN TOÀN XÁ LÀ GÌ ?
Ân
xá được gọi là ơn toàn xá (indulgentia plenria), nghĩa là ân xá tha hoàn toàn
hình phạt tạm thời phải chịu vì tội (GL 993; GLCG 1471; EI, “Normae de
Indulgentiis”, N. 2).
IV.
CÓ THỂ LÃNH NHẬN ƠN TOÀN XÁ MỖI NGÀY KHÔNG ?
Mỗi
ngày, tín hữu có thể nhận được một ơn toàn xá khi làm những việc
đạo đức sau: [1] Viếng Mình Thánh Chúa ít nhất nửa tiếng đồng hồ (Enchiridion
Indulgentiarum [EI] (1999), “Concessiones” 7 § 1, 1°); [2] Đọc 50
kinh Mân côi trong nhà thờ, nhà nguyện, gia đình, tu viện hay cùng với hội đoàn
(EI, “Concessiones” 17 § 1, 1° et conc. 23 § 1); [3] Đọc Kinh Thánh
liên tục trong nửa tiếng đồng hồ với ý thức là đang đọc Lời Chúa (EI,
“Concessiones” 30); [4] Đi Đàng Thánh giá (EI, “Concessiones” 13,
2°). Ngoài ra, trong khá nhiều dịp đặc biệt như được ấn định trong Sổ bộ các Ân
xá: Quy chế và Ân ban [1999] (Enchiridion Indulgentiarum: Normae et
Concessiones), tín hữu cũng được lãnh nhận ơn toàn xá. Chẳng hạn dịp lãnh nhận
phép lành “Urbi et Orbi” của ĐGH; dịp tham dự tuần cấm phòng (tĩnh tâm) ba ngày
liên tiếp; dịp rước lễ lần đầu; dịp tham dự Thánh lễ mở tay (Thánh lễ Tạ ơn)
của tân linh mục…
V.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUNG ĐỂ LÃNH NHẬN ÂN XÁ LÀ GÌ ?
Đó
là những điều kiện sau:
[1]
Có ý định muốn lãnh nhận ân xá (có ý chung chung cũng đủ, hoặc ý thường kỳ tỏ ra một lần
mà không rút lại);
[2]
Thi hành những công việc như đã ấn định: xưng tội, rước lễ, và cầu nguyện theo
ý ĐGH. Việc xưng tội có thể thực hiện trước mấy ngày hoặc sau mấy ngày làm
việc có ân xá (nếu trong lòng không mắc hoặc vương vấn tội lỗi) và xưng tội một
lần thì đủ điều kiện để hưởng ơn toàn xá nhiều lần. Việc rước lễ thì nên
làm mỗi ngày (chính ngày) khi lãnh nhận ân xá. Tuy nhiên, Bản quyền địa phương
có thể miễn chuẩn việc rước lễ cho những người không thể tuân giữ được (ví dụ
như người bệnh, người ở xa nhà thờ). Việc cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng
cũng vậy, nên làm trong chính ngày muốn lãnh nhận ân xá, được diễn tả bằng
việc đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Kính Mừng là đủ, nhưng vì lòng đạo
đức mà đọc thêm những kinh khác cũng là điều tốt. Mỗi lần rước lễ và cầu nguyện
theo ý ĐGH thì chỉ được hưởng một ơn toàn xá (EI, “Normae de Indulgentiis”, N.
20).
[3]
Dứt lòng quyến luyến tội lỗi, dù là tội nhẹ.
CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÃNH NHẬN ÂN XÁ
LM. Giuse Phạm Đình Ái, S.S.S.
