VẤN NẠN SỰ DỮ
TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Trình bày: LM. Phanxicô X. Trần Văn Quảng, C.Ss.R.,
Ph.D.
[Lời ngỏ: Quý vị
thân mến, quý vị đang cầm trên tay những trang tài liệu bàn về vấn nạn sự dữ. Tài liệu này nằm
trong chương 6 của giáo trình Triết học Tôn giáo. Vì chương này được soạn cho lớp học và có tính liên tục của
giáo trình, nên có những chỗ
cần được đặt trong bối cảnh của toàn thể khoá học. Tuy nhiên, mỗi chương bàn một
vấn đề độc lập và riêng lẻ, do vậy, thiết tưởng, những trang này mang lại lợi
ích cho những ai muốn tìm hiểu về vấn nạn sự dữ một cách tổng quan. Ước mong thế.]
Thượng Đế[1]
muốn ngăn chặn sự dữ, nhưng không thể?
Vậy, Ngài bất lực.
Nếu Ngài có thể, nhưng Ngài không muốn?
Vậy, Ngài ác.
Ngài vừa có thể, vừa muốn?
Vậy, sự dữ ở đâu ra?
Epicurus (341-270 BC)[2]
I. TỔNG
QUAN VỀ VẤN ĐỀ SỰ DỮ
Dẫn nhập
John Stott đã nói rằng “sự kiện
về đau khổ rõ ràng gây nên một thử thách lớn nhất cho đức tin người Kitô hữu.”
Nhìn vào thực tế cuộc sống và lịch sử, không có trở ngại nào cho niềm tin hữu
thần lớn hơn là vấn đề về sự dữ và đau khổ. Tại sao một thế giới Thần Linh tốt
lành lại chấp nhận cho thế giới thọ tạo của Ngài, và ngay cả con cái của Ngài,
phải chịu đau khổ như vậy? Trước hết, chúng ta cần phân biệt, sự dữ được phân
chia làm hai loại chính: sự dữ luân lý và sự dữ tự nhiên.
Sự dữ luân lý là do những
hành động có ý thức tự do của con người, như giết người, hãm hiếp và ăn trộm. Sự
dữ thiên nhiên là hậu quả của
những chuyển biến thiên nhiên như động đất, lũ lụt mà luôn bị coi như điều không tốt đã xảy ra. Dĩ nhiên, đôi
lúc lại pha lẫn cả hai, thí dụ lũ lụt làm chết người là vì không chuẩn bị kỹ
càng hoặc xây nhà cách cẩu thả.
Chúng ta cũng cần phân biệt
hai hướng nhìn vào sự dữ và đau khổ khác nhau: triết học và tôn giáo. Thứ nhất
là về phương diện tôn giáo hay cảm xúc của vấn đề sự dữ. Vấn đề sự dữ theo hướng
nhìn của các tín hữu đang bị thử thách nặng nề về đức tin. Làm sao tôi có thể
yêu và tôn thờ vị Thần Linh khi Ngài để tôi phải chịu đau khổ như vậy? Để có
câu trả lời cho vấn nạn này, thì người tín hữu phải dựa vào chân lý đã được viết,
mặc khải trong các sách được mặc khải của tôn giáo
họ. Chẳng hạn đối với Kitô hữu thì tìm trong Kinh Thánh.
Thứ hai về phương diện triết
học, với tư cách người hữu thần, người có niềm tin tôn giáo, thì ở đây chúng ta
dùng luận lý để giải thích vấn đề sự dữ, cách nào đấy đang hộ giáo. Đây là vấn
đề sự dữ theo quan điểm của những người hoài nghi. Các “hoài nghi gia” không chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế, vì nếu
Ngài hiện hữu, thì tại sao để cho sự dữ xảy đến. Để trả lời cho biện luận này,
ta phải sử dụng luận lý và bằng chứng để “trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm
hy vọng của anh em” (1 Pr 3:15). Trong chương này, chúng ta tập trung vào
phương diện thứ hai, phương diện triết học của vấn đề sự dữ.
Vấn đề tổng quát về sự dữ và sự hiện hữu
Những người vô thần và những
người theo thuyết bất khả tri thường lý luận rằng, sự hiện hữu của sự dữ như bằng chứng cho sự vắng
mặt của Thượng Đế. Vì sự có mặt của sự dữ, nên họ nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng
Đế, nếu không muốn nói là phủ nhận. Bởi vì có sự dữ, nên những người “chẳng có
thần thánh gì” (atheologians), những người chống lại sự hiện hữu của Thượng Đế,
đã cố gắng trưng ra và phủ nhận tất cả những bằng chứng tích cực nào có để giải
thích, chứng minh về sự hiện hữu của Thượng Đế. Họ đã cố gắng tìm lý lẽ phản biện
và cho rằng việc tin vào Thượng Đế là vô lý. Tuy nhiên, mặc cho những người “chẳng
có thần thánh gì” tìm cách phủ nhận, nhưng những luận lý truyền thống dường như
càng chắc chắn hơn, vẫn hợp lý trí tự nhiên qua mọi thời đại.
Vấn đề sự dữ nảy sinh từ sự
căng thẳng rất rõ ràng, điều này được khởi đi từ vấn đề: giữa một bên là sự hiện
hữu của sự dữ và những thuộc tính của Thượng Đế như toàn năng, toàn tri, và trọn
tốt trọn lành. Chúng ta khởi đầu tìm hiểu, trình bày vấn đề sự dữ trên bình diện
logic theo truyền thống Do Thái-Kitô
giáo để đưa ra một luận chứng mà những người theo chủ nghĩa hoài nghi, hay những
người chống đối hữu thần đưa ra để chống lại sự hiện hữu của Thượng Đế.
1. Thượng Đế là Đấng toàn
năng, và Ngài là Đấng toàn tri.
2. Thượng Đế là Đấng trọn tốt
trọn lành.
3. Sự dữ hiện hữu.
Mâu thuẫn nảy sinh như sau: Nếu
Thượng Đế là trọn tốt trọn lành, thì dường như Ngài không muốn sự dữ có mặt, và
bởi vì Ngài toàn tri, nên ngài phải biết những gì xảy ra, vậy tại sao Ngài cho
phép sự dữ xảy ra? Tại sao Ngài không tạo ra một thế giới tốt hơn, một thế giới
không có sự dữ, và nếu không thì ít ra cũng phải là một thế giới ít sự dữ hơn
thế giới này? Trong lịch sử nhân loại, nhiều người đã đưa ra nghịch lý, nhưng
có lẽ người đầu tiên, mà chúng ta còn biết, đã lập luận rất rõ ràng là
Epicurus. Triết gia cổ đại đã đưa ra vấn đề không chỉ là một nghịch lý nhưng
còn là một sự mâu thuẫn rõ ràng, bởi vì ẩn chứa những tiền đề không nhất quán với
nhau.
Ở dạng đơn giản nhất, vấn đề sự dữ là thế
này: Thượng Đế là toàn năng. Ngài trọn tốt, nhưng sự dữ hiện hữu. Chúng ta thấy
có mâu thuẫn giữa ba mệnh đề này. Vì thế, nếu hai trong số chúng là thật, thì mệnh
đề số ba sẽ là sai. Tuy nhiên, đồng thời tất cả ba mệnh đề này là những mệnh đề
nền tảng của hầu hết các quan điểm thần học, nên dường như các thần học gia
ngay lập tức phải tuân theo và không thể tuân thủ một cách nhất quán
đối với cả ba mệnh đề.[3]
Nếu Mackie và nhiều người
khác là đúng, thì hữu thần về mặt lý trí có nhiều vấn đề. Không ngạc nhiên khi
nhiều người cho rằng hữu thần là không nhất quán, nên cách tốt nhất là bác bỏ
hoàn toàn. Những người này lý luận như sau:
4. Nếu Thượng Đế (hữu thể toàn năng, toàn
tri, và trọn tốt trọn lành) hiện hữu, thì phải không có sự dữ (hoặc sự dữ không
tất yếu) trong thế giới.
5. Sự dữ hiện hữu (hoặc sự dữ không tất yếu)
trong thế giới.
6. Vì thế, Thượng Đế không hiện hữu.[4]
Vì theo truyền thống Do
Thái-Kitô giáo cho rằng Thượng Đế và sự dữ không thể cùng tồn tại. Sự tồn tại của
Thượng Đế, về mặt logic, loại trừ sự hiện hữu của sự dữ, và ngược lại. Nếu sự dữ
hiện hữu, thì ngay lập tức loại trừ những thuộc tính tất yếu của Thượng Đế.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể né
tránh kết luận này bằng cách thực hiện những quyền hợp logic để loại trừ hoặc để
sửa đổi bất cứ sự gì của những mệnh đề có vẻ xung đột ở trên (Thần học và triết học tiến trình sẽ giải
thích ở bên dưới).
Từ việc nêu lên mâu thuẫn ở
trên, chúng ta cần biết ngay từ đầu rằng một cách tổng quát, tư tưởng Phương
Tây đã phân biệt hai loại sự dữ: sự dữ thiên nhiên và sự dữ luân lý. Sự dữ
thiên nhiên hay “sự dữ bất thường” bao gồm những sự kiện khủng khiếp xảy ra
trong tự nhiên như động đất, bão tố, lốc xoáy, núi lửa, hay những bệnh tật tự
nhiên…etc., gây ra đau khổ cho con người, động vật, và thế giới thọ tạo. Sự dữ
luân lý bao gồm tất cả những sự xấu mà các thọ tạo phải hứng chịu trách nhiệm
luân lý. Tuy nhiên, một số người bảo vệ chủ thuyết hữu thần khẳng định rằng
trong tất cả các sự dữ, thì sự dữ mang tính luân lý là quan trọng hơn. Sự dữ
luân lý là do ma quỷ gây ra, và sự dữ luân lý là nguyên cớ cho sự dữ thiên
nhiên.
Những người hữu thần bảo vệ sự
hiện hữu của sự dữ là do sự tự do ý chí. Sự tự do ý chí đưa đến tiền đề số 4: Nếu
Thượng Đế (hữu thể toàn năng, toàn tri, và trọn tốt trọn lành) hiện hữu, thì phải
không có sự dữ (hoặc nếu có, sự dữ không tất yếu) trong thế giới.
Từ đó, các định đề 1 đến 3 là
nhất quán và không mâu thuẫn:
1. Thượng Đế là Đấng toàn năng, và Ngài là
Đấng toàn tri.
2. Thượng Đế là Đấng trọn tốt trọn lành.
3. Sự dữ hiện hữu.
Đưa đến định đề (7): Về mặt
logic, Thượng Đế không thể tạo ra những thọ tạo có ý chí tự do và chắc chắn rằng
các thọ tạo đó không bao giờ làm điều dữ.
Những người ủng hộ việc bảo vệ
sự tự do ý chí cho rằng tất cả các sự dữ luân lý bắt nguồn từ sự tự do ý chí của
các thọ tạo. Theo cách thức bảo vệ sự tự do ý chí, khả năng của hành động làm
sai là không thể tách rời khỏi việc tạo dựng những thụ tạo hữu hạn. Để nói rằng
Thượng Đế không nên tạo ra những hữu thể mà có khả năng phạm tội, đồng nghĩa với
việc nói rằng Ngài không nên tạo ra con người mà lại ban cho con người sự tự
do. Luận điểm này đã thách thức những người cho rằng không có sự mâu thuẫn nào
khi nói rằng Thượng Đế có thể đã tạo ra con người, với sự tự do đích thực,
nhưng cùng một thể con người phải được bảo đảm luôn luôn hành động đúng.
Nếu không có sự bất khả thể về mặt logic
trong việc một người tự do chọn lựa điều tốt trong một lần, hoặc một vài lần,
thì không thể có sự bất khả thể về mặt logic trong việc người ấy tự do chọn lựa
điều tốt trong mọi trường hợp. Từ đó, Thượng Đế không bị đối mặt với một sự chọn
lựa giữa việc làm ra những cỗ máy tự động vô tội và việc làm ra những con người,
người hành động tự do, sẽ đôi khi chọn lựa sai: có một khả thể rõ ràng tốt hơn
để tạo ra những hữu thể mà có hành động tự do nhưng luôn luôn hành động đúng.
Rõ ràng, sự thất bại của Ngài để tận dụng khả năng này của chính Ngài là không
nhất quán với hữu thể của Ngài vừa toàn tri và toàn thiện.[5]
Khi nói đến những hành động tự
do, chúng ta đề cập đến những hành động không bị ép buộc từ bên ngoài, nhưng
tuôn trào từ bản chất, từ yếu tính của các tác nhân khi chúng phản ứng lại trước
những hoàn cảnh mà chúng biểu tỏ chính chúng. Do đó, thật sự không có sự mâu
thuẫn nào giữa sự hiện hữu tự do và các hành động tự do của chúng ta khi được
nguyên nhân (bởi bản chất do Thượng Đế ban cho con người) và vì thế hiện hữu
theo nguyên lý có thể tiên đoán. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra rằng có sự
mâu thuẫn khi nói Thượng Đế là nguyên nhân hành động của chúng tavì chúng ta là
những hữu thể tự do, đặc biệt, trong tương quan với Thượng Đế. Mâu thuẫn giữa
việc cho rằng Thượng Đế dựng nên con người nhất thiết phải hành động theo một
cách chắc chắn và con người là những ngôi vị độc lập trong mối tương quan với
Thượng Đế. Nếu tất cả những suy nghĩ và hành động của chúng ta đã được tiền định
từ thiên ý, dù chúng ta có tự do và trách nhiệm thế nào, thì chúng ta dường như
để trở thành chính chúng ta, chúng ta không có tự do và trách nhiệm trước mặt
Thượng Đế. Tuy nhiên, thay vào đó, chúng ta là những con rối trước mặt Thượng Đế.
Sự tự do như thế có thể so sánh đối với các nạn nhân thực hiện một loạt những gợi ý khi bị thôi miên:
Chính họ xuất hiện dường như là tự do, nhưng ý chí của họ thực sự đã bị điều
khiển bởi ý chí của nhà thôi miên. Vì thế, cách nào đấy, những nạn nhân bị thôi
miên không thực sự là những người tự do. Có những người gợi ý rằng trong khi
Thượng Đế có thể đã tạo ra những hữu thể như thế, nhưng sẽ chẳng có ích gì khi
làm như vậy, ít nhất là không, nếu Thượng Đế đang tìm cách tạo ra con người hơn
là những con rối người.
Vì lẽ, khi tạo dựng nên các
thọ tạo với ý chí tự do, đây là một điều tuyệt vời, nhưng các thọ tạo này chỉ
trở nên tuyệt vời, khi dùng sự tự do của mình để đưa ra sự chọn lựa. Với sự tự
do chọn lựa của mình, các thọ tạo này không thể được bảo đảm chắc chắn rằng
chúng không làm sự dữ. Chúng không bị ép buộc (mặc dầu chúng có thể bị ảnh hưởng)
để làm điều này hơn điều kia. Chúng tự do để đưa ra hành động, nhưng chúng lại
không được tự do để đưa ra và đón nhận những hậu quả. Để là một người thực thụ,
nghĩa là phải để người ấy trở nên một trung tâm của sự tự do hữu hạn (a finite
center of freedom), một tác nhân tự định hướng tương đối, chịu trách nhiệm cho
những quyết định của chính mình. Sự tự do này liên quan đến sự tự do để chọn lựa
đúng cũng như sai. Con người có tự do để chọn lựa làm điều tốt hoặc điều xấu.
Với hai tình huống được cho
giống nhau với những tiền đề hậu quả giống nhau, một tác nhân có thể thực hiện
hành động A lúc này và hành động B lúc khác. Vì vậy, không có sự chắc chắn nào
để bảo đảm rằng, một tác nhân
tự do đích thật sẽ không bao giờ đưa ra một chọn lựa sai. Quan niệm này ngược với
thuyết định mệnh cũng như thuyết tương thích (một quan niệm cố gắng hài hoà sự
tự do hành động với thuyết định mệnh). Nếu một người dấn thân cho chủ thuyết định
mệnh hoặc chủ thuyết tương thích, việc bảo vệ sự tự do ý chí sẽ không có hiệu
quả chống lại luận lý từ sự dữ.
Tuy nhiên, làm thế nào để người
hữu thần giải thích sự dữ thiên nhiên? Có hai lối giải thích khác nhau. Đầu
tiên, những người này quy sự ác thiên nhiên do ma quỷ và các thiên thần. Thứ
hai, họ cho rằng sự dữ thiên nhiên là phần thuộc về bản chất của các sự vật hữu
hạn, là nguyên nhân từ sự kết hợp của những luật vật lý cố định mà cần thiết để
cho hành động nhất quán và trách nhiệm được trao cho con người để thực thi quyền
tự do của họ.
Có một giải pháp khả thi nữa,
được đưa ra bởi một số người Kitô hữu đương thời và có thể bị loại ngay bởi đức
tin truyền thống Do Thái-Kitô giáo, họ cho rằng sự dữ là ảo, và không thật của
tâm trí con người. Điều này là không thể xảy ra bên trong một tôn giáo được dựa
trên chủ nghĩa hiện thực rõ ràng của Kinh Thánh. Sự pha trộn các đặc tính giữa
sự thiện và sự ác trong kinh nghiệm con người được tìm thấy trong các trang
Kinh Thánh. Kinh Thánh đã tường thuật lại những đau khổ, buồn sầu, mọi tình trạng
“vô nhân đạo của con người đối với con người và sự tồn tại thiếu an toàn đau
thương trong thế gian. Không có bất cứ sự cố gắng nào đề cập đến sự dữ như là một
thứ gì đó, ngoại trừ như là bóng tối, sự xấu xa ghê tởm, đau lòng và vụn vặt.
Do vậy, không nghi ngờ gì nữa, niềm tin trong Kinh Thánh, sự dữ là thực hữu đích thật, mặc dầu chúng ta sẽ
tìm hiểu nó không phải là một hữu thể, và không hề là ảo ảnh.
Theo truyền thống Kitô giáo
đã đưa ra một số câu trả lời rất hợp lý trí tự nhiên về vấn đề sự dữ. Ở chương
này, xin dựa theo truyền thống triết học kinh điển Phương Tây để nhằm giúp
chúng ta có một lối nhìn hiểu đúng đắn về vấn đề sự dữ.
Thứ nhất, trả lời theo trường
phái Augustine, dựa trên quan niệm về sự sa ngã của con người đã mất đi tình trạng
công chính nguyên thuỷ.
Thứ hai, Thomas Aquinas, tiếp
tục những tư tưởng của Augustine.
Thứ ba, trả lời theo trường
phái của Irenaeus, dựa trên ý tưởng về sự việc sáng tạo tiệm tiến, phát triển dần
dần của một nhân loại được hoàn hảo thông qua việc sống trong một thế giới rất
không hoàn hảo.
Thứ tư, trả lời cho vấn nạn sự
dữ theo thần học và triết học TIẾN TRÌNH hay QUÁ TRÌNH, dựa theo tư tưởng về một
Thượng Đế, Ngài không toàn năng và không thể ngăn cản tất cả sự dữ hoặc phát
sinh trong nhân loại hoặc trong các quá trình tự nhiên. Thần linh và các thọ tạo
có tự do để sáng tạo, đẩy thế giới tiến về vĩnh cửu. Sự dữ nảy sinh do xung đột
hoặc bị lãng quên trong quá trình những sự hài hoà và những lực tương tác cố gắng
thực thi những sự vươn ra, hay đẩy mọi sự tiến lên.
Chúng ta lần lượt đi lược qua
bốn loại cố gắng để trả
lời vấn đề sự dữ này. Trước khi đi vào từng trường hợp suy tư cụ thể, chúng ta
cần hiểu biết căn bản định nghĩa về sự dữ.
Hiểu cơ bản về sự dữ
Để hiểu rõ những vấn đề liên
quan đến sự dữ, điều đầu tiên chúng ta cần nắm được định nghĩa hay bản chất của sự dữ là gì? Có hai điều
sai lầm phổ biến nhất về sự dữ làm cho vấn đề này vốn đã phức tạp, lại càng phức tạp hơn. Trước
tiên, sai lầm khi cho rằng, sự
dữ là một hữu thể, là một bản thể, và sự nhầm lẫn giữa hai loại sự dữ: thể lý
và luân lý.
Vấn đề đầu tiên, sự dữ không
phải là một thực tại, một hữu thể, một bản thể (ens). Tất cả mọi hiện hữu, mọi
vật, về phương diện siêu hình hay bản thể luận, đều là tốt vì chính sự hiện hữu
của sự vật đó. Tất cả mọi hữu thể sẽ phải bao gồm hoặc là Tự Hữu hoặc là thọ tạo
được dựng lên bởi Đấng Tự Hữu. Đấng Tự Hữu, tự bản chất Ngài là thiện tuyệt đối,
và các thọ tạo do Ngài dựng lên là tốt, là thiện. Do vậy, nếu sự dữ là hữu thể,
thì vấn đề sự dữ không thể giải quyết được. Vì lẽ, Thượng Đế tạo ra sự dữ, thì
Ngài không trọn tốt trọn lành, còn nếu Ngài không tạo nên sự dữ, mà sự dữ có mặt,
nên Ngài không toàn năng nữa. Từ đó, thiết yếu, sự dữ không phải là một hữu thể,
và một hữu thể không là sự dữ trong chính nó.
Chẳng hạn, một thanh kiếm,
thanh gươm không phải là sự dữ. Thậm chí, nhát gươm chặt đứt đầu bạn cũng không
phải là sự dữ trong hữu thể của nó. Thực ra, thậm chí, nếu thanh gươm không là
NHÁT gươm tốt, hoàn hảo, nó sẽ không chặt đứt đầu bạn. Vậy sự dữ nằm ở đâu? Sự
dữ nằm ở Ý MUỐN, lựa chọn, ý định, chuyển động trong tâm hồn khi một người ĐẶT
MỘT TRẬT TỰ SAI LẠC, CHỆCH HƯỚNG vào thế giới VẬT CHẤT của sự vật và các hành
vi. Trật tự trong trường hợp ví dụ cụ thể là trật tự giữa thanh gươm và cổ người
vô tội (sự dữ xảy ra) mà đáng lẽ phải là vào cái cổ của tên sát nhân hoặc người
bị án tử phải chém đầu (theo bản thể, sự dữ không xảy ra trong trường hợp này).
Thế nên mới có câu: để trở nên tồi tệ (xấu, mang tính sự dữ), trước tiên bạn phải
là thiện mang tính bản thể (To be morally bad, you must first be ontologically
good).
Sự dữ là có THẬT, nhưng sự dữ
không phải là một hữu thể thật. Nó không có tính chủ thể, bản thể, và nó cũng
không phải là một thực tại. [Evil is real, but it is not a real thing. It is
not subjective, but it is not a substance.] Sự dữ là sự khiếm khuyết sự thiện.
Sự dữ là tình yêu đặt sai thứ tự, ý chí không theo trật tự. Sự dữ là một tương
quan sai lạc, một sự không phù hợp giữa ý muốn của thọ tạo với ý muốn của Đấng
Sáng Tạo. Ngài không tạo ra sự dữ, và sự dữ do con người, hữu thể có ý chí tự
do tạo ra.
Thứ hai, nhầm lẫn nữa là thất
bại trong việc phân biệt giữa sự dữ thể lý và luân lý, giữa tội và đau khổ, giữa
sự dữ mà chúng ta chủ động làm và sự dữ mà chúng ta bị động đón nhận, giữa sự dữ
của tự do ý chí và sự dữ chống lại ý chí của chúng ta, giữa sự dữ chúng ta trực
tiếp chịu trách nhiệm về nó và sự dữ chúng ta không phải chịu trách nhiệm.
Chúng ta cần có hai cách giải thích khác nhau cho hai loại sự dữ này, cả về
phương diện nguyên nhân cũng như cách hoá giải.
Nguồn gốc của tội là ý chí tự
do của con người. Nguồn gốc trực tiếp của đau khổ là thiên nhiên, hay đúng hơn
là mối liên hệ giữa chúng ta và thiên nhiên. Chẳng hạn, chúng ta bị vấp, bị
viêm phổi, bị chết đuối. Vì thế, Thượng Đế không liên quan gì đến tội, nhưng
không phải không có đau khổ, trừ khi đau khổ cũng là do tội. Điều này có thể giải
thích trong Sáng Thế, chương 3, đổ mồ hôi, sôi nước mắt là do tội.
II. THẦN LÝ HỌC AUGUSTINE
Lời đáp trả đối với vấn đề sự
dữ theo truyền thống Kitô giáo được thánh Augustine (354–430 A.D.) giải thích.
Triết gia đã trở thành một người đóng vai trò chính cho tư tưởng Kitô giáo suốt
nhiều thế kỷ, mặc dầu thời gian gần đây tư tưởng của Augustine bị nhiều chỉ
trích cả trên bình diện thần học cũng như triết học. Thần lý học[6] của Augustine về sự dữ
xoay quanh ba câu hỏi: Bản chất của sự dữ là gì? Sự dữ do đâu mà có? Sự dữ được
tỏ lộ thế nào trong thế giới này?
Bản chất của sự dữ
Quan điểm chính yếu về bản chất
triết học của sự dữ là sự khiếm khuyết hay tính phủ định của sự hiện hữu.
Augustine cho rằng sự dữ không hiện hữu, vắng bóng hữu thể (absence of being).
Trong tác phẩm Enchiridion (Cẩm nang giáo thuyết Kitô giáo), viết
năm 423, Augustine khẳng định rằng “sự dữ không phải là một hữu thể hay một phẩm
tính hiện hữu độc lập, mà chỉ là sự khiếm khuyết sự thiện (absence of goodness)
nơi hữu thể.[7]
Sự dữ có thể được định nghĩa là “privatio boni” (khiếm khuyết sự thiện). Sự dữ
xuất hiện khi sự thiện nơi một thọ tạo, nơi một hữu thể bị hao hụt đi. Như thế,
sự dữ không phát sinh từ nơi Thượng Đế, nhưng xuất hiện do thọ tạo. Sự dữ,
chúng ta có hiểu nôm na, như những ký sinh trùng, chúng ăn bám vào hữu thể, và
sự dữ sẽ biến mất khi hữu thể đó chết đi. Tuy nhiên, chúng ta phải đồng ý với
nhau rằng, sự dữ, tuy không
là bản thể, không là hữu thể, nhưng sự dữ thực hữu, có thật, chúng chỉ hiện hữu
khi khiếm khuyết sự thiện, như bóng tối xuất hiện khi thiếu ánh sáng, nhưng tự
thân, sự dữ không là gì cả.[8]
Sự dữ do đâu?
Augustine bảo vệ mạnh mẽ niềm
tin Do Thái – Kitô giáo về việc vũ trụ được tạo dựng “tốt đẹp, ” vì lẽ mọi thọ
tạo được dựng nên bởi Thượng Đế tốt lành để hướng về một mục đích tốt lành. Vũ
trụ này có tính hướng đích, có nguyên nhân cứu cánh. Theo Augustine, có những sự
tốt lành cao hơn và thấp hơn, lớn hơn và ít hơn với sự đa dạng và phong phú
không giới hạn. Tuy nhiên, mọi sự hiện hữu là tốt lành trong chính mức độ và
cách thức của chính nó, ngoại trừ chừng nào hữu thể đó trở nên bị hư hỏng hoặc
bị lây nhiễm, biến dạng. Vì vậy, sự dữ không phải do Thượng Đế đặt để ở đó,
nhưng là sự biểu tỏ, hệ quả cho sự phát triển sai hướng của những hữu thể mà vốn
dĩ tự bản chất chúng là tốt lành. Trong tác phẩm De vera religione
Augustine giải thích rằng:
Dù ở mức độ nào, một hữu thể tự thân nó
luôn luôn là tốt lành… và bởi vì, dù có nhỏ bé đến mấy đi chăng nữa, mọi hữu thể
đều được tạo thành từ một mô thức nhất định. Mặc dù có ở mức độ thấp nhất, một
hữu thể sẽ luôn là một hữu thể tốt, vì nó hiện hữu là do Đấng Tạo Hoá. Thật vậy
và hiển nhiên về Đấng Tự Hữu, nếu Đấng Tạo Hoá, Đấng trọn tốt trọn lành, có mô
thể tối cao, thì mọi sự tốt lành hoặc là Ngài hoặc phát xuất từ Ngài. Do đó, phải
đồng ý và khẳng định rằng, thậm
chí mô thức thấp nhất cũng phải xuất phát từ Đấng Sáng Tạo (p. 105, MK).
Sự dữ không thể phát sinh từ
Đấng Tối Cao, vì sự dữ không phải là hữu thể. Sự dữ có là do sự lạm dụng ý chí
tự do, sử dụng ý chí tự do cách sai lạc.[9] Sở dĩ có sự dữ là một ước
muốn, ý chí xấu xa, một trường hợp bị tổn thương, hoặc bị rối loạn hoặc bị suy
thoái nào đấy trong bản chất. Augustine lấy sự mù loà làm ví dụ. Mù không phải
là “một thứ” hay một hữu thể. Mù chỉ liên quan đến mắt, là thứ tự bản chất của
mắt là tốt. Sự dữ của mù loà bao hàm sự thiếu một chức năng (function) thích hợp
của mắt. “Mắt tự bản chất của nó là tốt; sự dữ của sự mù loà hệ tại ở sự rối loạn
chức năng hoạt động đúng của mắt.” Sau này, thánh Maximus Tội Nhân đã đưa ra một
ví dụ rất thực tế:
Đồ ăn không xấu, nhưng thói tham ăn mới xấu.
Sinh con không phải là xấu, nhưng thực thi những hành vi gian dâm mới xấu. Tiền
bạc không xấu, nhưng lòng tham lam tiền bạc quá mức mới xấu. Ham vinh quang
không xấu, nhưng kiêu ngạo hay hám danh quá mức mới xấu. Quả vậy, không có sự dữ
hiện hữu trong các sự vật, nhưng chỉ là xấu xa khi sử dụng chúng sai cách.
Do vậy, nguyên lý tổng quát,
Augustine cho rằng sự dữ luôn luôn bao hàm sự trục trặc về chức năng của một hữu
thể nào đó mà tự bản chất nơi nó là tốt đẹp. Sự dữ hệ tại ở sự rối loạn chức
năng hoạt động của một sự vật nào đấy tự bản chất của nó là tốt. Sự dữ, chính bản
thân nó, hiện diện dưới hai hình thức như là sự đau khổ và tội lỗi. Hai hình thức
này có liên hệ mật thiết với nhau. Nguyên nhân của đau khổ là tội lỗi. Vì thế,
xét cho kỳ cùng, vấn đề của sự dữ được giảm thiểu xuống thành vấn đề tội lỗi.
Biểu lộ của sự dữ
Mọi loài thọ tạo được tạo
thành và xuất phát từ bàn tay nhân lành của Thượng Đế, nên vũ trụ này hoà hợp một
cách hoàn hảo như là chứng tỏ ý định sáng tạo của Thượng Đế. Vũ trụ này bao gồm
một trật tự được phân cấp theo thứ bậc cao thấp của các hình thức hiện hữu, mỗi
hữu thể hoàn thiện và tốt lành trong chính vị thế của riêng nó. Vậy sự dữ xuất
hiện thế nào? Hoặc có thể hỏi rõ hơn: hướng chiều về những thứ thiện hảo không
tuyệt đối (aversio) nảy sinh do đâu?
Từ sự tự do ý chí. “Male
facimus ex libero voluntatis arbitrio” (Con người làm điều dữ là do sự tự do của
ý chí). Nhưng, sự tự do ý chí có phải là một điều tốt không?
Augustine khẳng định ngay và
luôn rằng, tự do là một điều
tốt tự nơi bản chất của nó. Sự tự do là một điều tốt vượt lên trên những gì
trong tầm tay, trong khả năng của con người, vì lẽ sự tự do là điều kiện tiên
quyết để quyết định hành vi có tính luân lý. Nếu hành động của con người không
có sự tự do, thì hành vi đó hoặc là không được chấp nhận hoặc không bị phản đối.
Hành động chỉ là những gì nó là. Chỉ khi có sự tự do con người mới có thể nói về
thiện hoặc ác, tốt hoặc xấu. Hơn nữa, dù con người đưa ra chọn lựa nào, thì đều
hy vọng là tìm được hạnh phúc. Con người có khả năng hướng tình cảm của mình về
những thọ tạo hữu hạn: sự vật, người khác, hay chính mình, và xa rời Đấng Thiện
Hảo Tuyệt Đối. Augustine nói rằng “hành vi quay lưng này và sự quay lưng đi là
không bị ép buộc, nhưng là hành vi tự nguyện.”
Lúc khởi đầu, ở mức độ tổng
thể của vũ trụ, sự dữ liên quan đến ý chí tự do, sự tự do: Sự tự do của các
thiên thần và của con người. Một số thiên thần, thay vì quy hướng về Sự Tốt
Lành Tối Cao, Thượng Đế, đã quay sang những điều tốt lành ít hơn, thế nên mới
có những cuộc nổi loạn chống lại Đấng Sáng Tạo của họ. Rồi, các thiên thần sa
ngã này đã cám dỗ tổ tông loài người và con người đã sa ngã. Sự sa ngã của
thiên thần và con người là nguồn gốc của sự dữ luân lý hay tội. Từ sự sa ngã của
các thiên thần phản loạn và của tổ tông loài người, chúng ta có thể thấy sự biểu
hiện của sự rối loạn chức năng vốn phải có của sự vật. Các sự vật ở cấp bậc thấp
hơn nhận thức sự thấp kém của mình, thay vì thoả mãn và ca khen quyền năng Đấng
Tối Cao vì sự hiện hữu, có mặt của mình, nhưng chúng ý thức về sự thấp kém của
mình và coi đó là sự dữ.
Câu hỏi được đặt ra, tại sao Đấng Tối Cao không sáng tạo ra mọi
sự ở cấp bậc hoàn hảo nhất, không có chỗ cho sự khiếm khuyết xen vào?
Tự bản chất riêng lẻ của mỗi
hữu thể, chúng được sáng tạo hoàn hảo nhất trong chính nó. Theo Augustine: cần
có nhiều loại hữu thể được sáng tạo ở những cấp độ hoàn hảo khác nhau, nhờ đó
có sự phong phú và vẻ hoàn hảo nơi chính mỗi sự vật càng nổi bật. Thượng Đế là
sự thiện hảo tuyệt đối, nhưng sự thiện hảo của các loài thọ tạo chỉ là tương đối.
Chính vì sự tương đối của các thọ tạo là kẽ hở cho sự dữ xuất hiện.
Theo Augustine, những gì tốt
lành tương đối thì mới hư hỏng. Tốt lành tuyệt đối không thể hư hỏng được, và nếu
không có bất cứ sự tốt lành nào thì cũng không có sự hư hỏng. Không phải là hữu
thể thì không hư hỏng, nên một hữu thể mất đi hết sự thiện hảo thì ngay lập tức
nó hết hiện hữu. Bao lâu một hữu thể còn hiện hữu, thì bấy lâu nó vẫn còn tốt
lành. Do đó, đối với Augustine, sự dữ chỉ là cái gì tương đối trong sự vật
riêng lẻ và không ăn nhằm gì tới trật tự chung vẫn thật tốt lành.[10] Từ cách biểu lộ này,
Augustine đã giải thích những sự dữ thiên nhiên của bệnh tật, như những thứ dơ
bẩn, ký sinh trùng bám vào hữu thể hay như động đất, bão tố… etc là những hình phạt của tội lỗi. Con người được
dựng nên để bảo vệ, làm chủ trái đất, nhưng vì con người sa ngã đã khiến toàn bộ
thiên nhiên trở nên tồi tệ. Do đó, Augustine đã nói rằng “tất cả sự dữ hoặc là
tội, hoặc là những hình phạt
do tội.”[11]
Thiết tưởng ở đây chúng ta
cũng nên hiểu khái niệm tội lỗi là gì? Tội lỗi là sự phục tùng, sự chiều theo của
lý trí con người đối với đam mê, sự bất tuân Thiên luật, và xa rời những điều thiện hảo nhất. Khi một ai đó,
chính người ấy xa lánh khỏi những điều thiện thường hằng bất biến, thay vào đó,
hướng đến những điều tốt thấp hơn và cá thể, thì người đó phạm tội. Đó là sự dữ.
Augustine không đồng thuận với
Plato về nguyên nhân của sự dữ. Đối với Plato, sự dữ đơn giản chỉ là do sự thiếu
hiểu biết. Thật ra, với sự giới hạn của con người, trong nhiều hoàn cảnh, con
người không biết được sự tốt thiện hảo, và vì thế họ không ý thức về Thượng Đế,
thực tại tối cao, cái Thiện Tuyệt Đối. Tuy nhiên, trong những cư xử, hành động
thường ngày, Augustine nói rằng “ngay cả những phường vô đạo” cũng có khả năng
để “lên án và khen ngợi những điều trong cung cách ứng xử của con người.” Sự thật
quan trọng là trong cung cách ứng xử thường ngày, chúng ta hiểu và đưa ra những
lời khen chê chỉ vì chúng ta đã biết rằng, chúng ta có một nhiệm vụ phải làm những gì đáng
khen và tránh những gì đáng bị chê. Trong những cảnh huống này, tình trạng khó
xử của chúng ta không phải chúng ta không biết, thiếu hiểu biết, nhưng là chúng
ta phải đứng trước những chọn lựa. Chúng ta chọn lựa hướng lên hay hướng xuống?
Hướng về Thượng Đế hay xa rời Ngài.
Đau khổ [không nói đến sự chết]
là hậu quả của tội lỗi.[12] Sau khi phạm tội, con người
sống trong sợ hãi, lo âu triền miên. Những khát vọng và những lo lắng chồng
chéo lên nhau, tạo ra những sự căng thẳng miên trường. Con người đau khổ khi
chính họ đánh mất đi những thứ đem lại nguồn an ủi, vui tươi. Họ lo lắng tìm kiếm
những gì không thuộc về họ, nên họ phải chịu đựng triền miên những khó khăn, những
thiếu thốn, và ra công để tự thuyết phục chính mình, tự thoả mãn những thứ giả
tạo không thuộc về mình. Con người bị tra tấn, dày vò vì những tham vọng, ảo vọng
viển vông. Họ chìm đắm trong những đố kị và đam mê vô độ. Tất cả những điều này
xảy đến vì họ đánh mất sự khôn ngoan. Nguyên do sâu xa là con người đã không
tuân theo, đi theo sự hướng dẫn của trật tự linh thánh đã được cài đặt sẵn
trong vũ trụ, trong chính bản thân họ.[13]
Như đã nói, theo Augustine, sự
dữ hoặc tội là một kết quả của sự chọn lựa tự do sai của ý chí. Nó không giống
như Plato quan niệm là do sự thiếu hiểu biết, hoặc không như những người theo
giáo phái Manichee, là do nguyên lý của sự tối tăm đã thâm nhập vào thân xác. Bất
chấp do hậu quả của tội nguyên tổ để lại, chúng ta vẫn có khả năng để sử dụng sự
tự do của ý chí.
Ở đây cũng cần phân biệt sự tự
do ý chí (liberum) là không đồng nhất với sự tự do tinh thần (libertas/
spiritual freedom), vì sự tự do tinh thần đích thật không còn có thể thực hiện
trọn vẹn ở đời này. Chúng ta giờ sử dụng sự tự do ý chí để thực hiện chọn lựa
điều sai. Augustine còn lý giải thêm rằng, thậm chí khi chúng ta chọn lựa đúng,
chúng ta cũng không sở hữu sức mạnh thiêng liêng đủ để làm việc tốt mà chúng ta
đã đưa ra sự chọn lựa. Chúng ta cần phải có sự trợ giúp của ơn thánh sủng.
Trong khi sự dữ được gây ra bởi một hành động của sự tự do ý chí (liberum), thì
nhân đức lại không phải là sản phẩm của ý chí, nhưng là của ân sủng từ Thượng Đế.
Luật luân lý dạy chúng ta phải làm gì, nhưng cuối cùng nó thực sự tỏ cho chúng
ta, chúng ta không thể tự mình làm được. Vì thế, Augustine kết luận rằng “luật…
được ban nên ân sủng có thể được tìm kiếm. Ân sủng được ban nên luật có thể được
kiện toàn, được trọn vẹn.”
Cũng từ việc lý giải sự dữ chỉ
là cái gì tương đối trong sự vật riêng lẻ và không tác động gì lớn lao đến trật
tự chung vốn tốt lành nên đã có quan niệm giải thích sự hiện hữu của sự dữ theo
lối loại suy thẩm mỹ (aesthetic analogy). Vũ trụ nếu nhìn tổng thể cũng như một
bức tranh của Rembrandt. Tranh của ông nổi tiếng vì sử dụng kỹ thuật tương phản
giữa ánh sáng và bóng tối. Nên nếu vũ trụ có những tương phản là vì chúng ta
chưa đủ khả năng để hiểu thấu bức tranh vũ trụ như một tổng thể. Sở dĩ chúng ta
khó chịu vì một chi tiết cụ thể, là vì chúng ta thiếu cái nhìn tổng thể vốn đem
lại sự hài hoà cho một tổng thể. Tương tự, sự dữ làm toát ra vẻ rực rỡ của sự
thiện. Nó là phương tiện cần thiết để tạo ra sự hài hoà nào đấy của vũ trụ. Với
lối nhìn này, Augustine đã cho rằng tội lỗi hay sự dữ là cơ hội làm nổi bật lên
lòng nhân hậu và tình thương của Đấng Tối Cao (Ôi! Tội hồng phúc!). Do vậy, theo Augustine, Thượng Đế nhìn mọi
sự như một tổng thể thì luôn ở tình trạng hài hoà, trong đó, sự dữ chỉ mang màu
sắc riêng lẻ và tương đối. Sự thiện của ơn cứu độ vượt xa sự dữ của tội lỗi. Tiếp
nối tư tưởng này của Augustine, sau này Leibniz đã khai triển và biện minh cho
sự hiện hữu của Thượng Đế: “sự dữ không còn là sự dữ nữa, chỉ là một khoảnh khắc
cần thiết trong tiến bộ của cả lịch sử nhân loại.”