Trước hết, chúng ta cần phân biệt 2 cấp độ: ân xá nói
chung (ân xá từng phần/ơn Tiểu xá/ơn phần xá) và ân xá nói riêng (ơn Đại xá/ơn
toàn xá).[1]
1. Để được hưởng ân xá nói chung/ân xá từng phần/ân xá
bán phần/ơn Tiểu xá/ơn phần xá (indulgentia partialis), tín hữu cần đáp
ứng những đòi hỏi sau: (1) phải là người đã rửa tội, (2) không bị vạ tuyệt
thông, (3) sống trong tình trạng ân sủng ít là vào lúc kết thúc công tác phải
làm (Sổ Bộ Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban [=SBAX], “Quy Chế” N. 17 §
1;[2] Bộ
Giáo Luật [=BGL], số 996); (4) phải có ý định muốn thủ đắc ân xá; (5)
thi hành những công tác vào thời gian và theo cách thức mà giáo quyền đã định
(SBAX, “Quy Chế” N. 17 § 2; BGL 996).
2. Để được hưởng ơn Đại xá/ơn toàn xá/ân xá toàn phần (indulgentia
plenaria), ngoài những tiêu chuẩn nêu trên thì còn phải thêm những đòi hỏi
khác nữa, đó là: (6) xưng tội; (7) rước lễ; (8) cầu nguyện theo ý ĐGH; (9) dứt
bỏ lòng quyến luyến các tội, dù là tội nhẹ (SBAX, “Quy Chế” N. 20 § 1).
II. GIẢI THÍCH
TỪNG ĐIỀU KIỆN
Phải là người đã được rửa tội mới có thể lãnh nhận ân xá
vì Bí tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là cửa ngõ dẫn
các tín hữu đi vào đời sống thần linh và mọi Bí tích khác, giúp họ đến được với
kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo [=GLCG],
số 213). Thực vậy, toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Ki-tô hữu đều bắt
nguồn từ Bí tích Thánh Tẩy (GLCG 1266). Bí tích này chính là Bí tích đầu tiên
trong các Bí tích nhờ đó người dự tòng được tháp nhập vào trong Giáo Hội và rồi
được dự phần trong mầu nhiệm “các thánh thông công” (GLCG 1474-1477). Bởi vậy,
dẫu phép lành có thể ban cho cả các dự tòng, và hơn thế, cho cả các người ngoài
Công giáo (trừ khi Giáo Hội ngăn cấm), nhưng bất kỳ ai chưa chịu Phép Thánh
Tẩy, họ không thể lãnh nhận ân xá (BGL 1170); họ càng không thể lãnh nhận ơn
toàn xá với những đòi hỏi đi kèm vốn chỉ các tín hữu mới có thể thi hành
như xưng tội (Bí tích Hòa Giải) và rước lễ (Bí tích Thánh Thể).
Tín hữu không bị vạ tuyệt thông mới có thể lãnh nhận ân
xá bởi vì đây là hình phạt nặng nhất theo giáo luật trong đó
những người bị vạ này bị cấm nhận lãnh các Bí tích và hành xử một số tác vụ
trong Hội Thánh (GLCG 1463; BGL 1331). Thêm nữa, vạ tuyệt thông không loại trừ
trường hợp người bị vạ có thể ở trong tình trạng tội trọng, ngược lại với điều
kiện để tiếp nhận ân xá mà chúng ta nói ngay sau đây, đó là phải sống trong
tình trạng ân sủng.
3.
Sống trong tình trạng ân sủng ít là vào lúc kết thúc công tác phải làm
Tiêu chuẩn này có nghĩa là tín hữu muốn lãnh nhận ân xá
phải ở trong tình trạng sạch tội trọng. Tình trạng ân sủng hay đời sống ân
sủng của chúng ta sẽ bị tiêu tan hoàn toàn nếu phạm tội trọng. Trước
Thiên Chúa, ai dám tuyên bố mình công chính và vô tội. Vì thế, điều kiện này
không đòi người ta phải sạch tội trọng luôn luôn, mà chỉ cần sống trong ơn
nghĩa cùng Chúa vào lúc kết thúc công việc phải làm. Về vấn đề này, tín hữu
phải tránh 2 thái cực: một là quá tự phụ hay đánh lừa mình: coi mình chắc chắn
đang sống trong ơn nghĩa Chúa một cách dễ dãi; hai là “quá đỗi lo lắng” một
cách không chính đáng rằng mình đang lỗi phạm nghiêm trọng đến Chúa (GLCG
2092).
Ba điều kiện vừa nêu trên được gọi là những yếu tố nền
tảng cho việc lãnh nhận ân xá.