Thần lý học của Augustine còn
nói thêm rằng, vào lúc cuối
cùng của lịch sử sẽ có cuộc phán xét, khi ấy sẽ có những người đi vào sự sống
vĩnh cửu và có những người đi vào án phạt đời đời (con người với sự tự do của họ
đã khước từ hồng ân cứu độ mà Thượng Đế trao tặng họ). Đối với Augustine, “vì hạnh
phúc dành cho những người không phạm tội, vũ trụ này trở nên hoàn hảo. Vũ trụ
này trở nên bớt hoàn hảo hơn, vì có nhiều khốn khổ dành cho người tội lỗi… án
phạt của tội sửa dạy nỗi ô nhục của tội.”[14] Về điểm này, Augustine viện
dẫn một nguyên lý về sự cân bằng luân lý, theo đó tội là hình phạt công bằng cần
bị loại bỏ đi và không còn bị coi như là làm tổn hại đến sự hoàn hảo của thực tại
Thượng Đế.
Thần lý học của Augustine giải
thích ý định nằm ẩn bên dưới vấn đề sự dữ không thuộc về trách nhiệm của Đấng
Sáng Tạo, và với quyền năng của Ngài cứu các loài thọ tạo khỏi các sự dữ. Sự dữ
bắt nguồn tự sự lạm dụng tự do của thọ tạo theo một hành động xảy ra trước lịch
sử của nhân loại. Satan, thủ lĩnh của các thiên thần sa ngã trở thành Kẻ Thù của
Thượng Đế.
Những khó khăn về Thần lý học của Augustine
Tuy nhiên, Thần lý học về sự
dữ của Augustine cũng đụng phải nhiều chỉ trích. Trước tiên, có ý tưởng cho rằng, một vũ trụ được Thượng Đế dựng nên với
quyền năng tuyệt đối, và Ngài muốn chúng trở nên tốt đẹp, thì không thể ẩn chứa
bất cứ sự dữ nào, nhưng tại sao lại có sự đi chệch hướng. Đúng là những thọ tạo
tự do là một phần trong vũ trụ có tự do để sa ngã. Mặc dầu các thọ tạo có ý chí
tự do và là những hữu thể hoàn hảo trong hữu hạn, nên chắc chắn nơi chúng không
có bất cứ vết nhơ hay dấu vết nào của sự dữ. Mặc dầu chúng sống ở trong một môi
trường hoàn hảo hữu hạn, nhưng sự thật chúng sẽ không bao giờ rơi vào tội lỗi.
Vì thế, tư tưởng về một thọ tạo hoàn hảo đi chệch hướng tự phát và không có
nguyên nhân vẫn là một sự tự mâu thuẫn. Như thế, chúng ta cảm tưởng rằng sự dữ
tự sinh từ hư không. Điều quan trọng là chính Augustine, khi nói rằng tại sao một
số thiên thần sa ngã trong khi các thiên thần khác vẫn kiên định. Từ ấy kết luận
rằng:
Vì những thiên thần này hoặc là nhận ít ân
sủng tình yêu của Đấng Sáng Tạo hơn đối với những thiên thần vẫn còn kiên định,
hoặc nếu cả hai cùng được sáng tạo tốt giống nhau, trong khi ấy một bên bị sa
ngã vì ý chí xấu xa của họ, bên kia lại được trợ giúp nhiều hơn và đã được sự
chúc lành ở mức độ chắc chắn đến nỗi họ sẽ không bao giờ sa ngã.[15]
Tóm lại, chỉ trích này căn bản
nói rằng một công trình sáng tạo không tì vết sẽ không bao giờ đi chệch hướng,
đi sai hướng và sự thật nếu công trình sáng tạo đó đi sai hướng, thì trách nhiệm
cuối cùng phải thuộc về Đấng Sáng Tạo, Đấng làm ra công trình đó. Vì lẽ “vấn đề
này là nơi tiền bạc không thể can thiệp!” Về mặt logic, Thượng Đế không thể tạo
ra những hữu thể với sự tự do mà không bị sa ngã. Nếu Thượng Đế đã tạo ra một
thế giới của các thọ tạo mà không có sự tự do để chọn lựa, không có ý chí tự
do, thì sự dữ luân lý, dĩ nhiên, sẽ không thể xảy ra. Bởi vì nếu tạo ra một hữu
thể hữu hạn với sự tự do, thì ngay lập tức chúng có sự tự do chọn lựa, chúng ta
sẽ xem Irenaeus giải thích Thượng Đế có thể sáng tạo ra các thọ tạo với sự tự
do và có khả năng đưa ra chọn lựa không phạm tội, nhưng Ngài không làm thế, bởi
vì nếu thế các thọ tạo ấy không bao giờ có sự tự do đích thật. Và một thế giới
mà không có khả thể về sự dữ luân lý, có thể sẽ là một thế giới không có đau khổ,
vì đau khổ, dường như, sẽ chẳng có mục đích, lý do để tồn tại trong một thế giới
như thế. Thượng Đế không làm thế, vì nếu làm thì các hữu thể này sẽ không thể
trở thành những con cái của Ngài với sự tự do và trách nhiệm. Nếu chúng ta có một
thế giới chứa đựng những con người với sự tự do đích thật của việc đưa ra các
chọn lựa, thì đau khổ là một yếu tố cần thiết cho một thế giới như thế, bởi vì
chỉ ngang qua đau khổ, con
người mới có thể phát triển nhân cách. Với Augustine, thế giới mà đang hiện hữu
là thế giới tuyệt vời nhất có thể đang hiện hữu.[16]
Bỏ bên cạnh lý do về phương
diện logic, “thế giới mà đang hiện hữu như hiện nay là thế giới tuyệt vời nhất,”
thử hỏi một thế giới không có sự dữ liệu có tốt hơn không?
Augustine trả lời rằng, khi chúng ta đặt câu hỏi này, giả thiết chúng ta biết về vũ trụ rành rỏi
hơn của Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ, và một cách nào đấy, chúng ta đang muốn dạy Đấng Tạo Hoá về công trình
sáng tạo của Ngài. Nếu nói thế, chúng ta lại có thể nói rằng, liệu sự dữ là tất yếu, là cần thiết để xảy
ra trong trật tự linh thánh? Augustine trả lời rằng “cả sự tội hoặc người tội lỗi
là cần thiết cho sự trọn lành, nhưng nếu những linh hồn ước ao phạm tội, và nếu
phạm tội, chính họ trở nên bất hạnh.”[17]
Một vấn đề nữa, thứ hai,
Augustine trình bày sự dữ chỉ là một chi tiết cụ thể trong một bức tranh. Sự dữ
là gam màu tối làm nổi bật, làm nên những sự tương phản trong bức tranh. Lý
thuyết điều này lý tưởng. Trong sách Giáo lý HTCG khẳng định: “Con người là thọ
tạo duy nhất nơi trần thế mà Đấng Tạo Dựng đã muốn vì chính nó.”[18] Do đó, khó có thể chấp nhận
lối giải thích sự dữ là phương thế cần thiết để đạt tới sự hài hoà tuyệt đối cần
thiết trong tổng thể của chương trình cứu độ. Điều này cũng làm lu mờ đi tính độc
đáo, độc nhất vô nhị của mỗi hữu thể cá vị mà Thương Đế dựng nên. Phản đối ý tưởng
này, Dostoevsky, trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov, đã mượn lời một
người anh em để nói rằng: “Ngay cả khi cái xưởng mênh mông này sẽ mang lại những
điều kỳ diệu tuyệt vời nhất và điều đó chỉ phải trả bằng một giọt lệ duy nhất của
một đứa trẻ, thì tôi cũng phản đối.”
Vì con người là hữu thể được
dựng nên cho chính nó, nên chúng ta, như Dostoevsky, làm sao có thể chấp nhận
quan niệm hy sinh người A, B, C…etc, hay thế hệ hiện tại nếu cần để đạt được
tương lai tốt đẹp hơn, vì tham vọng của một cá nhân hay của một tập thể nào đó.
Con người không bao giờ được phép đưa ra làm phương tiện, không bao giờ được
coi như vật thí nghiệm để có thể thay thế hay hy sinh cho một tương lai mơ hồ.
Con người mọi thời mọi nơi đều có phẩm giá như nhau, và không thể biện minh vì
một thứ gì đó trong tương lai, hay vì mục đích nào đấy mà gây đau khổ, đưa con
người ra là phương tiện. Chẳng hạn như Hitler giết hàng triệu người trong các
trại tập trung Đức Quốc Xã để mong đưa đến một dân tộc hoàn hảo. Liệu ta có chấp
nhận Hitler lại dự phần vào sự hoàn hảo của thế giới?
Đứng trước sự dữ, được coi
như là một yếu tố tương phản của bức tranh, chúng ta không thể chấp nhận được
thái độ dửng dưng, bàng quan, đứng ngoài xem bức tranh. Thái độ này không làm
vơi đi sự dữ, nhưng còn làm cho sự dữ tăng lên. Henri Bergson (1859 - 1941),
triết gia người Pháp đã bức xúc chia sẻ: các triết gia vẫn hài lòng với những lập
luận kiểu đó, một mình trong bàn giấy, nhưng họ sẽ nghĩ sao trước cảnh một bà mẹ
vừa mới chứng kiến con mình chết thảm khốc? Không! Đau khổ là một thực tại kinh
khủng và người ta thật quá lạc quan đến mức không chịu nổi khi định nghĩa sự dữ
là sự lành ở mức độ nhỏ hơn (xem The Two Sources of Morality and Religion).
Một sự chỉ trích nữa, thứ ba,
được nêu lên dưới ánh sáng của sự hiểu biết hiện đại. Ngày nay, chúng ta không
thể nghĩ một cách từ thực tế về loài người là hoàn hảo về luân lý và tinh thần,
và rồi từ tình trạng đó sa vào thói ích kỷ kinh niên là thứ gắn liền với con
người ngày nay mà chúng ta
kinh nghiệm thấy. Từ kinh nghiệm và lịch sử gợi ý cho chúng ta rằng con người
đi từ tình trạng kém, tình trạng thấp hơn với sự ý thức về luân lý rất giới hạn
và với những quan niệm rất thô thiển, thô sơ, mê tín về tôn giáo. Họ thăng tiến
dần dần cả về phương diện luân lý cũng như tín lý. Hơn nữa, với những người có
lối suy nghĩ bình thường, ngày nay chẳng ai cho rằng những sự dữ thiên nhiên
như bệnh tật, động đất, và những tai hoạ thiên nhiên tương tự như thế là những
hậu quả do sự sa ngã của tổ tiên loài người. Ngày nay chúng ta biết rằng những
tai hoạ thiên nhiên tồn tại, có trước khi con người xuất hiện trên hành tinh.. Sự sống triệt tiêu sự sống. Cá lớn nuốt
cá bé, và đã có những trận sóng thần, bão tố, động đất cũng như đủ loại bệnh tật
xuất hiện trước cả hàng trăm triệu năm trước khi loài người xuất hiện. Các dấu
hiệu, bằng chứng cho thấy rằng bệnh viêm khớp xương đã được tìm thấy trong
xương của các động vật thời tiền sử.
Chỉ trích thứ tư, chỉ trích
này tấn công vào ý tưởng về việc bị tra tấn đời đời trong hoả ngục của số đông
nhân loại bị đưa vào đó. Vì hình phạt trong hoả ngục này là không bao giờ chấm
dứt, một khi bị sa vào đó rồi, sẽ không có cơ hội thoát ra, nên không có mục
đích hay tính răn đe hay làm biến đổi trở nên tốt hơn. Trái lại, nó được cho rằng
hoả ngục sẽ khiến không có bất cứ giải pháp nào khả thi cho vấn đề sự dữ. Vì lẽ,
nó sẽ làm cho sự tội bị nguyền rủa, bị chúc dữ đời đời và ngay cả những sự dữ
không luân lý như đau đớn, khổ đau sẽ gắn liền với cấu trúc vĩnh viễn của vũ trụ,
và trở nên lâu dài.
Lời mời gọi: tránh sự dữ luân lý và tình yêu sai
trật tự
Theo Augustine, con người được
dựng nên để đi tìm sự hạnh phúc. Về cơ bản, con người là một người đi tìm kiếm,
một người đi tìm tình yêu, một người khát vọng, một người đang hướng về nhà của
mình. Con người cần khám phá và thủ đắc mục đích của cuộc đời chính mình, trở về
mái ấm của mình, và đạt được hạnh phúc. Con người như những người đang lữ hành
trở về nhà, nhưng con người không thể tự mình hồi hương, vì họ là một người
lang thang, một người mồ côi tự bản chất. Con người chắc chắn phải yêu thương.
Yêu thương là vượt lên trên chính mình và đặt tình cảm vào một đối tượng của
yêu thương. Vì chính sự bất toàn, không đủ trọn vẹn, nên đã thúc bách con người
đi tìm tình yêu. Có nhiều đối tượng để con người có thể chọn yêu thương, phản
ánh sự đa dạng vì chúng ta không đầy đủ, không trọn vẹn. Chúng ta có thể yêu
thương (phải theo thứ tự ưu tiên từ 1 đến 3, một khi xáo trộn là sự dữ xảy đến):
Thượng Đế bên trên con người (1),
những người khác (2a), bản ngã trong chính
mình (2b),
và thế giới tự nhiên (physical objects)
bên dưới con người (3).
Những đối tượng (2ab,3) sẽ
mang lại cho chúng ta sự hài lòng và hạnh phúc ở một mức độ nào đấy. Hơn nữa,
theo nghĩa nào đấy, ba đối tượng này, ngoài Thượng Đế, đều là những đối tượng
chính đáng của tình yêu, vì lẽ không gì là xấu xa, là sự dữ trong chính nó. Như
chúng ta đã biết, sự dữ không phải là một thứ tích cực, nhưng là vì thiếu vắng
cái gì đó. [Thời xưa nói về Friendship/tình bạn trong các tác phẩm Plato, nếu
thế tình bạn giữa những người đồng giới, nếu chỉ dừng lại ở tình bạn là tốt.
Nhiều tình bạn còn gắn bó keo sơn hơn là tình nghĩa vợ chồng. Vấn đề của thời
này vì lợi ích kinh tế, chính trị… nào đó, nên một số nước, như Mỹ chẳng hạn,
có luật hôn nhân đồng giới. Thực chất, tình bạn đích thật không màng đến những
ràng buộc của luật pháp, theo ý nghĩa nguyên thuỷ của nó.]
Vấn đề luân lý của con người
không nằm ở hành động yêu thương hay thậm chí ở đối tượng chúng ta yêu thương.
Vấn đề mấu chốt nằm ở chúng ta gắn bó chính chúng ta với những đối tượng yêu
thương này và những kỳ vọng của chúng ta về kết quả của sự yêu thương này. Mọi
người đều mong chờ để đạt được hạnh phúc và sự sung mãn từ yêu thương, từ tình
yêu, nhưng chúng ta lại bị đau khổ, bất hạnh và khắc khoải. Tại sao vậy?
Augustine “đổ lỗi” cho tình yêu không theo trật tự. Nghĩa là chúng ta yêu, quyến
luyến những thứ cụ thể hơn, và đồng thời, lại thất bại trong sự yêu mến dành
cho Đấng Tạo Hoá. Tất cả tội lỗi đều là do “tình yêu hỗn loạn.” (All sin is “disordered love”). Đức hạnh là “trật
tự hay thang bậc của tình yêu” (ordo amoris). Tình yêu phải được trao ban đúng
đối tượng.
Augustine tin rằng mỗi người
có những nhu cầu khác nhau nên cũng có những hành động yêu thương khác nhau. Và
nhu cầu tương quan với các đối tượng khác nhau để thoả mãn cũng rất khác biệt.
Yêu thương là hành động hài hoà, đúng cách, hợp lý giữa các nhu cầu này và các
đối tượng. Con người cần đặt hài hoà, chính xác tình yêu thương vào các đối tượng
sao cho thích hợp. Augustine trình bày về mối tương quan hài hoà giữa các đối
tượng, cách nào đấy, theo những hạn từ mang tính số lượng. Mỗi đối tượng của
tình yêu chỉ có thể đưa đến một mức độ thoả mãn nhất định nào đấy. Như những đợt
sóng ngoài biển khơi khi vỗ vào bờ, sẽ không bao giờ quá được bờ đê, nên sóng cứ
vỗ đều đặn. Khi nào sóng vượt quá bờ đê, thì khi ấy vai trò của bờ đê bị thử
thách, lũ lụt sẽ xảy đến. Xáo trộn xảy đến. Nhu cầu của mỗi người, cách nào đấy, cũng có thể đo lường được bằng các số lượng. Rõ
ràng, để thoả mãn và đạt thấu hạnh phúc đòi hỏi một đối tượng của tình yêu phải
đáp ứng đủ số lượng về những gì để làm đầy hoặc để thoả mãn nhu cầu đặc biệt
nào đấy. Vì thế, chẳng hạn, chúng ta có nhu cầu ăn và sẽ ăn một lượng thực phẩm tương đương với sự đói của mình.
Nhưng nhu cầu của chúng ta,
con người, không phải tất cả đều là vật chất, theo nghĩa nền tảng. Con người
yêu mến những đối tượng mang tính nghệ thuật vì để thoả mãn cái đẹp mà chúng mang
lại cho chúng ta. Ở mức độ cao hơn, chúng ta có nhu cầu tình yêu giữa người với
người. Thật vậy, mức độ tình cảm này mang lại nhiều niềm vui và hạnh phúc về số
lượng và chất lượng hơn cách thức mà những đối tượng vật chất mang lại cho
chúng ta. Từ sự lý giải này, đối với Augustine, rõ ràng rằng một số nhu cầu của
con người không thể được đáp ứng bởi một sự trao đổi với các đối tượng. Chẳng hạn,
nhu cầu sâu xa của con người cần một tình bạn song hành với người khác, điều
này không thể được đáp ứng bởi các thọ tạo bên dưới con người, mà chỉ tìm thấy
nơi những người khác, những tha nhân có khả năng trao đổi, đồng hành, cảm thấy
được chủ thể tôi. Đồ vật không thể thay thế cho một con người, bởi vì đồ vật
không thể ẩn chứa bên trong nội tại của chúng những yếu tố độc đáo duy nhất chỉ
có nơi ngôi vị người. [Vấn đề của thời đại này, như Fulton Sheen đã nói về những
chuẩn mực lệch lạc của thời chúng ta: thương yêu con vật, nhưng lại sử dụng con
người, trong khi đó phải đảo ngược lại, thương con người, và sử dụng con vật. Chúng ta cần phải đưa những tương
quan này về đúng vị trí mà Đấng Toàn Năng đã thiết lập. Hãy yêu thương con người
và sử dụng đồ vật].
Theo đó, mặc dầu mỗi sự vật
có một đối tượng chính đáng, hợp pháp với tình yêu vẫy gọi, nhưng chúng ta
không được mong chờ ở mỗi đối tượng khác nhau ấy, về mức độ mà bản chất độc đáo
của nó có thể mang lại. Điều này cũng đúng với trường hợp nhu cầu tâm linh rất
đặc biệt của con người. Augustine nói rằng con người được tạo dựng để yêu mến Đấng
Tạo Dựng nên mình, vì Đấng ấy là vô biên. Cách nào đấy, con người được dựng nên
chỉ cho mình Đấng vô biên ấy, chỉ Đấng ấy mới mang lại cho chúng ta sự thoả
mãn, hạnh phúc tột cùng, là nỗi khát vọng được yêu thương vô biên nơi con người.
Augustine nói, “khi ý chí là điều tốt lành trung gian, gắn bó với sự tốt lành bất
biến… con người mới tìm thấy ở đó đời sống hạnh phúc,” vì lẽ “sống tốt lành
không gì khác hơn là yêu mến Đấng Tuyệt Đối.” Do đó, yêu mến Đấng Tạo Dựng là
điều kiện không thể thiếu để có được hạnh phúc, vì chỉ duy Ngài, Đấng vô biên,
mới có thể lấp đầy khoảng trống vô biên trong tâm hồn con người. Nếu các đồ vật
không thể thay thế chỗ, vị trí của con người để thoả mãn khát vọng của con người,
thì con người cũng không thể thay thế vị trí, chỗ của Thần Linh được. Tuy
nhiên, tất cả chúng ta đều mong chờ rằng mình có thể đạt được hạnh phúc đích thật
qua việc tìm kiếm thoả mãn với đồ vật, với người khác, và với chính mình. Chúng
ta không phủ nhận tất cả các đối tượng này đều là chính đáng để chúng ta trao
ban yêu thương, tìm kiếm sự thoả mãn khát vọng, nhưng vì sự tự giới hạn của
chính chúng ta và các đồ vật, các thọ tạo, nên nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những
thọ tạo, thì không thể có được hạnh phúc viên mãn. Tình yêu rối loạn bao hàm ở
sự mong chờ, chờ đợi vào đối tượng nhiều hơn chúng có thể đáp ứng. Điều này có
thể dẫn đến đủ thứ loại bệnh lý trong hành vi (pathology) của con người.
Theo Augustine, chỉ Đấng dựng
nên con người, đặt để nơi con người khát vọng vô biên mới làm con người thoả
cơn khát vô biên, vì chỉ duy mình Ngài là vô biên, mới có khả năng đáp ứng tình
yêu, khát vọng vô biên. Dấu chỉ để biết con người được thoả mãn khát vọng vô
biên, chỉ khi con người nghỉ yên trong Đấng tạo ra con người. Biết Đấng ấy
không thể bị tách rời khỏi việc biến đổi trở nên một người có chất “thần linh”
(godly) giống như Ngài. Đó là khả năng biết và yêu mến Đấng Vô Biên để trở nên
giống hay hoà quyện vào trong Đấng ấy. Phẩm chất quan trọng đối với Augustine,
để con người không bị rối loạn, là đi vào tình yêu với Đấng Sáng Tạo, vì lẽ
chính Ngài là tình yêu, và vì yêu nên Ngài đã dựng nên con người, không ngừng
gìn giữ, duy trì mọi thọ tạo trong tình yêu của Ngài. Chính tình yêu giúp ta có thể sống theo ý muốn của Đấng
Tạo Dựng và chu toàn luật của Ngài. Một quan niệm mà Augustine đã diễn tả qua
câu châm ngôn đáng nhớ sau: “Hãy yêu đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm” (Love and
then do what you will). Vì lẽ nếu bạn yêu mến Đấng Tạo Dựng, thì bạn cũng sẽ
yêu mến ý định luật luân lý của Ngài. Do đó, chúng ta thấy quan niệm về đạo đức
học của Augustine lấy Thượng Đế là trung tâm, là sự thống nhất, và đơn nhất, và
mọi quan niệm luân lý đều quy hướng về đối tượng tối hậu của mọi hành vi, mục
đích luân lý của con người là đối tượng tối hậu của nó, đối tượng ấy là chính Đấng
Toàn Thiện.
Đối với Augustine, như chúng
ta đã biết, mọi sự hiện hữu, một cách nào đấy, là tốt lành, bởi vì mọi hiện hữu
đều đến từ chính Đấng Tạo Dựng. Do vậy, mọi sự hiện hữu là xứng đáng được yêu.
Vấn đề đối với con người là tình yêu của chúng ta không theo mức độ trật tự. Về
mặt bản thể học, có một cấp bậc, hệ thống thứ tự của hữu thể, và tương ứng với
hệ thống ấy là những phân cấp các thang giá trị. Những gì hiện hữu ở cấp thấp
hơn không xấu tự bản chất, vì mọi sự hiện hữu là tốt lành, vẫn giữ được mô thức,
cấu trúc và biểu tỏ vinh quang của Đấng Sáng Tạo. Tuy nhiên, nó chỉ trở nên xấu,
khi con người quyến luyến những gì ở cấp thấp nhiều hơn những gì ở mức độ cao
hơn. Lòng mến của con người trở nên xấu khi con người yêu mến những của cải nhục
dục hơn Đấng Tạo Thành.
Về cơ bản, không có sự xung đột
giữa thể xác và tinh thần, nhưng có sự xung đột giữa con người yêu chính mình
hơn Đấng Tạo Thành, và vì thế, thích hướng chiều về những khát vọng thân xác
hơn là tuân phục giới luật của Đấng Toàn Năng. Tình thương của con người có thể
tuân theo trật tự hợp lý, chỉ khi Đấng Toàn Năng được yêu hết linh hồn, hết trí
khôn, như mệnh lệnh được Kinh Thánh nói đến: “Hãy yêu mến Đấng Toàn Năng của bạn,
hết linh hồn và hết trí khôn của bạn (Mt 22:37). Tuy nhiên, điều này đòi hỏi sự
biến đổi toàn vẹn nơi con người. Biến đổi này chỉ xảy ra, khi con người để cho
ân sủng của Thần Linh biến đổi. Ân sủng đến từ Thần Linh không chỉ ở bên ngoài,
nhưng nó thực sự thay đổi và sắp xếp lại linh hồn và tình yêu của nó. Để rồi,
Thần Linh trở thành sự sống của linh hồn như linh hồn là sự sống của thân xác.
Điều này bắt đầu từ bây giờ và được hoàn hảo trên Trời. Thật ra, nếu sự sống,
tình yêu của linh hồn không bắt đầu từ bây giờ, linh hồn sẽ không thể chịu đựng
được khi lên Thiên Đàng.
Tuy nhiên, vì hậu quả của tội
nguyên tổ, và tính tự ái thông thường đẩy con người khước từ ân sủng của Thần
Linh và trở nên kiêu ngạo. Kiêu ngạo là vết tích tội nguyên tổ và là tội chính
yếu đưa đến những hành vi sai luân lý của con người. Bản chất căn bản, sâu xa của
tội kiêu ngạo là sự giả thiết mình tự đầy đủ, không cần Đấng Toàn Năng. Tuy
nhiên, tự bản chất thật của con người là chúng ta không tự đủ, cả về vật lý, lẫn
tinh thần và tâm linh. Vì sự kiêu ngạo của con người khiến con người xa rời khỏi
Đấng Toàn Năng, dẫn con người đến hình thức nuông chiều mình thái quá. Vì chúng
ta cứ cố gắng, loay hoay tìm kiếm sự thoả mãn những khát vọng vô biên bằng những
thực tại hữu hạn. Chúng ta yêu những thọ tạo thấp hơn con người ở mức nhiều hơn
trong tương quan chúng có thể đáp trả bởi chính bản thân chúng. Tình yêu của
chúng ta dành cho người khác có thể trở nên gần như huỷ hoại họ, muốn chiếm đoạt
họ, thay vì để họ tự do trao ban, bởi vì chúng ta muốn đạt được mối quan hệ nhiều
hơn những gì họ có thể đáp ứng. Những thèm muốn, những đam mê tăng lên cấp số
nhân, và có một sự cố gắng trong vô vọng để đạt được bình an thông qua thoả mãn
tất cả mọi khát vọng. Con người trở nên nổi loạn và sau đó biểu lộ ra bên ngoài
những sự đố kỵ, tham lam, ghen ghét, thủ đoạn, hoảng sợ và âu lo triền miên.
Khi một người tràn ngập bởi tình yêu bấn loạn, thì chẳng bao lâu sẽ sản sinh ra
một con người hỗn loạn. Một người hỗn loạn sẽ tạo ra một cộng đoàn hỗn loạn. Chẳng
thể nào cố gắng tái tạo lại một gia đình hay một cộng đoàn bình an, ổn định, nề
nếp nếu không thể xây dựng, tái tạo lại từ mỗi cá nhân con người. Một thực tế
dai dẳng và nhiều gian truân là làm thế nào để tái tạo lại tình yêu theo đúng
thứ tự, nghĩa là mỗi cá nhân trao yêu thương đúng chuẩn mực, đúng cấp bậc trong
đời sống của mỗi cá nhân, thì khi đó việc tái thiết lại con người và ơn cứu độ
mới có thể. Augustine cho rằng chúng ta có thể yêu một người thích hợp, đúng
cách, chỉ khi chúng ta yêu Đấng Toàn Năng TRƯỚC. Vì khi đó, chúng ta không mong
chờ tình yêu bắt nguồn từ con người những gì chỉ có thể được khơi nguồn từ tình
yêu của con người với Đấng Là Tình Yêu. Tương tự như thế, chúng ta chỉ có thể
yêu chính mình đúng cách khi chúng ta đầu phục chính chúng ta cho Đấng Tình
Yêu, vì không có cách nào khác để vượt qua những hậu quả tai hại của tội nguyên
tổ, tội kiêu ngạo hơn là loại bỏ chính sự kiêu ngạo.
III. THẦN LÝ HỌC CỦA THOMAS AQUINAS
Dẫn nhập
Ngay ở khởi đầu của bộ Tổng
luận Thần học (Summa Theologiae), Thomas Aquinas đã đề cập đến vấn đề
sự dữ. “Dường như Thượng Đế không hiện hữu… Chúng ta nhận thấy sự dữ trong thế
giới này. Vì thế, Thượng Đế không hiện hữu” (Videtur quod Deus non
sit…Invenitur autem malum in mundo. Ergo Deus non est).[19] Chúng ta đừng hốt hoảng
khi đọc thấy lời trên, vì vị tiến sĩ các thiên thần thực sự không phản biện về sự không hiện hữu của Thượng
Đế, nhưng đây chỉ là tiền đề để Aquinas chứng minh, trình bày sự hiện hữu của
Thượng Đế. Vì lẽ, ngay sau tiền đề này, Aquinas đã trình bày về Ngũ Đạo
rất nổi danh của triết gia để chứng minh Thượng Đế hiện hữu. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta không
thể phủ nhận rằng Aquinas đã nêu vấn đề về sự dữ như là vấn đề cần phải đối diện
trước hết để chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Điều này gợi ý rằng Aquinas
đề cập đến vấn đề sự dữ
như một lập luận mạnh mẽ và quan trọng. Như chúng ta đã biết, câu trả lời của
Aquinas là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý trí, nhưng điều này không dẫn nhiều người
vô thần đến đức tin. Do vậy, Thomas đã dành hẳn một tác phẩm, được viết cùng thời
với Summa Theologiae để bàn luận về vấn đề sự dữ, Những câu hỏi tranh
biện liên quan đến sự dữ (Quaestiones disputatae de malo) hoặc được
viết ngắn gọn Về SỰ DỮ (De malo). Aquinas đã dùng tác phẩm này để
bàn luận sâu hơn về sự dữ. Quan tâm tới tác phẩm này, có lẽ, chúng ta cần giữ
trong tâm rằng Thánh Aquinas coi vấn đề sự dữ là luận chứng mạnh mẽ nhất chống
lại sự hiện hữu của Thượng Đế. Do đó, theo triết gia, thực sự cần phải đưa ra
những lý lẽ thuyết phục nhất để giải quyết vấn đề sự dữ.
Ở ngay khởi đầu của Aeterni
Patris (Người Cha Hằng Hữu), Đức Giáo Hoàng Leo XIII[20] đã trích dẫn, câu được
trích bởi Cajetan, đã mô tả sự vĩ đại của Aquinas, không chỉ nhờ công trạng của
chính triết gia, nhưng còn đồng hoá chính ngài với tác phẩm vĩ đại đã được thực
hiện bởi những tư tưởng gia đi trước Aquinas. Quan điểm của Aquinas có thể được
nhìn như là một sự tiếp tục, dựa trên công trình của những triết gia đi trước,
đặc biệt là Pseudo-Dionysius. Với việc quan tâm đặc biệt này, Thomas hy vọng
đưa ra được những lý chứng mạnh mẽ để lý giải về vấn đề sự dữ.
Bản chất của sự dữ
Aquinas khởi đầu với một câu
hỏi “liệu sự dữ có phải là thứ gì đó không” và câu trả lời, hiển nhiên, là
không, nhưng là sự khiếm khuyết hay sự thiếu hụt.
Đối với Aquinas, sự dữ không
phải là một thực tại như bản thể hay hữu thể, nhưng là sự khiếm khuyết những gì
là sự thiện, là hiện hữu, là sự hoàn hảo.[21] Để sự dữ là riêng tư, và
không chỉ là phủ định, thì phải là một sự phủ định của một sự thiện mà vốn bản
chất phải thuộc về một thực tại, nghĩa là bất cứ sự dữ nào đối với một hữu hữu
sẽ là một sự khước từ đối với thứ hiện hữu gì được cho đáng lẽ phải là hoàn hảo.[22] Điều này không có nghĩa
là sự dữ hoàn toàn không hiện hữu, nhưng phải hiểu chính xác rằng sự dữ không
có bất cứ sự hiện hữu nào độc lập với một sự thiện mà nó đã chiếm lấy. Điều này
muốn nói rằng sự dữ là “ký sinh trùng” trên sự thiện. Sống tầm gửi vào sự thiện.[23] Đó là những điều tổng
quát về sự dữ theo Thomas Aquinas, giờ chúng ta đi tìm hiểu kỹ hơn.
Như một thói quen tốt lành, cố
hữu của mình, Aquinas đã chia nhỏ vấn đề ra để phân tích. Triết gia nói rằng có
hai loại sự khiếm khuyết: khiếm khuyết về sự hiện hữu hoàn hảo (chẳng hạn như
cái chết hoặc sự mù loà) và sự khiếm khuyết như là sự giảm đi về mức độ hoàn hảo
(chẳng hạn sự bệnh tật hoặc bệnh nhãn khoa). Hai loại sự dữ này liên quan tới
nhau. Nên nhớ rằng sự khiếm khuyết về việc giảm sự hoàn hảo, dẫn một người vào lối khiếm khuyết về sự
hiện hữu hoàn hảo.
Quan tâm xem liệu sự dữ có tồn
tại trong sự thiện không, Aquinas thực hiện một bước rất quan trọng như là
trung tâm để hiểu vai trò của Thượng Đế liên quan đến sự dữ theo quan niệm của
triết gia. Thông qua điều này, Aquinas giải quyết một vấn đề quan trọng mà các
tư tưởng gia trước phải đối mặt. Triết gia bắt đầu với việc giải thích rằng thiện
và ác là hai thái cực đối lập nhau. Vì thế, sự dữ không thể hiện hữu trong cái
thiện. Giống như lạnh không thể hiện hữu trong nóng. Lý luận của Aquinas về sự
thiện của Thượng Đế giả thiết rằng một hữu thể tốt lành hoặc thiện không thể có
một lý do thích hợp cho phép sự dữ hiện hữu. Tuy nhiên, thật khó để chứng minh
rằng một hữu thể như thế không thể có một lý do cho sự dữ hiện hữu, và thậm chí
hầu hết các triết gia vô thần đương thời cũng không đưa một tuyên bố đủ mạnh mẽ
để chống lại điều này. Trong trường hợp nếu không có giả định này, thì Aquinas
đơn giản khẳng định, bởi vì
những luận chứng của triết gia đã chứng minh rằng Thượng Đế hiện hữu và Ngài là
thiện, là tốt lành, nên bất cứ điều gì là sự dữ nếu hiện hữu, cũng phải phù hợp, nhất quán với
sự tốt lành của Ngài.
Tuy nhiên, sự dữ ở đó trong sự
thiện ở dạng tiềm thể. Tiềm thể không đối nghịch với sự hoàn hảo hay sự khiếm
khuyết. Do đó, sự dữ có thể ở bên cạnh chúng.
Tự nó, bản thân sự hiện hữu, chính yếu, tự bản chất của
hiện hữu, khát vọng hiện hữu, và vì thế chúng ta hiểu rằng mọi sự tự bản chất
khát khao mong muốn hiện hữu và tránh những thứ làm huỷ hoại sự hiện hữu của
nó, và chống lại những sự phá huỷ này chừng nào có thể. Do vậy, hiện hữu tự nó
là tốt, là thiện chừng nào nó còn khát khao… Vì thế, sự dữ, trên bình diện phổ
quát là nghịch với sự thiện, cũng là tất yếu ngược với sự hiện hữu.[24]
Aquinas, khá hợp lý, khẳng định
rằng sự dữ là đối nghịch với cái gọi là thiện. Và cũng rất hợp lý, khi hiểu rằng
cái gì là thiện, là điều đáng mong muốn. Aquinas đã vay mượn câu châm ngôn của
Aristotle “sự thiện hay sự tốt lành là điều mà tất cả vạn vật đều mong muốn.”[25] Đối với Aquinas, điều
đáng mong muốn nhất là sự hiện hữu của một hữu thể - sự hiện hữu của chính nó.
Vì thế, như là một yếu tố đối lập với cái tốt của một vật, sự dữ bị coi như đối
lập với sự hiện hữu của vật đó – nó là một dạng của hữu thể không (non-being)
hoặc sự vắng mặt của cái tốt. Nó là sự vắng mặt của sự thiện đáng lý phải có, sự
khiếm khuyết sự thiện mà lẽ ra nên có đó.
Không phải mọi sự vắng mặt của sự thiện đều
là sự dữ. Vì lẽ sự vắng mặt của sự thiện có thể được hiểu theo một nghĩa riêng
tư và phủ định. Bị xem là phủ định, sự vắng mặt của sự thiện không phải là sự dữ.
Khác hơn, nó sẽ theo sau rằng cái gì không hiện hữu là sự dữ, và cũng thế, mọi
sự sẽ là sự dữ, bởi không có sự thiện thuộc về những thứ khác. Chẳng hạn, một
người sẽ là sự dữ nếu khôngcó sự nhanh nhẹn của con nai, hoặc không có sức mạnh của con sư tử. Tuy nhiên, sự
vắng mặt của sự thiện, được hiểu theo một nghĩa riêng tư, là sự dữ. Chẳng hạn,
khi sự khiếm khuyết khả năng nhìn được gọi là mù.[26]
Nếu thế, chúng ta có thể hiểu
thêm rằng, sự dữ không chỉ là
việc thiếu sự hiện hữu, nhưng còn là sự thiếu vắng một số đặc tính mà một sự vật
được giả thiết là phải có. Đó là thiếu một sự thiện đáng lý phải có. Khiếm khuyết
hay thiếu ở đây là thiếu điều, thiếu thứ đáng lý phải có, nghĩa là thiếu sự thiện,
sự có đáng lý có, thuộc bản
chất của hữu thể đó. Aquinas đã đưa cho chúng ta thấy một ví dụ kinh điển là sự
mù loà: một sự thiếu khả năng nhìn. Đôi mắt là sự có, sự thiện hảo đúng là phải
có nơi một con người bình thường, nên người khiếm thị bị coi là người bất hạnh,
vì thiếu cái bình thường là nhìn được. Nhưng cụ thể hơn, nó thiếu khả năng nhìn
thấy những thứ mà đáng lý nó có thể thấy. Những hòn đá không có khả năng nhìn,
không bị gọi là mù, và không đau khổ vì một sự dữ là thiếu khả năng nhìn đối với
hòn đá. Thiếu điều thiện hảo không thuộc về bản chất của mình, thì không thể bị
coi là sự dữ. Thiếu đôi cánh và không thể bay, thì không gọi là điều dữ, điều bất
hạnh đối với con người. Aquinas đôi khi gọi những điều thiện này là một thứ được
giả thiết có “những sự hoàn hảo.” Có sự dữ khi một thứ thiếu sự hoàn hảo đáng lẽ
nó nên phải có. Nó là sự dở dang, chưa hoàn tất trong sự hiện hữu của nó.
Đến đây, rõ ràng rằng một thứ chỉ có khát
khao chừng nào nó có thể trở nên hoàn hảo. Vì lẽ, tất cả mọi sự đều khát khao sự
hoàn hảo của chính chúng. Tuy nhiên, mọi sự là hoàn hảo chừng nào nó là thực hữu.
Vì thế, rõ ràng rằng, một thứ
là hoàn hảo chừng nào nó hiện hữu.[27]
Tóm lại, một vật nào đó không
đạt được sự trọn vẹn về sự hiện hữu của nó, nó bị thiếu một sự hoàn hảo hoặc sự
tốt lành mà đáng lý nó phải có, thì sự vật đó gánh chịu sự dữ. Vì sự dữ là sự
khiếm khuyết hay vắng bóng sự thiện, nên sự dữ không thể tự hiện hữu, hay hiện
hữu bởi chính nó. Sự dữ không phải là một thứ tự nơi chính nó, nhưng sự dữ được
mô tả là một thứ gì đó mà nó bị thiếu từ nơi sự vật đáng lẽ nó phải có. Giống
như một cái lỗ ám chỉ nơi một số vật chất bị thiếu, hoặc một cái bóng râm là
nơi ánh sáng không chiếu sáng, vì thế sự dữ ám chỉ thế nào đấy có những thứ bị
khiếm khuyết, hoặc chưa hoàn thiện ở nơi đáng lý nó phải có. Chúng ta thấy
Aquinas tóm kết về bản chất của sự dữ khi viết rằng:
Sự dữ là không thể biểu tỏ sự hiện hữu, hoặc
bất cứ mô thức hay bản chất nào. Vì thế, bởi danh xưng của sự dữ, nói phải bị vắng
mặt sự thiện. Và đây chính là ý nghĩa của việc nói rằng sự dữ không là một hữu
thể hay một sự thiện. Bởi vì, như thế, sự hiện hữu là tốt lành, nên sự vắng mặt
của cái này ám chỉ sự vắng mặt của cái khác.[28]
Đối với Aquinas, Thượng Đế
toàn năng, trọn tốt trọn lành, Ngài là nguyên nhân của mọi sự, và những gì Ngài là nguyên nhân thì phải tốt,
phải thiện, chỉ duy nhất thứ mà Ngài không phải là nguyên nhân là những gì
không thể hiện hữu, nghĩa là những gì không thể về mặt logic. Thượng Đế không
thể không nhất quán với chính Ngài, hay tự mâu thuẫn về mặt logic. Tuy nhiên,
cũng cần minh định ở đây rằng, đối với Aquinas, mặc dầu Thượng Đế không thể là
nguyên nhân của những gì là mâu thuẫn về mặt logic, không phải bởi vì Ngài thiếu
khả năng để hành động, nhưng bởi vì những thứ mâu thuẫn như thế là không, và
không thể là bất cứ sự vật nào, những thứ như thế không thể tồn tại. Do đó,
không có gì ngược với ý tưởng hiện hữu ngoại trừ hiện hữu không (nothing is
opposed to the idea of being except non-being).