4.
Có ý định muốn lãnh nhận ân xá
Có nhiều cách thế khác nhau để diễn tả ý định muốn lãnh
nhận ân xá. Chẳng hạn chúng ta có thể thưa lên cùng Chúa lớn tiếng hay thầm thĩ
trong lòng về ước muốn này của mình. Thỉnh thoảng, chúng ta chỉ cần đơn giản
lặp lại như thế để làm mới lại ý định muốn lãnh nhận ân xá. Ý định ở đây có thể
là có ý chung chung cũng đủ, hoặc ý thường kỳ tỏ ra một lần mà không rút lại.[3] Tốt
nhất, chúng ta nên bày tỏ ý định chung chung này vào giờ cầu nguyện ban sáng
hầu có thể lãnh nhận tất cả mọi khả thể ân xá mỗi ngày. Ý định này là một cách
thức quan trọng cho thấy chúng ta muốn hợp tác với Thiên Chúa trong kế hoạch
cứu độ của Người. Nó cũng dẫn đưa chúng ta vào trong mối tương quan con thảo
với Mẹ Hội Thánh một cách ý thức hơn.[4]
5.
Thi hành những công tác như đã ấn định
Nói một cách một cách đầy đủ hơn như trong Bộ
Giáo Luật (số 996): “để đương sự có năng cách được thực thụ hưởng ân
xá, cần phải […] thi hành những công tác vào thời gian và theo cách thức mà
giáo quyền đã định.” Những công tác và cách thức được giáo quyền ấn định nằm
trong Sổ Bộ Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban có thể là đọc một
kinh nào đó hay thi hành một việc đạo đức nào đó, nhưng cũng có 4 ơn Tiểu xá
không đòi hỏi gắn liền với công tác cụ thể nào.
a. Ơn Tiểu xá không đòi hỏi gắn liền với công tác cụ thể
nào (SBAX, “Bốn Ân Ban Nói Chung” [Quattuor Concessiones Generaliores] I,
II, III, IV):
- Khi chu toàn bổn phận và chịu đựng những gánh nặng của
cuộc đời, người tín hữu hướng tâm hồn lên Chúa với lòng tin tưởng và khiêm tốn,
thầm thỉ xin Ngài giúp đỡ (Ibid., I).
- Khi do đức tin thúc đẩy, người tín hữu hiến dâng bản
thân hay tài sản để giúp đỡ những anh chị em thiếu thốn (Ibid., II).
- Khi vì tinh thần thống hối, người tín hữu tự nguyện
khước từ những điều hợp pháp và làm họ vui thích (Ibid., III).
- Khi tự ý làm chứng đức tin trước mặt người khác, trong
những hoàn cảnh đặc biệt của cuộc sống ((Ibid., IV).
b. Ơn Tiểu xá gắn liền với công tác cụ thể (chỉ nêu một
số):
- Những kinh nguyện kèm theo ơn Tiểu xá: Kinh Đền Tạ
Thánh Tâm Chúa Giêsu “Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu
dấu loài người quá bội...” (đọc ngoài ngày Lễ Trọng Kính
Thánh Tâm Chúa) (x. Sổ Bộ Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban, “Các
Ân Ban Khác” (Enchiridion Indulgentiarum: Normae et Concessiones, “Aliae
Concessiones”, 3); Kinh Tạ Ơn Sau Khi Rước Lễ/Kinh Rước Lễ Thiêng
Liêng (Ibid., 8 § 2); Kinh Ăn Năn Tội/Kinh Cáo Mình (Ibid., 9 § 2); Kinh Mân
Côi [không ở trong nhà thờ/nhà nguyện, không ở trong gia đình/Tu
hội/Hội đoàn, không ở trong các nhóm hội họp cầu nguyện] (Ibid., 17 §
1); Kinh Ngợi Khen “Magnificat” (Ibid., 17 § 2); Kinh Thiên Thần Bản