Giải nghĩa về sự thiện và sự dữ
Trước khi tìm hiểu sự dữ luân
lý, thiết tưởng nên hiểu rõ một số điều liên quan đến thiện và ác trong cách
phân chia của Aquinas. Như một nhà triết gia bằng bộ óc khoa học với thói quen
tốt lành cố hữu: phân chia và tổng hợp vấn đề, Aquinas lại chia sự thiện thành
hai: sự thiện tuyệt đối và sự thiện cụ thể hoặc riêng biệt. Trong sự thiện tuyệt
đối, sự dữ không hiện hữu. Sự thiện tuyệt đối có phạm vi mở rộng khả thể vĩ đại
nhất (thậm chí rộng hơn cả hữu thể). Vì một thứ gì đó là hoàn hảo đến mức độ thứ
đó là ở trong hiện thể hoặc mang tính hiện thể, Thượng Đế như Hành Động Thuần
Tuý (Pure Act) phải là hoàn hảo.[29] Với khả năng được ban cho
sự hoán đổi về sự hiện hữu và sự tốt lành hoặc sự hiện hữu và sự thiện đồng hoá
với nhau, Thượng Đế như là Hành Động Thuần Tuý và Hiện Hữu Tự Nó phải là thiện,
thực sự là thiện tối cao.[30] Vì thế, hiện hữu tuyệt đối
không chấp nhận sự khiếm khuyết. Tuy nhiên, cái thiện cụ thể chấp nhận sự khiếm
khuyết, bởi vì nó chấp nhận sự tiềm thể.
Tiềm thể tự nơi bản thân nó
có mô thức của một sự thiện. Vật chất tự nơi nó có tiềm thể,[31] và vì thế, vật chất là tốt.
Từ đó, chúng ta khẳng định rằng tự bản thân sự hiện hữu của con người là thiện,
đơn giản vì sự hiện hữu, sự có mặt của nó đã là thiện. Hiện hữu là thiện. Chỉ cần
mỗi hiện hữu đã là thiện rồi, là tốt rồi.
Sự hiện hữu, sự có mặt đã là
tốt, đã là thiện, nhưng không đồng nghĩa rằng con người là một người tốt. Một
người tốt cần có một loạt những điều thiện hảo xứng hợp với người ấy, hay gọi
là các nhân đức. Tương tự như một đôi mắt tốt, đôi mắt tinh tường đòi hỏi có một
loạt những điều thiện hảo tương xứng với nó. Việc hoàn thiện những sự thiện hảo
này cách thích hợp là một sự thiện riêng biệt, cụ thể. Những sự hoàn hảo tiên
vàn hiện hữu trong một con người cụ thể (hay đôi mắt, hay bất cứ một hữu thể
nào) ở dạng tiềm thể, mà tiềm thể đó là để được hiện thể hoá (potential is to
be actualised).
Aquinas đã đưa ra ba cách thức
nói về sự thiện: sự hoàn hảo của một thứ (nhìn tinh tường), thứ có những sự
hoàn hảo thích hợp (mắt tinh tường), và một thứ ở trong tiềm thể hướng đến hoàn
hảo. Sự dữ là bởi vì khiếm khuyết sự hoàn hảo thích hợp, nghĩa là sự ngăn cản của
việc hiện thực hoá tiềm thể. Vì thế, sự dữ là trong sự thiện, sự tốt, chừng nào
tiềm thể được gọi là thiện, là tốt. Khi sự thiện được xem như sự hài hoà của chủ
thể và những sự thiện hảo của chủ thể đó, thì sự thiện bị giảm bớt đi bởi sự dữ,
và vì thế, sự thiện không ở trong chủ thể nữa. Nơi nào sự thiện là hành động
thuần tuý (pure act), thì nơi đó không có tiềm thể, nên nơi đó không có chỗ cho
sự dữ. Điều này chỉ áp dụng cho duy nhất trường hợp Thượng Đế.
Sự tách biệt giữa tiềm thể và
hiện thể ở đây là vô cùng quan trọng. Một trong các vấn đề trong tư tưởng của
Pseudo-Deny đề cập đến sự dữ như là một sự khiếm khuyết, nghĩa là, ẩn ý bên dưới,
coi sự khiếm khuyết như là một sự tất yếu hiển nhiên. Cách giải thích về hữu thể
theo Tân Plato của Pseudo-Deny, với sự khiếm khuyết được trình bày bởi sự khởi
đi từ một điểm trung tâm, có thể được xem như là phương tiện mà Thượng Đế đã
sáng tạo các thọ tạo, các hữu thể và buộc chúng phải chịu sự khiếm khuyết này.
Sự khác biệt giữa điều này (các thọ tạo buộc bị sự khiếm khuyết) và quan niệm
Thượng Đế đã sáng tạo ra sự dữ đã thực sự không rõ ràng ở đây.
Aquinas thực hiện việc xem
xét liệu sự thiện có phải là nguyên nhân của sự dữ không. Trước tiên, chúng ta
cần khảo cứu bốn nguyên nhân liên quan đến bất cứ hiện hữu nào đấy.
Nguyên Nhân Của Sự Dữ: Một thọ tạo hay một hữu thể cụ thể, theo
Aristotle, có BỐN nguyên nhân để nói về một hữu thể cụ thể, riêng biệt: nguyên
nhân chất thể, nguyên nhân cứu cánh, nguyên nhân tác thành
và nguyên nhân mô thể.
Nguyên nhân chất thể
(material cause): Sự dữ không đứng độc lập, riêng biệt. Sự dữ ở trong thế đối lập
với sự thiện vốn phải có nơi hữu thể, nên sự dữ phải có sự thiện là chủ thể. Ở
nơi nào mà sự dữ không có chủ thể nhận sự dữ như là tuỳ thể, thì sự dữ không thể
hiện hữu. Nguyên nhân chất thể phải được hiểu là nguyên nhân tuỳ thể. Do đó, nếu
chất thể không được đặt thích hợp, thì sự vật thế nào cũng khiếm khuyết. Đá cứng
quá thì không có được pho tượng đẹp như ý muốn.[32]
Nguyên nhân cứu cánh (final
cause): Mọi hữu thể luôn luôn có cứu cánh và các hoạt động của mỗi hữu thể cách
nào đấy, luôn luôn hướng về cứu
cánh. Cứu cánh chính là điều thiện hảo mà mỗi hữu thể mong ước đạt tới, cứu
cánh chính là sự thiện hảo của mỗi sự vật. Không hữu thể nào hướng về cứu cánh
nếu cứu cánh là sự dữ. Do đó, sự dữ không có nguyên nhân cứu cánh vì sự dữ vắng
bóng sự thiện.
Nguyên nhân tác thành
(efficient cause): Sự thiện là nguyên nhân tác thành của sự dữ, nhưng sự thiện ở
đây chỉ là nguyên nhân tuỳ thể (accidentally) hay nguyên nhân gián tiếp, chứ
không phải là nguyên nhân tự thể (per se) hay trực tiếp, vì chẳng hữu thể nào
có ý định làm điều xấu cho chính mình. Có thể hiểu sự thiện là nguyên nhân của
sự dữ, vì sự thiện thiếu sự thiện hảo đáng lý phải có nơi mình. Một tác nhân hoạt
động hướng về điều xấu vì nơi chính bản thân thiếu sự thiện cần thiết phải có.
Một tác nhân càng thiếu sự thiện hảo, thì càng có khuynh hướng làm điều xấu. Vì
thế, chúng ta có thể nói rằng sự dữ không có nguyên nhân tác thành, chỉ có
nguyên nhân thiếu sự thiện. Sự thiện có trước sự dữ, vì nguyên nhân luôn có trước
hậu quả, kết quả. Sự thiện gây ra sự dữ, vì sự bất toàn.
Nguyên nhân mô thể (formal
cause): Mô thể mang tính bản thể (substantial form) là thứ làm nên sự hoàn hảo
của sự vật. Vì tự bản chất của sự dữ là thiếu sự thiện hảo, nên sự dữ khiếm
khuyết mô thể (evil is the privation of form). Vì thiếu sự thiện hảo, nên sự dữ
không có nguyên nhân mô thể. Aquinas nói, “Theo cách thức mà sự dữ cần có một
nguyên nhân, thì nguyên nhân của nó là sự thiện. Nhưng, sự dữ không thể có một
nguyên nhân mang tính bản thể (essential cause).” Nguyên nhân bản thể cần được
dự tính, và sự dữ không bao giờ được dự tính, chỉ là tuỳ thể - chẳng hạn một
người ngoại tình, người ấy đã không chọn sự dữ của việc ngoại tình bởi vì nó là
sự dữ, hơn là bởi vì nó là những thú vui thân xác được liên quan tới, người này
theo đuổi những thú vui thân xác, là những thứ tốt.[33] Nếu thế, sự dữ xảy ra thế
nào?
Vì sự dữ không phải là bản thể,
chỉ là sự khiếm khuyết cái nơi bản thể nên khiếm khuyết không thể, không phải
là nguyên nhân của sự thay đổi. Tự thân nó, sự dữ chỉ là tuỳ thể. Nó chỉ là
duyên cớ của sự thay đổi nào đó. Nó chỉ là tuỳ thể, nên không phải là nguyên
nhân trực tiếp của sự thay đổi, mà chỉ là tuỳ thể, nên tác động thay đổi gián
tiếp. Nguyên nhân bản thể là thứ mà từ đó sự vật hoặc hữu thể được sinh ra, sự
biến dịch khởi phát (that from which motion starts). Sự khiếm khuyết là cái từ
đó, một sự vật đang hiện thể, đang thực hữu khởi đi (that from which existence
departs). Ánh sáng không phải là nguyên nhân của bóng tối, nhưng là nguyên lý của
sự hiện hữu của chính nó. Tuy nhiên, khi ánh sáng không hiện hữu, thì đêm đen
xuất hiện. Một khi ánh sáng hiện hữu, tự nó đêm đen bị đẩy lui.[34]
Một lần nữa, chúng ta lại thấy
Aquinas phân chia thành tiềm thể và hiện thể là điều hết sức quan trọng. Sự dữ
gắn liền với một sự hoàn hảo thích hợp đáng lý phải có. Vấn đề nằm ở chỗ nó đã không
xảy ra như thế theo bản chất, bởi vì sự khiếm khuyết mang tính bản chất của một
sự hoàn hảo không phải là sự dữ. [Chẳng hạn, sự hiện hữu của một hòn đá, tự hòn
đá là không thể có khả năng nhìn].
Tuy nhiên, sự dữ vẫn cần một
nguyên nhân tuỳ thể, và nguyên nhân đó phải là tốt, là thiện. Sự thiện là
nguyên nhân của sự dữ theo hai cách: nơi sự thiện là khiếm khuyết (thiếu sót)
và nơi sự thiện là tuỳ thể. Ở đây, ví dụ của Aquinas, thoạt nhìn có vẻ là lỗi thời theo khoa vật lý, lửa
không tiêu huỷ nước, nếu nhìn theo bản thể. Tuy nhiên, lửa đích thị, theo bản
thể, tìm kiếm để tạo ra mô thức của chính nó trong vật chất, và ngược lại, điều
này, theo tuỳ thể, lại tất yếu dẫn đến phá huỷ nước. Thiết tưởng chúng ta không
cần nắm lấy tính chất vật lý của bốn nguyên tố, thay vì là lửa, chúng ta coi
nhiệt (heat) như một mô thức của năng lượng - nhiệt tìm cách “nhiệm sinh” hay
lan toả chính nó (năng lượng cao hơn), nó không tìm cách để biến đổi chất lỏng
thành các chất khí, mặc dầu đây là một hiệu ứng của năng lượng ở mức độ cao hơn
tác động vào năng lượng thấp hơn (Đây là kiến thức vật lý phổ thông?). Tuy
nhiên, trong lĩnh vực luân lý, thiết tưởng rằng nguyên lý về những tác động, phản
ứng mang tính tuỳ thể được thiết lập rất tốt. Aquinas lưu ý rằng những sự thiện
tương đối theo đuổi và những sự thiện này thường dính chặt với sự dữ (như trong
trường hợp những thú vui thân xác gắn liền với việc ngoại tình).
Việc dịch chuyển sang lĩnh vực
luân lý này diễn tả cho chúng ta thấy hành động của ý chí. Điều này có thể gây
ra sự dữ mang tính tuỳ thể, nhưng cũng là nguyên nhân gây ra sự dữ do một sự
khiếm khuyết, thiếu sót. Sự thiện liên quan đến các sự vật là để bị thống trị
hoặc được thống trị. Khi ý chí đưa ra những chọn lựa mà không quan tâm tới các
quy tắc thích hợp thì nó là nguyên nhân gây ra tội do khiếm khuyết. Có vẻ hai
điều này không phải là không có sự giao thoa mang tính tiềm thể. Người ngoại
tình đang tìm kiếm một điều tốt tương đối gắn liền với sự dữ, và đồng thời cho phép một sự hấp
dẫn không bình thường đối với khoái cảm thân xác lôi kéo người ấy (một sự khiếm
khuyết ý chí).
Chúng ta cũng cần khẳng định
lại rằng lý trí và ý chí của con người là hai điều kiện tạo thành tự do đích thật
và cấu thành hành vi luân lý. Lý trí, trước tiên, đưa đến nhận thức sự việc hay
vấn đề. Kế đến là sự lựa chọn của ý chí. Vì lý trí của con người có hữu hạn,
nên có thể đưa đến những nhận thức, sự hiểu biết không chính xác, nên, tất
nhiên, sự chọn lựa của ý chí cũng có những hạn chế. Thậm chí, ngay cả trường hợp
lý trí đưa tới nhận thức đúng, nhưng ý chí vẫn có thể bỏ thiện và hướng về sự dữ.
Đó là ý nghĩa của ý chí tự do. Và trong trường hợp đưa ra chọn lựa sai này, thì
lý trí là nguyên nhân gián tiếp, còn ý chí là nguyên nhân trực tiếp. Lý trí
truy tìm chân lý, trong khi ấy ý chí đi truy tìm sự thiện. Ý chí mới chính là yếu
tố quyết định sự chọn lựa. Ý chí mới là yếu tố phát sinh vấn đề sự dữ luân lý
nơi con người.
Ở đây chúng ta cũng nên biết
Aquinas phân sự dữ thành sự dữ vi phạm, sự dữ đã làm (malum culpae,
nghĩa đen sự dữ của tội) và sự dữ đau khổ (malum poenae, nghĩa đen sự dữ
của hình phạt). Sự dữ của tội hoặc sự dữ luân lý là sự dữ hoàn toàn trái ngược
với ý của Thượng Đế, vì lẽ tội đối nghịch với sự thiện tuyệt đối của Ngài.
Trong khi ấy, hình phạt hay sự dữ vật lý chỉ đối ngược, trái với sự thiện của
thọ tạo (xảy ra cho thọ tạo). Sự dữ hình phạt hoặc sự dữ thể lý là do Thượng Đế,
nguyên nhân tác thành ở đây cũng chỉ là nguyên nhân tuỳ thể hay nguyên nhân
gián tiếp. Sự dữ hình phạt là cần thiết để duy trì trật tự và công lý. Nếu
không có hình phạt, thì con người không nỗ lực hướng về sự hoàn thiện. Aquinas
gợi ý rằng, tội chính nó là một
sự dữ của hành động, trong khi đó hình phạt là một sự dữ của việc làm. Trong thực
tế tự nhiên, sự dữ của tác nhân theo sau sự dữ của hành động (chẳng hạn việc đi
khập khiễng theo sau và nguyên nhân bởi chân đau). Trái lại, ở những hữu thể ý
chí sự dữ của hành động theo sau sự dữ của tác nhân. Sự dữ của hành động này là
tội và sự dữ của tác nhân là hình phạt. Sự dữ là một sự khiếm khuyết sự thiện.
Giờ chúng ta đẩy đến câu hỏi:
“Liệu Thượng Đế là nguyên nhân của sự dữ hoặc tội”[35] (utrum Deus sit causa
peccati). Có hai cách mà một người có thể phạm tội: phạm tội hoặc làm cho người
khác phạm một tội. Liên quan đến phạm tội, tội phát sinh trong những điều tự
nhiên mà trong hành động không đạt được mục đích mà họ hành động, trong những
thứ luân lý, họ phạm tội khi thiếu ý chí. Hiển nhiên, cả hai điều này không thể
áp dụng cho Thượng Đế. Tuy nhiên, trong trường hợp thứ hai, “Liệu Thượng Đế có
là nguyên nhân khiến người khác phạm tội?” Câu hỏi khá phức tạp. Thượng Đế
không thể ngăn cản ý chí của người khác khỏi mục đích tối hậu của nó, bởi vì
chính Ngài là mục đích tối hậu. Thượng Đế không “hút” hoặc hấp lực sự dữ. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, Ngài không ngăn cản sự hút, sự hấp lực đối với
sự dữ.
Aquinas khẳng định, sự dữ không hiện hữu, nhưng đúng hơn là một
sự khiếm khuyết sự hiện hữu. Thông qua sự tách biệt giữa tiềm thể và hiện thể
nên có thể nói rằng sự dữ có nơi chúng ta không phải nguyên nhân do Thượng Đế,
mặc dầu Ngài dựng lên mọi sự. Tuy nhiên, điều này vẫn đặt ra vấn nạn: tại sao
Thượng Đế trọn tốt trọn lành lại cho phép sự dữ xảy ra? Điều này khác với việc
hỏi: làm thế nào Thượng Đế có thể đã tạo ra nó. Người khác cũng có thể hỏi tại
sao Thượng Đế trong quá trình sáng tạo lại cho phép tiềm thể này, ngang qua tiềm
thể, mà sự dữ có thể lẻn vào.
Aquinas đưa ra câu trả lời có thể được tìm thấy trong Summa Theologiae,
Ia, 2, 3, nơi mà triết gia đã trích
dẫn Augustine, và đồng ý với Augustine rằng nhờ sự trọn tốt trọn lành và toàn
tri của Thượng Đế, thì sở dĩ để cho sự dữ xảy ra vì Ngài có thể rút ra điều thiện
tốt hơn nhiều từ sự dữ đó. “Đây là một phần nhân lành vô bờ bến của Thượng Đế
khi Ngài cho phép sự dữ tồn tại, vì từ đó rút ra điều thiện.” Điều này là đúng
và không phải không thích hợp với Thượng Đế, nhưng nó đi ngược lại với sự tồn tại
của Thượng Đế trọn tốt trọn lành. Hơn nữa, điều này đang trình bày trên phương
diện triết học để trả lời vấn đề sự dữ, nhưng sau đó lại lôi câu trả lời lấy từ
phương diện thần học.
Vì Thượng Đế toàn năng và
Aquinas cho rằng chúng ta có linh hồn bất tử, nên thời gian chúng ta ở trên trần
gian chỉ là một khúc dạo đầu ngắn ngủi so với sự sống vĩnh cửu trường tồn ở đời
sau. Do đó, rất hợp lý khi nói rằng Thượng Đế có khả năng ban thưởng cho chúng ta sự tốt lành ở đời sau to
lớn đến mức ngay cả những điều dữ ở đời này chẳng đáng là gì để so sánh, tất cả
sự dữ ở đời này trở nên tầm thường để phải đối mặt với những sự cao vời sau
này. Tương tự như những đau đớn của người phụ nữ lúc lâm bồn, chẳng thấm thía
gì với niềm vui khi “mẹ tròn con vuông” sau đó. Dĩ nhiên, khi đối diện với những
sự dữ tồi tệ nhất trong thế giới thực, ý tưởng về điều tốt đẹp như thế ở đời
sau có vẻ khô khan, lạnh lùng, trừu tượng, và xa vời. Nhưng, đó là vấn đề cảm
xúc hơn là vấn đề của lý trí. Chẳng có gì chứng minh có hay không có một thế giới
tốt như thế, nhưng rất khó cho chúng ta để giữ cho tâm trí đứng vững khi đối mặt
với những đau khổ. Một người vô thần cũng không thể bác bỏ câu trả lời như thế
mà không đặt ra vấn nạn. Nếu khi nói rằng “Thượng Đế không hiện hữu, bởi vì tất
cả sự dữ không thể cứu vãn đang tồn tại (unredeemable evil), và sự dữ đang tồn
tại chắc chắn không thể cứu vãn, bởi vì không có Thượng Đế để cứu độ nó.” Và nếu
thế, câu hỏi này sẽ là một vòng tròn không lối thoát.
Hơn nữa, nhiều người lý giải
vấn đề sự dữ khi tiền giả định, Thượng Đế là một loại tác nhân LUÂN LÝ, Ngài có những bổn phận nhất định
mà (nhiều người cáo buộc rằng) Ngài đã thất bại, không thành công để thực hiện.