Mệnh/Hộ Thủ (Ibid., 18); Kinh Ông Thánh Giuse “Lạy ơn Ông Thánh Giuse,
chúng con chạy đến cùng người...” (Ibid., 19); Kinh
kính nhớ vị Thánh theo Lịch Phụng vụ (Ibid., 21); Các Kinh Cầu Chúa
Giêsu (= Kinh Cầu Tên Rất Thánh Đức Chúa Giêsu; Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa
Giêsu; Kinh Cầu Máu Thánh Châu Báu Đức Chúa Giêsu Kitô)/Kinh Cầu Đức Bà/Kinh
Cầu Thánh Giuse/Kinh Cầu Các Thánh (Ibid., 22 § 2); Kinh khởi đầu và kết
thúc một ngày/Kinh khởi đầu và kết thúc một việc/Kinh trước và sau
bữa ăn (Ibid., 26 § 2-3); Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ/Kinh Tin Kính
Công Đồng Nicea-Constantinopoli/Kinh Tin, Cậy, Mến (Ibid., 28 § 2)
- Việc làm cụ thể: Viếng Thánh Thể (dưới nửa giờ)
và đọc Kinh Kính Mình Thánh Chúa [ví dụ: Tantum ergo…] (Ibid., 7);
Kính cẩn dùng các vật dụng tôn giáo đã được linh mục/phó tế làm phép
(Ibid., 14); Cầu nguyện thầm thĩ cách sốt sắng (Ibid., 15); Lặp lại
lời hứa Phép Rửa tội của mình với bất cứ công thức nào [không vào
ngày kỷ niệm Rửa Tội và không phải trong Lễ Vọng Phục Sinh] (Ibid.,
28 §2, 1); Làm Dấu Thánh Giá cách trang trọng và đọc: Nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần. Amen (Ibid., 28 § 2, 2), v.v...
Lưu ý 1: Tuy là những lời
kinh và công việc đơn giản, nhưng vẫn đòi hỏi chúng ta thi hành một cách đúng
đắn, không qua loa cũng không nên lơ là hay xem thường.
c. Để được hưởng ơn toàn xá, Sổ Bộ Các Ân Xá: Quy
Chế Và Ân Ban [ấn bản 1999]” liệt kê nhiều trường hợp, nhưng ở đây chỉ
nêu các lời kinh và việc làm/dịp quen thuộc:
- Kinh nguyện: Kinh Dâng Loài Người Cho Chúa Kitô Vua
[cách công khai, trong ngày Lễ Trọng Kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ] “Lạy
Đức Chúa Giêsu rất êm ái dịu dàng là Đấng đã chuộc tội loài người
ta... (Ibid., 2); Kinh Đền Tạ Thánh Tâm Chúa [trong ngày Lễ
Trọng Kính Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu] “Lạy Đức Chúa Giêsu rất
nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội…(Ibid., 3); Sốt
sắng đọc Kinh Mân Côi trong nhà thờ, nhà nguyện, trong hội dòng, gia
đình, với hội đoàn tín hữu, hoặc với một nhóm tín hữu, hoặc với ĐGH
qua phương tiện truyền thông phát thanh/truyền hình [Chỉ năm chục cũng
được, nhưng phải đọc liên tục, không cách quãng] (Ibid., 17 § 1,1; § 2);
Sốt sắng đọc hoặc hát Kinh Te Deum vào ngày cuối năm (Ibid., 26 §1,2),
v.v...
- Việc làm/dịp đặc biệt: Đón nhận Phép lành Tông Tòa
với ơn toàn xá của Đức Thánh Cha (Benedictio Papalis) cho Rôma và
Thế giới (Urbi et Orbi), một cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua
truyền hình/truyền thanh, vào những dịp trọng đại [chẳng hạn như dịp Lễ
Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, nhân dịp đăng quang Giáo hoàng hay Năm Thánh…].
(Ibid., 4); Tham dự thánh lễ trong đó Đức Giám mục chính tòa ban Phép lành Tòa
Thánh với ơn toàn xá ba lần một năm vào các dịp lễ trọng đặc biệt mà ngài chỉ
định (Ibid., 7 § 2; Sách Lễ nghi Giám mục, các số 1122-1126); Tham
dự thánh lễ trong đó Tòa Ân Giải Tối Cao ra Sắc lệnh cho phép ban Phép lành Tòa
Thánh với ơn toàn xá kèm theo [theo thỉnh nguyện]; Chầu Mình Thánh Chúa ít
nhất nửa giờ (Ibid., 7 § 1,1); Sốt sắng hát Tantum Ego (Đây Nhiệm
tích ...) sau Lễ Tiệc Ly Thứ Năm Tuần Thánh [lúc cất
Mình Thánh Chúa cách trọng thể] (Ibid., 7 § 1,2); Tham dự Rước Kiệu
trọng thể Mình Thánh Chúa [vào ngày Lễ trọng Mình và Máu Chúa
Kitô] (Ibid., 7 §1,3); Ơn Toàn Xá được ban cho người rước lễ lần đầu và
những ai sốt sắng tham dự Thánh lễ này ( Ibid., 8); Tham dự trọn vẹn
ít nhất ba ngày tĩnh tâm (Ibid., 10); Sốt sắng suy tôn Thánh giá
trong nghi thức phụng vụ trọng thể Thứ Sáu Tuần Thánh (Ibid., 13 §1); Tự
mình viếng đủ 14 Chặng Đàng Thánh giá, suy niệm và đọc thành tiếng
lời nguyện ngắm có sẵn (Ibid., 13 § 2a); Ơn toàn xá cho linh mục
dâng Lễ Mở Tay và tín hữu sốt sắng tham dự Thánh Lễ ấy (Ibid., 27 §
1); Ơn toàn xá cho linh mục dâng Lễ kỷ niệm 25, 50, 60, 70 năm thụ phong
linh mục và tín hữu sốt sắng tham dự Thánh Lễ ấy (Ibid., 27 § 2);
Tuyên lại lời hứa Phép Rửa Tội trong Lễ Vọng Phục Sinh/trong ngày kỷ
niệm Rửa Tội ((Ibid., 28 § 1); Viếng đất thánh vào bất cứ ngày nào từ
1 đến 8 tháng 11 và cầu nguyện cho người qua đời ((Ibid., 29 § 1,
1); Kính viếng Nhà thờ hoặc Nhà nguyện vào ngày Lễ Các Đẳng Linh
Hồn, đọc một Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính ((Ibid., 29 § 1, 2); Đọc Kinh
Thánh ít nhất nửa giờ [với sự kính trọng Lời Chúa, như đọc sách
thiêng liêng] (Ibid., 30 §1) - Nếu có lý do chính đáng không
thể đọc được, thì có thể nghe người khác đọc, hoặc nghe qua máy
phát thanh hay phát hình ((Ibid., 30 § 2), v.v...
Lưu ý 2: Trong khi hầu hết
các ân xá, cả ơn Tiểu xá lẫn ơn toàn xá, đều được lãnh nhận qua đọc kinh hay
thi hành một công tác đạo đức nào đó như phần việc của ân xá, nhưng để hưởng ơn
toàn xá thì Hội Thánh đòi hỏi những lời kinh và công tác thêm vào mà thường
được gọi là “những điều kiện thông thường”. Những điều kiện thông thường chính
là: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐGH:
Việc xưng tội ở đây được hiểu là trực tiếp đến tòa giải
tội để lãnh nhận Bí tích Giao hòa (SBAX, “Quy Chế” N. 20 § 2). Dẫu
rằng việc ăn năn tội cách trọn rất đáng ca ngợi, nó giúp chúng ta chống lại
khuynh hướng nghiêng về đàng tội, và khi được thực hiện với lòng thành, sẽ làm
tâm hồn chúng ta trở nên trong trắng,[5] nhưng
hành vi này không đáp ứng yêu cầu là lãnh nhận Bí tích Hòa Giải thì mới được
hưởng ơn toàn xá. Thời điểm xưng tội có thể diễn ra trước hoặc sau dịp lãnh
nhận ân xá vài ngày (SBAX, “Quy Chế” N. 20 § 3). Chính hạn
từ “vài ngày” dẫn đến sự cắt nghĩa chủ quan và sai chệch của một số người
về thời hạn xưng tội. Chúng ta phải dựa vào hướng dẫn của Hội Thánh: Trước
đây, luật cũ định là trước hoặc sau 8 ngày (BGL [1917] 931 § 1). Còn theo chỉ
dẫn của Tòa Ân Giải Tối Cao hiện nay, việc xưng tội phải diễn ra “trong vòng
khoảng 20 ngày trước hoặc sau hành vi lãnh nhận ân xá”.[6] Như
vậy, những ai xưng tội hằng tháng coi như đã thỏa mãn đòi hỏi này vì trước hoặc
sau 20 ngày của hành vi lãnh nhận ân xá sẽ lên đến 40 ngày, tức là đủ điều
kiện về xưng tội để lãnh ơn toàn xá cho mọi ngày.