Tuy nhiên, cách suy nghĩ này là không hợp lý nếu dựa trên quan niệm của Thomas
Aquinas về Thượng Đế. Vì lẽ CHỈ các thọ tạo mới có những GIỚI HẠN mà chúng ta
được mô tả như là phải có những BỔN PHẬN LUÂN LÝ, nhưng THƯỢNG ĐẾ THÌ KHÔNG. Chẳng
hạn, vì chúng ta phụ thuộc vào người khác cho sự tốt lành, hạnh phúc của chúng
ta, và chiều ngược lại, họ cũng phụ thuộc vào chúng ta. Giữa chúng ta và họ có
những nghĩa vụ nhất định đối với nhau. Vì chúng ta có những tiềm thể nhất định
mà nhận ra chúng sẽ tốt cho chúng ta, những tiềm thể đòi hỏi một sự nỗ lực nhất
định nào đấy để có thể được hiện thực hoá, nên chúng ta có bổn phận, nhiệm vụ
thực thi những cố gắng, nỗ lực đó…etc. Tuy nhiên, Thượng Đế như Hành Động Thuần
Tuý và Hữu Thể Tự Hữu, Ngài không phụ thuộc vào những bổn phận luân lý này,
không có những tiềm thể, hay những giới hạn, và vì thế, không có bất cứ lý do hay sự hợp lý để gợi ý rằng, Thượng Đế hoặc có, hoặc thiếu nhân đức luân lý này, hay nhân đức luân lý kia, hoặc đã sống theo, hoặc thất bại để sống theo ràng buộc luân lý này
hay ràng buộc luân lý kia. Mặc dầu chúng ta nói rằng Thượng Đế có lý trí và ý
chí (nếu phải nói chính xác hơn, chúng ta chỉ làm phương pháp loại suy giữa lý
trí và ý chí của con người với Ngài) nên đã giả thiết rằng Ngài, cách nào đấy,
là “ngôi vị” hơn là một vị thần linh không ngôi vị như thấy trong các tôn giáo
Phương Đông. Do vậy, Thượng Đế không phải là “một con người” theo nghĩa như
chúng ta là, với tất cả những giới hạn mà chúng ta ngụ ý, ám chỉ.
Ở đây chúng ta cũng thấy sự
thiếu sót là không để ý tới sự dữ tự nhiên. Rõ ràng rằng ý chí tự do có thể là
nguyên nhân của sự dữ luân lý, vì những bước chân tội lỗi của một cá nhân thông
qua những chọn lựa sai, chọn lựa tồi đến những đứa trẻ vô tội chết vì bệnh tật,
động đất vẫn chưa được trả lời đầy đủ. Câu trả lời được tìm thấy trong Summa
Theologica cũng có khả năng giải quyết vấn đề này – cho phép một điều thiện
lớn hơn được nảy sinh, nhưng đó là ở mức độ cho phép của thần linh, nhưng không
giải thích nguyên nhân.
Kết luận
Chúng ta đã tìm hiểu một số
lý chứng của Aquinas để biện giải cho vấn đề sự dữ liên quan đến sự hiện hữu của
Thượng Đế, mục đích những trực giác, những cảm nhận của chúng ta hiểu hơn về những
nỗi đau, những sự khốn khó chúng ta thấy trong nhiều hoàn cảnh. Cách tổng quát,
chúng ta biết có hai loại sự dữ chung chung: tự nhiên và luân lý. Hai sự dữ này
liên quan đến công cuộc tạo dựng và mục đích của Thượng Đế về mục đích sự hoàn
hảo của vũ trụ. Nếu không có khả thể về sự hoàn hảo này, chúng ta sẽ không thể
kinh nghiệm sự phát triển theo thứ bậc về những sự thiện, sự tốt lành trong vũ
trụ, như là sự tất yếu cho sự hoàn hảo tốt nhất của vũ trụ, và lý giải tại sao
Thượng Đế cho phép bản chất của mỗi sự vật có thể “rơi” ra khỏi bản chất riêng
của chúng. Tiếp đến, chúng ta sẽ tìm hiểu xem Irenaeus đã có những luận lý giải
thích vũ trụ trong tổng thể như thế nào?
IV. THẦN LÝ HỌC CỦA IRENAEUS
Thậm chí trước Augustine và hẳn
nhiên trước rất xa Thomas Aquina, Irenaeus (130–202 A.D) đã đưa ra một giải
pháp khác đối với vấn đề sự dữ. Irenaeus đã đưa ra cách trả lời cho vấn nạn sự dữ trong truyền thống
Kitô giáo. Tư tưởng của Irenaeus nằm trong truyền thống tư tưởng của các Giáo
Phụ nói tiếng Hy Lạp của Kitô giáo. Theo truyền thống Irene, con người được tạo
dựng trong hai giai đoạn, hai bước: Bios (sự sống hữu cơ) và Zoe (sự sống tinh
thần). Triết gia đã phân biệt hai trạng thái hay hai giai đoạn của việc sáng tạo
nhân loại.[36]
Tình trạng đầu tiên, giai đoạn
bios là sự sáng tạo vũ trụ vật chất và sự sống. Giai đoạn này tiếp tục với sự
sáng tạo con người, một hữu thể sống có khả năng đi vào tương quan với Thượng Đế.
Con người được tạo dựng như là những động vật lý trí được phú ban khả năng để
phát triển tinh thần và đạo đức không bị giới hạn. Con người ở giai đoạn này
không phải là tình trạng hoàn hảo của Adam và Eva trước khi Sa Ngã như truyền
thống của Augustine, nhưng là những thụ tạo chưa trưởng thành trọn vẹn. Họ đang
ở giai đoạn đầu của một tiến trình dài trong sự phát triển. Giai đoạn này là sự sáng tạo con người theo
HÌNH ẢNH của Thượng Đế.
Giai đoạn hai của tiến trình
sáng tạo là giai đoạn hiện đang diễn ra. Con người đang dần dần được biến đổi
thông qua những đáp trả tự do của chính họ từ tình trạng là những động vật có
lý trí đến tình trạng “con của Đấng Tối Cao.” Giai đoạn này con người đạt được
sự tốt lành và giá trị nhân phẩm. Đây là phẩm chất của Zoe hoặc sự đạt được
“như Đấng Tối Cao.”
Chính Irenaeus đã dựa theo
sách Khởi nguyên 1:26 để diễn tả hai tình trạng của con người. Tình trạng
đầu tiên được dựng nên “theo hoạ ảnh/hình ảnh” của Đấng Tối Cao, và đến giai đoạn
hai “giống như” Đấng Tối cao. Tư tưởng chính yếu của Irenaeus là theo ý định, kế
hoạch của Đấng Tối Cao, thì thế giới, vũ trụ này là môi trường để con người
tăng tiến. Thông qua môi trường của thế giới này, con người đạt tới tầm mức
sung mãn nhất, từ tình trạng loài người có lý trí vươn lên tình trạng là con. Sự
tăng trưởng này đòi hỏi một tiến trình lâu dài trong môi trường phù hợp. Môi
trường phù hợp là được thanh luyện để đưa ra những chọn lựa đúng giữa thiện và
ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Từ đó, con người có thể sử dụng sự tự do của
mình để hoàn thiện ơn gọi của mình. Đó là cách Irenaeus giải thích sự hiện hữu
của sự dữ luân lý.
Vượt lên trên những gì của
chính Irenaeus, nếu chúng ta đặt câu hỏi tại sao con người, lúc ban đầu, lại được
tạo dựng như là những hữu thể không hoàn hảo và chưa trưởng thành hơn là những
hữu thể hoàn hảo? Câu trả lời sẽ tập trung vào giá trị tích cực của sự tự do
nơi con người. Hai gợi ý tương hỗ lẫn nhau được đưa ra. Gợi ý đầu tiên là tuỳ
thuộc vào khả năng phán đoán của trực giác mà một hành động tốt lành của con
người được thực hiện với sự tự do và những chọn lựa luân lý có trách nhiệm
trong những tình huống cam go và nhiều cám dỗ từ thực tế. Chọn lựa này mang giá
trị nội tại nhiều hơn một sự tốt đã được tạo ra sẵn mà không có sự tham dự tự
do của tác nhân mang tính con người, thậm chí, có lẽ còn mang giá trị vô hạn.
Trực giác để đưa ra chọn lựa một hành động tốt này cho thấy việc tạo dựng của
con người, không phải ở trong một tình trạng hoàn hảo, nhưng ở trong tình trạng
chưa hoàn hảo mà từ đó con người có thể vượt qua sự khó khăn về luân lý để hướng
tới sự nhân bản hoá viên mãn đích thực.
Gợi ý thứ hai là nếu con người
ban đầu đã được tạo dựng trong sự hiện diện trực tiếp của Đấng Tối Cao, Đấng là
vô hạn về toàn năng, toàn tri, vĩnh cửu, trọn tốt trọn lành…etc, thì con người
sẽ không có sự tự do đích thực trong tương quan với Đấng tạo dựng ra họ. Con
người được thành hình từ bên trong và như thành phần của một vũ trụ tự lập từ
bên trong, ở đó Thượng Đế không hiển nhiên kiểm soát, nhưng Ngài có thể được nhận
biết thông qua sự đáp trả mang tính diễn giải của Đức Tin.[37] Vì thế, tình trạng của
con người là một sự căng thẳng, một sự giằng co giữa sự ích kỷ tự nhiên phát
sinh từ bản năng sinh tồn và những lời mời gọi, cả về phương diện luân lý cũng
như tôn giáo, để vươn lên khỏi sự quy ngã (self-centeredness) của con người.
Trong khi thần học của Augustine nhìn sự hoàn hảo của con người như nằm ở trong
quá khứ xa xăm, trong tình trang nguyên thuỷ đã bị mất từ lâu đời bởi sự sa ngã
của nguyên tổ loài người, thì thần học của Irenaeus lại nhìn sự hoàn hảo của
con người như nằm ở trước mắt chúng ta, hướng về tương lai, ở cuối cùng của một
chặng đường dài và là một tiến trình lâu dài, gian khó của công trình sáng tạo
theo dòng thời gian.
Từ những quan tâm trên, câu
trả lời cho việc truy vấn về nguồn gốc của sự dữ luân lý theo thần học của
Irenaeus là một điều kiện cần cho sự sáng tạo con người. Sự hiểu biết hoặc tri thức của con người có một khoảng cách so với Thượng Đế ở trong một tình trạng
mà một người có sự tự do đích thật trong tương quan với Đấng Tạo Dựng và có thể
tự do phát triển, trong việc đáp lại sự hiện diện không cưỡng ép của Đấng Tạo Thành, hướng tới sự
thành toàn của chính con người như là một người con của Thượng Đế.
Sau khi đã xem qua sự lý giải
về bản chất của con người với hai tình trạng của con người, bây giờ chúng ta
quay trở lại vấn đề của đau khổ, vấn đề của sự dữ. Mặc dù phần lớn sự đau khổ
thực sự của con người là do sự lạm dụng tự do, nhưng vẫn còn những nguồn gốc khác nữa của nỗi đau mà
hoàn toàn độc lập với ý chí của con người. Chẳng hạn, những vấn đề liên quan đến
sự dữ tự nhiên: dịch bệnh, động đất, bão tố, lũ lụt, hạn hán, và những vụ cháy rừng. Trong thực tế,
thông thường không thể vạch ra ranh giới giữa sự đau khổ mà nguyên nhân đến từ sự độc ác và
điên khùng của con người VỚI những đau khổ xảy đến cho nhân loại từ bên ngoài.
Cả hai, đến từ bên ngoài hoặc bên trong do con người gây ra cho nhau, đều trộn
lẫn, hoà vào với nhau từ kinh nghiệm rất đời thực của chúng ta.
Tuy nhiên, mục đích hiện thời
của chúng ta, điều quan trọng cần phải biết phạm trù sau, sự đau khổ đến từ bên
ngoài, thực sự hiện hữu. Sự dữ này dường như được thiết lập trong chính cấu trúc của thế giới. Để trả lời
cho vấn đề sự dữ thiên nhiên, nếu được tiến hành một cách thận trọng, khôn
ngoan, Thần lý học sẽ đi theo hình thức phủ định để đưa ra lời giải đáp. Không
thể biểu tỏ theo lối khẳng định rằng mỗi nỗi đau của con người như là để phục vụ
cho mục đích tốt lành của Thượng Đế. Chúng ta không thể viện dẫn định đề: Thượng
Đế có thể rút từ sự dữ ra sự lành, hay có thể viết thẳng trên những đường cong.
“Các anh định làm điều dữ cho tôi, nhưng Thượng Đế lại định cho nó thành điều tốt”
(St 50:20).
Mặt khác, dường như có thể chứng
minh rằng mục đích mang tính Thần Linh, như được hiểu trong thần học của
Irenaeus, không thể được chuyển tiếp vào trong một thế giới mà được thiết kế
như một thiên đàng mang tính khoái lạc lâu bền.[38]
Tiền đề thiết yếu, quan trọng
cho luận lý của Irenaeus là quan tâm tới bản chất về mục đích của Thần Linh
trong việc sáng tạo vũ trụ. Giả định thông thường của các triết gia hoài nghi
là con người được xem như một sự sáng tạo viên mãn và mục đích của Thượng Đế
trong việc sáng tạo vũ trụ là cung cấp một nơi ở thích hợp cho thọ tạo đã được
tạo dựng đầy đủ này. Bởi vì Đấng Tối Cao là trọn tốt, trọn lành và là tình yêu,
nên vũ trụ mà Ngài tạo dựng cho con người sinh sống, một cách tự nhiên, và sẽ
phải là thoải mái và tốt nhất có thể. Có thể tưởng tượng sự tương tự như khi
chúng ta làm một cái gì đó cho con vật mà ta quý mến trú ẩn. Chẳng hạn làm một cái lồng cho con chim, một
cái nhà nhỏ cho con chó. Tuy nhiên, trong thực tế, bởi vì thế giới nơi chúng ta
đang sống có nhiều đau khổ, khó khăn, nguy hiểm luôn rình rập, tai hoạ luôn có
thể ập tới bất cứ lúc nào, nên có thể kết luận rằng vũ trụ này không thể được
sáng tạo bởi một vị thần linh toàn năng và trọn tốt trọn lành.[39]
Tuy nhiên, theo Thần lý học của
Irenaeus, mục đích của Thượng Đế không phải là sáng tạo một thiên đường nơi con
người sẽ hưởng thụ sự vui thú, khoái lạc tối đa và sự đau khổ tối thiểu. Thay
vào đó, thế giới được xem như là một nơi, một chiến trường, nơi đó các tâm hồn hoặc con người là những
thọ tạo tự do, với nhiệm vụ và những thách thức cho sự hiện hữu của họ trong một
môi trường chung, làm thế nào để trở thành “con của Đấng Tối Cao” và “là những
người thừa hưởng gia nghiệp sự sống đời đời.” Với tất cả những lồi, những lõm của
nó, thế giới mà chúng ta đang sống là một môi trường, ở giai đoạn thứ hai với
nhiều khó khăn hơn, giai đoạn của quá trình sáng tạo đang diễn ra.
Quan niệm này về vũ trụ (dù
có hay không được đặt trong khuôn khổ thần học của Irenaeus) có thể được hỗ trợ
bởi phương pháp của “giả định nghịch chiều thực tế” (counterfactual
hypothesis). Giả định trái với thực tế, giả thiết rằng vũ trụ này là một thiên
đường, nơi mà mọi đau đớn và khốn khổ đều bị loại trừ. Giả định về vũ
trụ không có đau khổ sẽ đưa đến những hệ quả vô cùng sâu rộng. Chẳng hạn, không
ai làm hại ai: con dao của kẻ sát nhân sẽ trở thành giấy hoặc viên đạn sẽ biến
vào không khí, két sắt trong ngân hàng nếu bị mất cắp một 100 tỷ sẽ có một trăm
tỷ khác một cách thần kỳ. Gian lận, lừa dối, âm mưu lừa lọc và phản quốc sẽ
không gây bất cứ tai hoạ nào cho xã hội. Một nơi mà không có ai bị chấn thương
vì tai nạn: người leo núi, thợ sửa nhà, trẻ con leo trèo có rơi xuống cũng
không bị hề hấn gì. Người lái xe lạng lách và quá tốc độ sẽ không bao giờ gặp
tai hoạ. Con người không cần phải làm việc, vì lẽ chẳng có nguy hại gì có thể
gây ra nếu con người không làm việc. Nếu một thế giới là thiên đàng, thì sẽ chẳng
có nhu cầu gì thực sự và cũng chẳng có bất cứ nguy hiểm gì.
Nếu một thế giới như thiên
đàng, thì một loạt điều chỉnh liên tục cần phải được thực thi mỗi khi cá nhân
đưa ra một hành động nhằm bảo toàn không có đau khổ, không có bi thương, và như
thế, thiên nhiên sẽ phải làm việc theo “những sự quan phòng đặc biệt.” Thay vì
phải chạy theo những quy luật chung đã được thiết lập, nơi mà con người phải học
để chấp nhận, đón nhận những hình phạt đau khổ và cái chết, thì thiên nhiên phải
cực kỳ linh động. Vì lẽ, mỗi cá nhân sẽ có những chọn lựa thay đổi liên tục. Sẽ
chẳng có bất cứ lĩnh vực khoa học nào và sẽ chẳng có quy luật tự nhiên nào bền
vững, lâu dài để nghiên cứu. Như thế, chẳng có bất cứ quy luật khách quan nào.
Khi không có những quy luật, môi trường khách quan theo những quy luật được thiết
định riêng cho chính nó, cuộc sống sẽ trở nên như một giấc mơ, nhưng sẽ chẳng
có ý nghĩa gì, vì chẳng có gì phải tuân giữ, chẳng có gì phải theo đuổi để đạt
được nó.
Chẳng hạn, nếu quan niệm về
việc làm tổn hại một ai đó không nằm trong ý niệm là một điều sai trái, vì
trong một thiên đàng đầy hoan hỷ, khoái lạc, sẽ không có bất cứ hành động nào
là sai trái, thì không có những hành động nào được gọi là đúng để phân biệt với
hành động sai, quan niệm về luân lý đạo đức không còn chỗ đứng. Sự can đảm và
lòng dũng cảm sẽ chẳng còn môi trường để tồn tại, vì không có bất cứ sự nguy hiểm,
khó khăn nào tồn tại. Quảng đại, tốt bụng, tình huynh đệ, sự cẩn trọng, lòng vị
tha, và các quan niệm đạo đức khác sẽ không tồn tại. Như thế tiền giả định một
cuộc sống trong môi trường khách quan không thể được thành hình. Hậu quả, nếu
có một thế giới như thế tồn tại, thì có thể thúc đẩy niềm vui, cũng sẽ không
đón nhận được sự hưởng ứng, và chẳng có bất cứ sự phát triển về phẩm chất luân
lý của những cá nhân con người. Trong việc liên quan đến mục đích này, chúng ta
có thể nói đây là một thế giới tồi tệ nhất trong tất cả các loại thế giới khả
thể. Do vậy, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng một thế giới như được tạo dựng
hiện nay với sự phát triển của các hữu thể, là con người, với ý chí tự do là
thích hợp nhất. Một thế giới được vận hành theo những quy luật chung và đồng thời
phải chấp nhận những khó khăn, đau khổ. Nếu một thế giới không ẩn chứa những
gian truân, trừ sự đóng góp đáng kể của con người, thế giới này nếu không có những
đau khổ này, thì cũng phải có những đau khổ khác. Hiểu được chân lý này, nếu có
những tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thì con người được mời gọi đón nhận với
thái độ cộng tác vào sự sáng tạo để đi đến sự hoàn hảo hơn. Đó là câu trả lời của
Irenaeus đối với vấn nạn: tại sao có sự dữ thiên nhiên?
Sự dữ thiên nhiên phải tồn tại
trong một thế giới với những đặc tính chung, với những quy luật tự nhiên, từ đó
mới có thể là một môi trường hiệu quả để con người thực hiện công việc sáng tạo
của Thượng Đế đặt để nơi con người, hầu con người với những chọn lựa tự do của
chính họ, tự biến đổi dần dần
từ tình trạng con người lý trí thành “con của Đấng Tối Cao.” Về điểm này, Thần
lý học của Irenaeus đẩy đến ba cách liên quan đến sự sống sau khi chết.
Trước tiên, mặc dầu có nhiều
điều thiện được rút ra khỏi điều dữ thông qua một phản ứng lại của con người đối
với vấn đề sự dữ, nhưng cũng có nhiều trường hợp đưa ra hiệu quả ngược lại,
càng tồi tệ hơn. Đôi khi những khó khăn, gian truân làm duyên cớ cho những tính cách phá phách trở
nên hiền dịu, gian khó khơi lên lòng dũng cảm và lòng vị tha. Tai hoạ sinh ra
lòng kiên nhẫn và sự kiên định về luân lý. Tuy nhiên, nhiều đau khổ lại trở
thành nguy hiểm, tạo ra những tính cách hung bạo hơn, dẫn đến sự oán hờn, sợ
hãi, dựa dẫm, ích kỷ và làm suy thoái nhân cách. Vì vậy, dường như bất cứ mục
đích thần linh nào của linh hồn thực thi đang khi ở trong lịch sử trần gian
này, phải tiếp tục vượt quá đời sống này, nếu muốn đạt một sự thành công nhiều
hơn.