Thứ nhất, rước lễ ở đây phải là rước lễ Bí tích chứ không
phải rước lễ thiêng liêng. Thứ hai, không phải là rước lễ cách bất xứng/phạm
thánh, nhưng là rước lễ trong tình trạng ân sủng (GLCG 1385, 1475) “Ai ý thức
mình phạm tội nặng và chưa xưng tội trước, thì không được làm lễ và không được
rước lễ, trừ khi có lý do quan trọng và không có dịp tiện đi xưng tội. Trong
trường hợp này, họ phải tâm niệm về bổn phận thống hối trọn vẹn, bao gồm lòng
dốc quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể” (BGL 916). Thứ ba, tốt nhất là việc
rước lễ được thực hiện mỗi ngày/cùng ngày khi lãnh nhận ân xá.[7] Tuy
nhiên, cũng như việc xưng tội, thời điểm chịu lễ có thể diễn ra trước hay sau
hành vi/dịp được ơn toàn xá một số ngày, theo quyết định của Tòa Ân Giải Tối
Cao hiện nay, là trong vòng khoảng 20 ngày trước hoặc sau hành vi/công việc kèm
theo lãnh nhận ân xá.[8]
Lưu ý 3: Bản quyền địa
phương có thể miễn chuẩn việc xưng tội và rước lễ cho những người không thể
tuân giữ được vì những lý do bất khả kháng (chẳng hạn như ở quá xa nhà thờ,
hoặc đau ốm bệnh tật…). Những người này phải dốc lòng ăn năn tội, cùng có ý
hướng xưng tội và rước lễ sớm nhất có thể (SBAX, “Quy Chế” N. 25).
8.
Cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng
Đối với điều kiện này, thứ nhất, chúng ta không cần thiết
phải biết tường tận và chi tiết ý nguyện của ĐGH là gì; thứ hai, Sổ Bộ
Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban hướng dẫn rõ rằng cầu nguyện theo ý ĐGH
được diễn tả bằng việc đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng là đủ, nhưng
vì lòng đạo đức mà đọc thêm những kinh khác cũng là điều tốt (SBAX, “Quy Chế” N.