Thứ đến, nếu chúng ta đặt câu
hỏi về tối hậu, liệu công việc của một người đang có đóng góp đáng giá, tương xứng với tất
cả những đau khổ và khốn khó của đời người hoặc những bất công mà một người phải
hy sinh gánh vác, có
được đền bù xứng đáng không? Câu trả lời phải là điều liên quan đến một thứ tốt
đẹp lớn hơn trong tương lai để bù đắp lại cho sự công bằng với tất cả những gì
đã xảy ra trên hành trình tiến về tương lai. Phải có một niềm vui vô tận và cuộc
sống viên mãn vượt xa sức tưởng tượng của chúng ta trong thời hiện tại, đó là sự
viên mãn của tình yêu Đấng Vô Biên hướng về con người, sẽ làm cho mọi nỗi đau
và cực nhọc trên cuộc hành
trình dài của kiếp lữ hành trần gian trở nên xứng đáng, cả ở trong thế gian này
hay những thế giới khác.
Thứ ba, suy tư Thần lý học kiểu
Irenaeus không chỉ là một học thuyết tích cực về sự sống sau khi chết, nhưng,
chừng nào thuyết Thần lý học này hoàn tất, cũng đòi hỏi rằng tất cả nhân loại
vào thời điểm cuối cùng sẽ đạt được tình trạng thiên đường. Lý thuyết về Thần
lý học theo dạng Irenaeus đã đụng phải nhiều chỉ trích. Một số thần học gia
Kitô giáo đã phản đối việc bác bỏ những học thuyết truyền thống như sự sa ngã
và án phạt sau cùng. Các nhà phê bình triết học đã giải thích, loại suy tư này
đưa ra một số điều hợp lý rằng thế giới tạo ra con người, tuy không phải là một
thiên đàng, nhưng nó lại không giải thích hợp lý hoặc làm sao trả lời cho vấn đề
đòi công bằng cho những đau khổ của con người, chẳng hạn những mất mát, đau khổ
tàn khốc của sự kiện những người Do Thái bị hại ở Holocaust. Tuy nhiên, những
người khác chỉ cho thấy rằng Thần lý học này thực sự thành công trong việc thuyết
phục tại sao thế giới của Thượng Đế, như một thế giới liên quan đến bất tất và
tự do, một thế giới như thế khả dĩ phải xảy ra, mặc dầu lịch sử nhân loại, lịch
sử con người sẽ tốt hơn nếu những sự kinh hoàng như thế ước gì đừng bao giờ xảy
ra. Cũng có một sự bất đồng không được giải quyết nếu theo thuyết Thần lý học này, liệu một quá trình sáng tạo có quá nhiều
đau khổ, mặc dầu có thể dẫn đến một điều thiện hảo vô tận, thì có nên được nói
là diễn tả sự tốt lành của Thượng Đế không.
V. THẦN LÝ HỌC TIẾN TRÌNH
Dẫn nhập
Nếu với quan niệm Thượng Đế
trọn tốt trọn lành, toàn năng, toàn tri, nhưng lại cho phép sự dữ hiện hữu, mà
quan niệm về hữu thần trong các tôn giáo độc thần, nhất là Kitô giáo, đã áp đặt
những ý niệm lý tưởng về Thần Linh của Hy Lạp vào Thượng Đế của Do Thái: Đấng Tối
Cao Tuyệt Đối, vừa tiên thiên vừa nội tại. Để trả lời cho vấn nạn sự dữ, các
nhà tư tưởng đã đẩy những tác nhân luân lý, là do ý chí tự do của con người, chứ
không phải Thượng Đế, là nguyên nhân của sự dữ. Thần Linh không chịu trách nhiệm
gì về sự dữ luân lý và theo một nghĩa nào đó, một thế giới được tạo dựng với sự
dữ luân lý còn tốt hơn một thế giới thiếu vắng sự dữ này hoặc thậm chí khả thể
xảy ra sự dữ luân lý. Tuy nhiên, về mặt logic chúng ta có thể thấy hợp lý,
nhưng trong thực tế sự dữ hiện hữu vẫn luôn là một thách đố, khó hiểu tại sao một
Thượng Đế như thế lại cho phép sự dữ xảy ra. Làm thế nào một vị Thần Linh biết
rõ tất cả những điều tốt trong tương lai lại tạo ra những tác nhân mà là nguyên
nhân dẫn đến sự dữ và vị Thần Linh ấy lại tạo ra chúng biết rằng chúng sẽ gây
ra sự dữ? Nếu thế, theo David Hume, ít nhất, sự hiện hữu của sự dữ không biện
minh cho một niềm tin vào một Thượng Đế hằng quan tâm, săn sóc thọ tạo Ngài dựng
nên. Từ đó, những năm gần đây, nền Thần học và triết học Tiến Trình hoặc Quá
Trình (Process philosophy) đã cố gắng đi giải thích vấn đề sự dữ dưới một cách
thức khác. Chúng ta nên lược qua quan niệm về Thần lý học Tiến Triển ở đây hầu có những cái nhìn khác nữa liên
quan đến vấn đề sự dữ.
Thượng Đế không cần hoàn hảo
Thần học Quá Trình (Process
theology) là một xu hướng phát triển thời hiện đại với một số triết gia, thần học
gia Kitô giáo. Họ đã chấp nhận và điều chỉnh suy tư của họ dựa trên nền tảng
các tác phẩm của Alfred North Whitehead (1861-1947) và Charles Hartshorne (1897-2000).
Tư tưởng chính của trường phái này tiếp cận vấn đề sự dữ qua việc thay đổi quan
niệm về thần. Quan niệm này không phù hợp với những hệ thống tín điều niềm tin
tôn giáo độc thần của các tôn giáo Phương Tây. Nếu xét một cách nào đấy, như
Yoram Hazony, triết gia người Israel, nói rằng cần có sự điều chỉnh trong quan
niệm về Thượng Đế như Đấng hoàn hảo thì sẽ giải quyết được vấn đề sự dữ và
“chuyện gì nếu Thượng Đế Không hoàn hảo.” [40] Đừng nghĩ Ngài như là một
hữu thể hoàn hảo, trong bài báo vào tháng 11 năm 2012, cho mục “The Stone,” một
chuyên mục định kỳ của tờ báo New York Times, tập trung vào triết học, Hazony
viết:
Các triết gia đã dành nhiều thế kỷ cố gắng
để làm cho quan niệm Thượng Đế trọn tốt trọn lành trở nên một quan niệm nhất
quán, và rồi cố gắng làm cho quan niệm này tương thích với Kinh Thánh. Tuy
nhiên, cho đến bây giờ rất rõ ràng rằng điều này là không dễ… Tôi sẽ khởi đầu với
điều này: Có thực sự cần thiết để nói rằng Thượng Đế là “một hữu thể hoàn hảo,”
hoặc hoàn hảo, có phải là vấn đề? (God is a “perfect being,” or perfect at all,
for that matter?). Tôi có thể nói tốt nhất rằng các tác giả Kinh Thánh tránh khẳng
định bất cứ điều nào như thế. Và với một lý do tốt lành.
Toàn bộ ý niệm về Thượng Đế
như một hữu thể hoàn hảo xuất hiện, đến rất muộn thời, mãi sau này của chủ thuyết
hữu thần, khi các tư tưởng gia Kitô giáo cố gắng mang những bản văn Kinh Thánh
hợp với truyền thống triết học Hy Lạp, trong những triết gia Hy Lạp, ta phải kể đến Parmenides và Plato, đã bàn luận đến hữu thể hoàn hảo. Tuy
nhiên, theo Yoram Hazony, đây là một quan niệm sai lầm, vì lẽ “bạn không thể
hoàn hảo điều gì đó bằng cách tối đa hoá tất cả những nguyên lý không ngừng cấu
thành lên nó.” Nói cách khác, và như thường lệ, đó là lỗi của các triết gia.
Chẳng hạn, chúng ta có thể
nhìn vào câu Kinh Thánh Thượng Đế mạc khải danh của Ngài cho Môisen từ bụi gai
cháy trong sách Xuất Hành. Ngài mặc khải “Ta là Đấng Ta là” hoặc có người dịch
“Ta là Đấng Hằng Hữu” (I am that I am). Danh xưng này phù hợp với bản chất hoàn
hảo và bất biến. Cách dịch này phần nào diễn tả sự ảnh hưởng của tư tưởng triết
học Hy Lạp. Nhưng từ tiếng Do Thái, thì câu trả lời của thần linh đối với câu hỏi:
“Danh Ngài là gì?” phải là: “Ta sẽ là Đấng Ta sẽ là” (I will be what I will
be). Cách dịch hợp lý sẽ phải là động từ ở thời không hoàn hảo (imperfect verb
tense). Điều này sẽ nói lên sự chưa hoàn tất, đang tiến triển, và thay đổi. Điều
này cũng lý giải tại sao Thượng Đế trong Kinh Thánh Cựu Ước dường như không
hoàn hảo, mang tính con người, võ đoán, và không phải vị thần linh hoàn hảo như
chúng ta vẫn quan niệm. Người Do Thái xưa đã không tin như thế. Vì thế, nếu Thượng
Đế của Sách Xuất Hành và Kinh Thánh trình bày một số những sự không hoàn hảo của
Thượng Đế, vậy Ngài như thế nào?
Thượng Đế của Kinh Thánh Cựu Ước có nghĩa
là một sự hiện thân của cái gì là, của thực tại chúng ta kinh nghiệm về Ngài…
Nó là niềm hy vọng rằng Thượng Đế là thành tín và công chính mà chủ thể đối với
niềm tin của Người Do Thái xưa: chúng ta hy vọng rằng, mặc dầu thực tại đầy khó
khăn của cuộc sốngthường nghiệm hằng ngày, nhưng sau cùng vẫn có một sự tín
thành và công bình thống trị thế giới của chúng ta.
Nếu Thượng Đế như là một lời
hứa và một hy vọng hơn là một Hữu Thể hoàn hảo, hẳn nhiên, sự thay đổi lớn lao
sẽ xảy ra. Hazony cho rằng các triết gia Kitô giáo thời đầu đã áp đặt niềm tin
hữu thần của họ vào các phạm trù triết học Hy Lạp, vì lẽ họ sợ rằng nếu một Thượng
Đế không hoàn hảo sẽ không hấp dẫn được nhiều người. Tuy nhiên, điều này có vẻ
không nhất thiết đối với Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta có thể liệt kê ra một số
nơi trong Kinh Thánh trình bày Thượng Đế là có và là không phải là nguyên nhân
của sự dữ.
* Thần linh không phải là nguyên nhân của
sự dữ, có thể xem:
+ Đệ Nhị Luật 32:4
“Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo,
vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay. Chúa tín thành, không mảy may gian dối,
Người quả là chính trực công minh.”
+ Thánh Vịnh 19:7–8
Từ
chân trời này, thái dương xuất hiện,
rồi chuyển vần mãi đến chân
trời kia,
chẳng có chi tránh khỏi ánh
dương nồng.
Luật pháp CHÚA quả
là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý CHÚA thật
là vững chắc, cho người dại nên khôn.
+ Thánh Vịnh 145:9
“CHÚA nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.”
+ Mikha 7:2
“Kẻ hiếu trung đã biệt dạng khỏi xứ ;
không còn người lương thiện chốn dương gian.
Tất cả đều đợi dịp gây đổ máu,
người này đặt lưới dò hãm hại người kia.”
+ Giacôbê 1:13
Khi bị cám dỗ, đừng ai nói : “Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ”, vì Thiên Chúa
không thể bị cám dỗ làm điều xấu , và chính Người cũng không cám dỗ ai.
* Thần linh là nguyên nhân của tất cả sự Thiện và sự Dữ.
+ Isaia: 45:7
Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ.
Ta là ĐỨC CHÚA, Ta làm nên tất cả.
+ Giêremia 18: 1
Và bây giờ, ngươi hãy nói với người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng :
ĐỨC CHÚA phán như sau : Này chính Ta đang tạo ra tai hoạ nhằm trừng phạt các
ngươi, đang tính kế chống các ngươi.
+ Ai Ca 3:38
Chẳng lẽ mọi điều lành điều dữ không xuất hiện do miệng Đấng Tối Cao?
+ Ezekiel 20:25
Hơn nữa, chính Ta cũng ban cho chúng các quy tắc bất hảo và những phán
quyết khiến chúng không thể dựa vào đó mà sống được.
+ Amos 3:6
Giả như tù và rúc lên trong thành, lẽ nào dân lại không sợ hãi? Giả như tai
hoạ xảy ra trong thành, lẽ nào lại không do ĐỨC CHÚA?
Thế nên, Kinh Thánh không
trình bày một Thượng Đế không liên quan đến sự dữ. Ngài vừa là nguyên nhân vừa
là không. Từ đó, trong phần này, chúng ta có thêm một lối nhìn, một lối giải
thích nữa về sự dữ, có vẻ khá mới nhưng sẽ “không tổn hại gì” như câu cuối cùng
trong bài báo của Hazony.
Quan niệm Thượng Đế theo Triết học Tiến triển
Trước tiên, chúng ta phải khẳng
định ngay từ đầu rằng học thuyết triết học tiến triển này không phải mới hoàn
toàn, nhưng nó được quan tâm nhiều những năm gần đây do phát kiến của những vấn
đề khoa học liên quan đến vật lý, đến vũ trụ, nên nếu dựa vào lý thuyết này
giúp chúng ta có những lối suy tư khả dĩ hợp lý. Chúng ta có thể nói rằng triết
học tiến triển có thể lui về với triết gia Hy Lạp, Heraclitus, sống khoảng thế
kỷ 5 BC, được xem như là sáng lập ra lối tiếp cận triết học Tiến Trình.[41] Và tư tưởng này lại trở
nên phổ biến ở thế kỷ 19 vào lúc bình minh của học thuyết tiến hoá. Tư tưởng
này ảnh hưởng lên cả triết lẫn các thần học thời kỳ này. Tư tưởng cho rằng Thượng
Đế không toàn năng theo nghĩa cổ điển như là một hữu kiểm soát, khống chế mọi sự,
vì theo các triết gia Quá Trình, thực tại, không được tạo thành từ những bản thể
vật chất mà kéo dài theo thời gian, nhưng là những sự kiện được sắp xếp theo
chuỗi trật tự, mà tính kinh nghiệm trong tự nhiên. Vũ trụ được đặc trưng hoá bởi
quá trình và sự thay đổi được thực hiện bởi các tác nhân của ý chí tự do. Quyền
tự quyết là nét đặc trưng của mọi sự trong vũ trụ, không chỉ duy con người. Thượng
Đế và các thọ tạo cùng sáng tạo. Thần học tiến trình cho rằng Thượng Đế không
thể bị không giới hạn trong khả năng (cannot be unlimited) hoặc toàn quyền,
nhưng tương tác với một vũ trụ mà Ngài đã không sáng tạo ra, nên chỉ có thể ảnh
hưởng lên nó. Thượng Đế không ép buộc bất cứ điều gì phải xảy ra, nhưng đúng
hơn, chỉ tác động đến việc thực hiện ý chí tự do phổ quát này qua việc đưa ra
những khả thể.
Quan niệm này, coi thần linh
là một quá trình hơn là một thực thể hay thực tại. Thực tại của thần linh không
cố định, và như là một hữu thể vẫn đang tiến triển. Thần linh và các công trình
sáng tạo có bản chất lưỡng cực. Tất cả các thực tại hiện hữu đều có bản chất
tinh thần và vật chất. Với các phát kiến về lĩnh vực vật lý, đối với các triết
gia Tiến Trình, thì chủ thuyết hữu thần truyền thống không giải quyết, trả lời
hiển nhiên các phát kiến về vũ trụ hiện đại, nên đưa ra quan niệm mới này, khả
dĩ có thể đáp ứng được những phát kiến mới của ngành vật lý và vũ trụ. Các triết
gia này coi thần linh như một thực tại vĩnh cửu trường tồn (the everlasting
eternal entity). Thần linh là một tập hợp năng động của các sự kiện, sự năng động
này thấm nhập vào hết thảy thực tại. Thực tại tối hậu, theo thần học quá trình,
là sự sáng tạo không ngừng để tạo ra những sự thống nhất mới từ những sự đa dạng
của những thời điểm trước đó. Tuy nhiên, tính sáng tạo không phải là những gì
đó được thêm vào thực hữu, nhưng là khả năng sáng tạo nằm bên trong thực hữu.
Thực tại hiện tại hay thực hữu là một sự kiện nhất thời, mang tính sáng tạo. Nếu
thế, mỗi đợt sự kiện của các cơ hội thực hữu, sẽ hình thành lên một sự sống mới
trong vũ trụ, và tạo ra hoặc liên quan đến yếu tố mang tính sáng tạo hoặc
nguyên nhân tự nó. Một sự kiện hiện tại không bao giờ phụ thuộc hoàn toàn vào sự
kiện của quá khứ. Nó là một phần đã được quyết định, nhưng một phần được quyết
định bởi tương lai, vì hiện tại chính nó được dự báo bởi những sự kiện kế tiếp.
Một phần của tương lai lại đang thực thi khả năng. Hiệu quả kép này không tách
rời khỏi thực hữu đang hiện hữu, và vì thế, mỗi giây phút sáng tạo nhất thiết nắm
giữ một mức độ quyền lực nào đấy. Vì lẽ, thực hữu là sáng tạo (to be actual is
to be creative).
Tuy nhiên, theo suy nghĩ của
người viết, quan niệm triết học tiến trình này chỉ “mô tả” các hiện tượng vật
lý, mô tả dựa theo “quy luật” tự nhiên. Một đàng mô tả quy luật tự nhiên nhưng
lại bảo mọi sự vật phát triển tuỳ theo sự tự do của mọi hữu thể, nên vũ trụ hoặc
mỗi sự vật thiếu tính hướng đích, thiếu nguyên nhân cứu cành. Đàng khác, “mô tả
quy luật tự nhiên,” làm sao chúng ta mô tả, làm khoa học đối với những thứ tự
do, không theo quy luật. Do vậy, khi nói đến quy luật phải tiền giả định người
làm ra, thiết lập quy luật. Tuy triết học tiến trình có vẻ trả lời vấn đề sự dữ,
nhưng lại đụng phải vấn đề trái ngược với những gì khoa học đang làm. Ở đây chỉ
có thể trả lời, với những giới hạn của con người, sự dữ vẫn còn đó là một mầu
nhiệm.
Quan niệm về Thượng Đế của
triết học quá trình không giống với truyền thống chính yếu của Kitô giáo. Thượng
Đế là Đấng vừa tiên thiên, vừa nội tại. Ngài là Đấng sáng tạo và duy trì toàn
thể vũ trụ. Ngài tạo dựng vũ trụ từ hư vô (ex nihilo). Quyền năng của Ngài lên
các thọ tạo là không bị giới hạn. Tuy nhiên, với triết học quá trình, để cho
phép sự tự do của con người tồn tại và phát triển, Thượng Đế rút lại việc thực
thi quyền năng vô song của Ngài. Từ đó, hình thành nên một thực tại thọ tạo tự
trị từ trong nội tại của chúng, trong khi đó Thượng Đế lại không hành động để
đưa ra sự cưỡng ép, mà chỉ dõi theo để đáp lại những hành động tự do của thọ tạo.
Có vẻ thích hợp với một Thượng Đế quá yêu thương thọ tạo, và mãi mãi đi sửa sai
vì những hành động của thọ tạo?
Thần học tiến trình cũng cho
rằng Thượng Đế không hành động cưỡng ép, nhưng bằng cách “thuyết phục” và “dụ dỗ,”
nhưng trái ngược với quan niệm về sự giới hạn của thần linh. Trường phái này
cho rằng Thượng Đế thực thi khả năng thuyết phục hơn là kiểm soát, để trả lời
tính hướng đích, tính tất yếu của cấu trúc mang tính siêu hình học tối hậu của
thực tại. Ngài “bị ép” tuân theo những giới hạn được đặt để trong những quy luật
nền tảng của vũ trụ, vì Ngài không sáng tạo vũ trụ từ hư vô và thiết định những
cấu trúc cho nó, nhưng đúng hơn, vũ trụ là một tiến trình không ngừng sáng tạo,
cả thần linh cũng không ngừng tham dự vào quá trình sáng tạo này (quan niệm phiếm
thần). Ở đây, các triết gia, đặc biệt là Whitehead, trong một vài chỗ dường như
lại nói rằng những nguyên lý mang tính siêu hình tối thượng được thiết định từ
ban đầu bởi một quyết định từ nguyên thuỷ bởi Thượng Đế. Một số triết gia khác
của trường phái triết học quá trình lại cho rằng những nguyên lý tối hậu đó là
những điều tất yếu từ vĩnh cửu, không phải là vấn đề của thần linh. Chúng là những
luật chung chung tuyệt đối, đến nỗi không có chọn lựa nào khác cho những quy luật
này. Do đó, những quy luật này nằm bên ngoài phạm vi của ý chí Thượng Đế. “Thượng
Đế không ngừng việc kiểm soát các thọ tạo đơn giản bởi vì nó tốt hơn cho Ngài để
sử dụng khả năng thuyết phục, nhưng bởi vì nó cần thiết trong trường hợp Thượng
Đế không kiểm soát hoàn toàn các thọ tạo.”[42]
Trả lời vấn đề sự dữ
Nếu quan niệm về thần linh
như thế, làm thế nào các thần học gia Tiến Trình trả lời Vấn Đề Sự Dữ? Để khởi
động, khởi đầu tiến trình vĩnh cửu có thể “sáng tạo” một vũ trụ với nhiều hữu
thể tự do hữu hạn và bất cứ thế giới nào với nhiều hữu thể tự do hữu hạn thì phải
ẩn chứa khả thể của sự dữ. Mặc dù không nhất thiết phải có sự dữ cụ thể, nhưng
khả năng có những sự dữ là tất yếu. Thần linh có thể tác động đến tất cả các sự
kiện, nhưng chỉ như là thuyết phục. Không may mắn, theo quan niệm này, con người
phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn, vì lẽ có nhiều khả thể mở ra cho vấn đề sự dữ
hơn. Tệ hơn nữa, theo quan niệm cổ điển một Thần Linh toàn tri, Ngài biết hết mọi
sự tương lai, mà sự dữ vẫn luôn là một vấn đề nhức nhối, thì trong khi thần
linh theo quan niệm của triết học Tiến Trình, ngài không biết tương lai thế
nào, sẽ có nhiều khó khăn hơn. Vì lẽ, tất cả các sự kiện được thực thi bởi quyền
tự quyết, tương lai là không thể biết theo những nguyên lý, những quy luật.