20 § 5); thứ ba, hiện nay Hội Thánh không đòi hỏi một tư thế đặc biệt nào khi
đọc kinh cầu nguyện theo ý ĐGH nữa.[9]
Lưu ý 4: “Quy Chế”
số N. 19 trong “Sổ Bộ Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban” cho biết: Việc làm để
lãnh ơn toàn xá liên hệ tới nhà thờ hay nhà nguyện thì gồm hành
vi kính viếng nhà thờ/nhà nguyện, đồng thời nguyện cầu một
Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, trừ khi có chỉ dẫn khác. Đây là
việc làm được chỉ định của ơn toàn xá. Còn việc cầu nguyện theo ý
ĐGH thì vẫn phải thi hành, không nên hiểu cách khác và không được tự
miễn. Nhiều người nhầm lẫn việc cầu nguyện theo ý ĐGH là đọc Một Kinh
Lạy Cha và một Kinh Tin Kính. Trong tất cả các ấn bản của cuốn “Sổ Bộ
Các Ân Xá: Quy Chế Và Ân Ban” được công bố/xuất bản sau Công Đồng Vatican II
(lần thứ I vào tháng 6/1968; lần thứ II vào tháng 10/1968; lần thứ III vào năm
1986 (18/05/1986) và lần thứ IV vào năm 1999 (16/07/1999), không có bản văn
nào ghi rằng cầu nguyện theo ý ĐGH thì đọc một Kinh Lạy Cha và một
Kinh Tin Kính cả, nhưng đều ghi là được hoàn thành bằng việc đọc một Kinh
Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng.[10]
Lưu ý 5: Ba điều kiện
xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐGH, có thể làm trước, hoặc
sau mấy ngày của ngày làm việc có ơn toàn xá. Tuy nhiên, Rước Lễ và
cầu nguyện theo ý ĐGH nên cùng ngày với ngày làm việc của ơn toàn xá
(SBAX, “Quy Chế” N. 20 § 3). Nếu việc thực hiện ơn toàn xá thiếu hoàn
hảo, hoặc nếu việc làm và ba điều kiện vừa nêu không trọn vẹn, thì
chỉ còn là ơn Tiểu xá/ơn phần xá (Ibid., N. 20 § 4). Chi một lần xưng tội
là đủ cho việc lãnh nhận một số các ơn toàn xá, còn rước lễ và cầu nguyện
theo ý ĐGH thì phải thực hiện cho mỗi lần lãnh ơn toàn xá (Ibid., N. 20 § 2).
Nhưng vì tín hữu được phép rước lễ 2 lần/ngày (BGL 917) và thời điểm rước lễ
có thể diễn ra trước, hoặc sau 20 ngày của ngày làm việc có ơn toàn
xá, nên mặc dù chỉ được lãnh nhận một ơn toàn xá mỗi ngày, chúng ta có thể áp
dụng lần rước lễ thứ hai cho lần lãnh nhận ơn toàn xá khác.[11]
9.
Dứt bỏ lòng quyến luyến các tội, dù là tội nhẹ
Đây là đòi hỏi được xem là khó khăn nhất trong tất cả
những điều kiện cần thiết để hưởng ơn toàn xá. Cần lưu ý rằng thoát khỏi mọi
tội lỗi và dứt bỏ lòng quyến luyến các tội là hai điều rất khác nhau. Dứt bỏ
lòng quyến luyến các tội không phải là thoát khỏi mọi tội, mà là không có tội
nào mà linh hồn không muốn xa tránh hoặc không sẵn sàng từ bỏ chúng. Người
dứt bỏ lòng quyến luyến các tội vẫn có thể phạm tội,[12] điều
quan trọng là tỏ ra thực sự ghét tội, thực lòng sám hối ăn năn lập tức về những
yếu đuối tội lỗi của mình, kể cả những tội nhẹ nhất, tìm kiếm và đón nhận ơn
tha thứ của Chúa. Dứt bỏ lòng quyến luyến các tội không chỉ dừng lại ở
cam kết và tìm cách tránh xa tội lỗi, dù là tội nhẹ, vì chúng chống
lại sự thiện hảo vô cùng của Thiên Chúa. Đó chỉ là bước đầu. Dứt bỏ lòng
quyến luyến các tội đòi hỏi phải loại trừ mọi nuông chiều hướng về tội và không
tự mở đường cho tội hoành hành dưới bất cứ điều kiện nào. Tất cả hành xử này
phát xuất từ lòng kính sợ Chúa, ước muốn làm đẹp lòng Chúa, khao khát phụng
sự Chúa mạnh mẽ đến độ vượt lên trên sức hút của cám dỗ phạm tội,
và không muốn bản thân quay về với đường xưa lỗi cũ mà làm mất lòng Chúa nữa.[13] Khi
gặp cám dỗ, nếu đầy quyết tâm và nhiều kháng cự, thì với ơn Chúa giúp, cám
dỗ sẽ bị trục xuất. Đó là sự thể hiện lòng không quyến luyến với tội
lỗi.[14] Tóm
lại, mặc dù vẫn có thể phạm tội, hoặc bị nghiêng chiều về tội lỗi thường
xuyên, nhưng bao lâu tâm hồn không dính mắc vào tội lỗi hoặc không còn mong
muốn phạm tội với động cơ là kính mến Chúa trên hết mọi sự, chúng ta
được coi là dứt bỏ lòng quyến luyến các tội.
“Chính Hội Thánh ban phát ân xá. Nhờ quyền cầm buộc và
tháo cởi do Ðức Ki-tô ban, Hội Thánh chuyển cầu cho người Ki-tô hữu và mở cho
họ kho tàng công phúc của Ðức Ki-tô và các thánh để Chúa Cha nhân từ tha cho họ
những hình phạt tạm phải chịu vì tội. Như thế, Hội Thánh chẳng những muốn nâng
đỡ người tín hữu, mà còn khuyến khích họ làm những việc đạo đức, thống hối và
bác ái” (GLCG 1478). Vậy chúng ta hãy cố gắng tìm cách thường xuyên
lãnh nhận ân xá cho mình và cho người khác hầu vừa tiến nhanh trên đường
trọn lành vừa tỏ tình bác ái với tha nhân: một trong những cách chúng ta có
thể giúp những tín hữu đã qua đời là nhờ các ân xá để họ được tha các hình phạt
tạm thời nơi thanh luyện (GLCG 1479).
[1] Xc. Phan Tấn
Thành, Giải Thích Giáo Luật, Quyển 4: Nhiệm Vụ Thánh Hóa Của Giáo Hội (Rôma,
1992), 255-56.
[2] Enchiridion
Indulgentiarum: Normae et Concessiones Quarta editio (Citta del
Vatican: Libreria Editrice Vaticana, 1999).
[3] Frederick R.
McManus, “The Sacrament of Penance”, trong New Commentary on the Code of Canon
Law, eds. John P. Beal et als. (NY/NJ: Paulist Press, 2000), 1177.
[4] Xc. Edward
Peters, A Modern Guide to Indulgences (Chicago: HillenbrandBooks/LTP, 2008),
37.
[5] ĐGH Phanxicô,
“Bài giảng Thánh lễ hằng ngày” Thứ Sáu tuần III Mùa
Chay” (20/03/2020).
[6] Apostolic
Penitentiary (Cardinal William Wakefield Baum), “The Gift of The
Indulgence” (29/01/2000), https://www.vatican.va/roman_curia/tribunals/apost_penit/documents/rc_trib_appen_pro_20000129_indulgence_en.html.
[7] Xc. Edward
McNamara, “Ways to Gain an Indulgence,” The ZENIT Daily Dispatch
© Innovative Media, Inc. (20 JUNE 2017), https://www.ewtn.com/catholicism/library/ways-to-gain-an-indulgence-4857; Enchiridion
Indulgentiarum: Normae et Concessiones, N. 20 § 3.
[8] Apostolic
Penitentiary, “The Gift of The Indulgence” (29/01/2000).
[9] Seraphinus de
Angelis, De Indulgentiis: Tractatus qoad earum naturam et usum, 2d ed. (Citta
del Vatican: Libreria Editrice Vaticana, 1950), no. 94.
[10] Enchiridion
Indulgentiarum (1968), N. 29; Enchiridion Indulgentiarum (1986), N. 23;
Enchiridion Indulgentiarum (1999), N. 20 § 5.
[11] Xc. Peters, A
Modern Guide to Indulgences, 40.
[12] Xc. Cardinal
Alexis Henri Marie Lepicier, Indulgences, Their Origin, Nature, And
Development (Andesite Press, 2017), 343.
[13] Xc. Apostolic
Penitentiary (Cardinal James Francis Stafford), “The Gift of An Indulgence
During The "Year of The Eucharist" (25/12/2004), https://www.vatican.va/roman_curia/tribunals/apost_penit/documents/rc_trib_appen_doc_20041225_miraculorum-maximum_en.html.
[14] Xc. Peters, A Modern Guide to Indulgences, 42-43; McNamara, “Ways to Gain an Indulgence,” The ZENIT Daily Dispatch © Innovative Media, Inc. (20 JUNE 2017), https://www.ewtn.com/catholicism/library/ways-to-gain-an-indulgence-4857.