[Tương tự trong một tổ chức không có người cầm đầu, mạnh ai người ấy làm…etc.]
Theo thần học tiến trình, sự
dữ có hai loại, tương phản với hai loại sự thiện. Nó liên quan nhiều đến phạm
trù cái đẹp hơn là luân lý. Một cơ hội thực hữu là một giây phút của kinh nghiệm,
và các giá trị mà kinh nghiệm có thể hiện thực là sự hài hoà và khát khao mãnh
liệt. Sự hội tụ của nhiều thành phần vào trong một sự hợp nhất mới phức tạp, một
khoảnh khắc mới của
kinh nghiệm, có thể nhiều hay ít hơn về sự hài hoà phong phú, và nhiều hay ít
hơn sự sinh động và mãnh liệt. Chừng nào sự hài hoà không đạt được, thì sự dữ
liên quan đến bất hoà (the evil of discord) xuất hiện. Whitehead nói rằng sự bất hoà này “là cảm
giác về sự dữ theo cảm thức chung chung, cụ thể là nỗi đau thể lý hoặc sự dữ
tinh thần, chẳng hạn như buồn chán, kinh hãi, căm ghét.”[43]
Bao lâu một khoảnh khắc của
kinh nghiệm thất bại để đạt được sự quan tâm cao nhất, thì xuất hiện một hình
thức khác của sự dữ, sự dữ về sự bị ngó lơ (the evil of needless triviality).
Theo một mức độ nào đấy, sự hài hoà và quyền lực vươn ra (harmony and
intensity) là xung đột với nhau. Vì lẽ để đạt tới một mức độ vươn cao hơn sẽ có
thể tạo ra sự phức tạp tăng lên, nên ảnh hưởng đến sự hài hoà. Do đó, hình thức
của sự dữ này hay hình thức của sự dữ kia, hoặc là bất hoà hoặc ngó lơ, là
không thể tránh khỏi trong tiến trình sáng tạo. Có lẽ, theo kinh nghiệm thông
thường, điều quan trọng hơn, phức tạp hơn, thường tạo ra những sự phong phú hơn
về kinh nghiệm, nhưng đồng thời cũng làm là nhiều sự đau khổ hơn. Vì thế, chúng
ta thấy, con người có nhiều phẩm chất hưởng thụ vượt xa các thọ tạo thấp hơn,
nên họ cũng phải chịu nhiều đau khổ về luân lý và tinh thần hơn đối với những hữu
thể thấp hơn, có những nỗi đau khổ đến nỗi họ phải tự tử, tước đoạt đi chính mạng
sống của mình, điều này không xảy ra đối với các thọ tạo thấp hơn. Vì lý do
này, sự dữ như thể một phần của tiến trình sáng tạo.
Theo quan niệm triết học và
thần học Tiến Triển, vũ trụ này như một tổng thể luôn tiến triển bởi tác động
không ngừng nghỉ của thần linh để làm cho tối đa sự hài hoà và quan tâm tới
nhau trong mỗi biến cố ở hiện tại, đồng thời tạo ra những khả thể mới cho sự
hài hoà và quan tâm tới nhau lớn hơn trong tương lai. Lực tác động từ thần linh
này được thực hiện hoá dựa trên nền tảng rằng sự thiện được sản sinh, nhưng
chưa vượt trội và đối với sự dữ đã được tạo ra và sẽ được tạo ra, vì sự xung khắc
giữa hài hoà và sự quan tâm. Vì lẽ, Thượng Đế đã đặt những sự mất trật tự, lộn
xộn không bị khuấy động từ nguyên thuỷ, thay vì thiết lập trong nó một trật tự
để đẩy đến những hình thức cao hơn của thực tại. Vì thế, Ngài phải chịu trách
nhiệm cho có những lôn xộn mất trật tự từ nguyên thuỷ và vẫn tiếp tục hoạt động
trong thực tại hữu hạn khi tiến về tương lai với cả hai khả thể về sự thiện và
sự dữ lớn hơn.
Thần lý học này dẫn đến hai
hướng chính sau. Một là nó tránh được vấn đề truyền thống về Thượng Đế toàn
năng, Ngài không phải là Đấng sáng tạo vũ trụ, nên không phải chịu trách nhiệm
cho những đặc tính của nó, nhưng là một phần căn bản của nó. Chính vũ trụ không
thể thay đổi cấu trúc căn bản của nó hay can thiệp trực tiếp để thay đổi những
chi tiết. Như thế, Thượng Đế không cần phải biện minh về việc cho phép sự dữ xảy
ra, vì nó không phải quyền năng bên trong của Thượng Đế để ngăn cản sự dữ (Ngài
chỉ thuyết phục và dụ dỗ). Hai là nó bao hàm việc đứng về phía Thượng Đế trong
cuộc chiến không bao giờ ngừng để chống lại sự dữ trong một thế giới bất trị.
Điều này là một tuyên bố đạo đức về một hình thức tin vào một Thượng Đế hữu hạn,
Ngài cần chúng ta hỗ trợ trong cuộc chiến của ánh sáng chống lại bóng tối như
chủ thuyết Manichee và Chủ Thuyết Lửa (Zoroastrianism and Manichaeism) cổ đại
hoặc trong tư tưởng của John Stuart Mill.[44]
Thần lý học theo trường phái
tiến trình không cho rằng lỗi của chính mỗi cá nhân không phải do cá nhân, mà
là do hằng hà thế hệ trước của nhân loại đã sinh ra và dẫn đến tình huống này.
Nên việc càng vươn ra nhiều thì sự đau khổ thể lý và tinh thần lại càng nhiều.
Điều này có thể xảy ra ở cấp độ con người kinh nghiệm như là một phần của tiến
trình hiện thể của vũ trụ. Nên với quan niệm, càng vươn ra thì càng phức tạp,
mà càng phức tạp, càng gây ra nhiều đau khổ. Lý thuyết của triết học tiến trình
cũng đối diện với nhiều thách thức, nhiều chỉ trích không chỉ liên quan đến giải
quyết vấn đề sự dữ, mà cả vấn đề siêu hình, cũng như vũ trụ luận.
VI. KẾT
LUẬN: áp dụng vào thực tế cuộc sống
Từ những luận lý về vấn đề sự
dữ của Augustine, Thomas Aquinas, Irene, và Triết Học Tiến Trình, vấn đề sự vẫn
chưa được giải quyết thấu đáo. Có chăng, những tìm hiểu trên chỉ như là ánh nắng
ban mai đang đẩy lui những lớp sương mù dày đặc lúc mặt trời ló rạng. Ít ra qua
những tìm hiểu trên chúng ta đã hiểu lờ mờ về bản chất, nguyên do của sự dữ,
trên bình diện logic. Tuy nhiên, đẩy đi lớp sương mù vô cùng quan trọng, vì lẽ
khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn về sự dữ, mặc dầu những biện giải ấy có thể chỉ
trên bình diện lý trí. Giờ chúng ta cần tóm tắt lại rất vắn gọn về bản chất,
nguồn gốc và mục đích của sự dữ luân lý và sự dữ thiên thiên, hoặc sự dữ tinh
thần và sự dữ vật chất để từ đó biết ứng dụng vào trong lối sống.
Bản chất của sự dữ luân lý
hay tinh thần là tội. Tội làm chúng ta, con người, tách ra khỏi Thượng Đế.
Nguyên nhân, nguồn cội của sự dữ luân lý là ý chí tự do của chính con người
chúng ta. Mục đích hay nguyên do mà Đấng Tối Cao để cho sự dữ luân lý xảy ra là
tôn trọng sự tự do của con người. Sự tự do là thứ làm nên bản chất của hữu thể
có lý trí, hữu thể được dựng nên vì chính nó.
Bản chất của sự dữ thiên
nhiên là những đau khổ. Nguyên nhân, nguồn cội của sự dữ tự nhiên là do sự dữ
luân lý đưa tới. Con người đau khổ vì con người đã phạm tội. Mục đích của sự dữ
thể lý hay sự dữ thiên nhiên mời gọi con người tập luyện và tuân giữ các nguyên
tắc luân lý để đạt tới niềm vui vĩnh cửu và sự trọn hảo chung cục của chính con
người. Sự dữ thể lý này cũng chỉ là hình phạt công bằng cần được thực thi vì tội
và là hình thức ngăn chặn khỏi phạm tội.
Biết đã quan trọng, nhưng sự
biết ấy tác động, làm thay đổi cuộc sống còn quan trọng hơn. Nền tảng căn bản
và mấu chốt của sự dữ là phá vỡ mối tương quan giữa con người với Thần Linh, một
cuộc ly tán thiêng liêng. Vì thế, điều quan trọng, khẩn thiết hơn một câu trả lời
hợp tính logic của lý trí đối với vấn đề sự dữ trên bình diện lý thuyết, đó là
một câu trả lời cá vị của mỗi người chúng ta với vấn đề sự dữ trong thực hành.
Vấn đề lý thuyết về sự dữ khởi lên trong chúng ta vì sự thiếu hiểu biết hoặc do
tính tò mò muốn thoả mãn những vấn nạn. Trong khi ấy, vấn đề thực hành do sự dữ
gây nên trong chúng ta là bởi tội lỗi. Vậy, làm thế nào để ta bớt tội lỗi? Như
là những người có niềm tin vào một tôn giáo, việc thực hành và sống những giáo
huấn của tôn giáo giúp ta tránh được những tội lỗi. Riêng với Kitô giáo, đặc biệt
với Công Giáo, người Kitô hữu tin rằng Đức Kitô là Đấng cứu độ, Người đến để giải
quyết vấn đề tội lỗi của con người.
Tội lỗi chỉ có thể được xoá
đi bởi duy mình Đấng Tối Cao, vì lẽ, tội lỗi là biểu lộ việc phá vỡ giao ước với
Thượng Đế. Xấu hổ là biểu lộ của sự sợ hãi hay rạn nứt theo chiều ngang, nhưng
tội là biểu tỏ việc phá vỡ tương quan theo chiều dọc, theo chiều kích siêu
nhiên. Một nhà tâm lý giỏi có thể giúp con người tự do khỏi sự xấu hổ, nhưng
không giúp con người khỏi tội lỗi. Nhà tâm lý có thể giúp con người khỏi những
cảm giác mặc cảm, nhưng không giải thoát con người khỏi những tội lỗi thật.
Tương tự, nhà tâm lý chỉ có thể cho bạn thuốc mê để xoa dịu tức thời, quên đi,
nhưng bác sĩ tâm lý không thể chữa căn bệnh của bạn. Tâm lý học có thể làm con
người CẢM thấy tốt, nhưng chỉ duy mối tương quan tôn giáo, tương quan niềm tin
với Thượng Đế mới có thể làm cho con người TRỞ NÊN tốt. Đó là lý do Thượng Đế
sai Người Con duy nhất của Ngài, là Đức Giêsu Kitô đến trần gian. Trên thế gian
này, không ai khác, ngoại trừ một người duy nhất là Đức Kitô mới có thể “gánh lấy
tội lỗi trần gian.” Niềm tin vào HY TẾ đau khổ của Ngài là câu trả lời duy nhất
cho vấn đề sự dữ. Hy vọng của chúng ta không phải chỉ là một câu trả lời khả dĩ
hợp lý trí nhưng đó là TIN MỪNG. Tin Mừng ấy phải là: “Thiên Chúa quá yêu thế
gian đến nỗi hiến tặng ban con một, để ai tin vào Người Con thì được ơn cứu độ,
được sự sống đời đời” (Gioan 3: 16). Tin rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài yêu
con người và muốn cứu con người.
Tin rằng Thiên Chúa yêu ta, để
rồi, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu vấn đề sự dữ khả dĩ hợp lý trí tự nhiên nhất
có thể. Tuy nhiên, sự dữ vẫn luôn là một thách thức không nhỏ đối với niềm tin
hữu thần. Có nhiều cách thức hợp với lý trí, nhưng không thể xoa dịu được những
nỗi đau đớn khôn nguôi từ sự dữ. Và thái độ thiết tưởng đúng đắt nhất, sự dữ vẫn
là một mầu nhiệm. Đứng trước vấn đề sự dữ không thể hiểu nổi, chúng ta chỉ có
thể nhìn lên cây thánh giá, noi gương Chúa Giêsu: Lạy Cha, sao Cha bỏ rơi con. Từ đó, chúng ta có thể thưa
tiếp rằng: Lạy Cha, này con
xin đến để thực thi ý Cha. Rồi, với thái độ chấp nhận thực tại: con xin phó
thác trong tay Cha hết thảy. Giữa những cơn thử thách của sự dữ khắc nghiệt,
thì xin cho: “Lạy Đấng Tối Cao, Ngài làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những
ai yêu mến Người” (Rm 8: 28).
Tin rằng Đấng Tối Cao biết mọi
sự, Ngài làm những điều tốt đẹp nhất cho mỗi con người. Và nếu như “chết không
phải là đối nghịch của sự sống, nhưng là một phần gắn liền của cuộc sống” (Haruki
Murakami), thì cũng tương tự, sự dữ
không phải là đối nghịch sự thiện, là sự khiếm khuyết của sự thiện, và khiếm
khuyết sự thiện là một phần của cuộc sống, nó gắn liền với cuộc sống. Khi biết
như thế, thay vì oán hận, hãy bước đi trong bình an giữa những thử thách. “Đời
không phải là đợi cho bão tố tan đi, nhưng là học cách để nhảy múa giữa những
lúc bão giông”. Sau hết,
sự dữ và đau khổ có thể làm thức tỉnh trong chúng ta lòng khát khao mạnh mẽ hướng
về thiên quốc hơn, và lúc đó, khi những mục đích của Thiên Chúa qua những kinh
nghiệm này đã được hoàn tất, thì cũng là lúc nỗi đau đớn và buồn sầu không còn
nữa… (Kh 21:4).
[1] Trong tài liệu này, Thần Linh, Thượng Đế, Ông Trời,
Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, etc, nói đến quan niệm Độc Thần, với những thuộc
tính của niềm tin tôn giáo độc thần.
[2] Hình thức tóm tắt những luận lý này được tìm thấy trong De
ira Dei của Lactantius, năm 303 (Lactantius, The Wrath
of God, trans. Sister Mary Frances McDonald, in Mark
Larrimore, ed.: The Problem of Evil: A Reader, Blackwell, Oxford 2001).
[3] J. L. Mackie, “Evil and
Omnipotence,” in The Philosophy of Religion, ed.
Basil Mitchell (Oxford: Oxford University Press, 1971), p. 92; chúng ta cũng có thể
xem Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 22, art.2.
[4] Xem Thomas Aquinas, Summa Theologiae Ia, 2, art. 3,
obj. 1.
[5] J. L. Mackie, “Evil and
Omnipotence,” Mind (April
1955), p. 209. A similar point is made by Antony Flew in “Divine Omnipotence and Human Freedom,” New Essays in Philosophical Theology. An important critical comment on these arguments is
offered by Ninian Smart in “Omnipotence, Evil and Supermen,” Philosophy (April
1961), with replies by Flew (January 1962) and Mackie (April 1962). See also
Alvin Plantinga, God, Freedom and Evil (Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans
Publishing Co., 1977).
[6] Thần lý học (theodicy) khởi phát từ Leibniz. Hạn từ này được
kết hợp từ teos và diké trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là Thượng Đế
(God) và Công Lý (justice). Cách nào đấy, Thần lý học nghĩa là sự công chính, sự
công bằng, sự công lý của Thượng Đế, một luận lý về sự công chính của Thượng Đế.
Thần lý học thường được gắn liền với suy tư của Kitô giáo, nhưng hầu hết những
luận lý này đã có thể được tìm thấy trong tư tưởng Hy Lạp Cổ đại, tiền Kitô
giáo. Nguyên lý căn bản được trình bày trong một đoạn còn sót lại được cho là của
Heraclitus. Đoạn này tuyên bố rằng, đối với Thượng Đế, mọi sự đều là chân, thiện,
mỹ (just, good, and beauty). Trái lại, con người chỉ coi những thứ này là công
bằng và những thứ kia là bất công (Heraclius, Fragments, trans. Brooks
Haxton, Penguin, NY, 2003, p.39). Tiền đề cơ bản cho tất cả các Thần lý học sau
này cũng chỉ bàn luận tới vấn đề về sự phi công chính (injustice) hoặc sự dữ. Sự
dữ hoặc sự bất công chỉ xuất hiện như là sự dữ hoặc sự bất công đối với trí hiểu
nông cạn, giới hạn của con người, trong khi ấy, mọi sự hoặc tất cả các thành phần
hoặc tổng của tất cả các phần – là tốt lành từ lối nhìn của thần linh [Iars
Svendsen, A philosophy of Evil, p.43].
[7] Tư tưởng sự dữ là sự khiếm khuyết, sự dữ không thực sự hiện
hữu, quan niệm này được hệ thống hoá bởi Plotinus, nhưng tư tưởng này đã có nguồn
gốc từ Plato. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhớ rằng triết học Cổ đại Hy Lạp,
thật sự, không có bất cứ ý niệm đích thật nào về “sự dữ,” nhưng không vì thế mà
triết học Hy Lạp Cổ đại không đóng góp tích cực cho sự phát triển tư tưởng này
trong lịch sử tư tưởng về sự dữ. Chúng ta phải bao gồm cả những tư tưởng ở giai
đoạn Hy Lạp Cổ đại nữa, tư tưởng của họ đã ảnh hưởng mạnh đến các giai đoạn sau
này.
[8] Augustine, Confessiones, VII, 11, 18.
[9] Luận lý về sự tự do ý chí cho rằng sự hiện hữu của sự dữ hệ tại
ở sự chọn lựa của chúng ta. Tư tưởng này được tìm thấy trong tác phẩm của là
Plato (Republic, 617e) và cũng như tuyên bố rằng thế giới được tạo thành
là thế giới tốt nhất có thể (Timaeus, 29-30).
[10] Augustine, Confessiones, VII, 13.
[11] Augustine, De Genesi Ad
Litteram, Imperfectus liber, 1.3.
[12] Theo quan niệm triết học, mọi thọ tạo đều là hữu hạn. Do vậy,
dù Adam và Eva có phạm tội hay không thì, vì là hữu thể hữu hạn, tất yếu phải
chết. Hữu thể hữu hạn không thể tồn tại vĩnh cửu, vì chúng không phải là hữu thể
tất yếu, chúng chỉ là hữu thể bất tất.
[13] Cfr. De libero arbitrio 1, 11.
[14] Augustine, On Free Will, 111, ix.
[15] Augustine, City of God, Bk. 12,
Chap. 9.
[16] Tuyên bố rằng thế giới được tạo thành là thế giới tốt nhất
có thể, chúng ta có thể tỉm trong Plato (Timaeus, 29-30).
[17] Augustine, De libero
arbitrio Ill, 13.
[18] GLHT CG, số 1703.
[19] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 2, 3.
[20] Đức Giáo Hoàng Leo XIII (1810-1903) thọ 93 tuổi. Vào ngày 4
tháng 8 năm 1897, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã ban hành thông điệp Aeterni
Patris (Người Cha Hằng Hữu), không giống với các thông điệp khác,
thông điệp này đưa ra một lời mời gọi cho sự canh tân học thuyết của Thánh
Thomas Aquinas, một hệ thống thần học Trung cổ dựa trên những tư tưởng của
Aquinas - triết học thánh Thomas trở thành hệ thống thần học và triết học chính
thức của Hội Thánh Công giáo.
[21] Thomas Aquinas, De malo, q.1, art. 1.
[22] Thomas Aquinas, De malo, q.1, art. 2.
[23] Chúng ta đã tìm hiểu ý niệm này từ Thần lý học Theo Augustine ở
trên.
[24] Thomas Aquinas, Quaestiones Disputatae De Malo 1,1
[25] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 5, art. 4.
[26] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 48, art.3.
[27] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 5, art 1.
[28] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 48, art.1.
[29] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia.4.1.
[30] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia, 6.
[31] Theo Aristotle, vật chất nguyên thuỷ hoặc sơ đẳng chỉ là
tiềm thể.
[32] Thomas Aquinas, Da Malo, Ia, 1-3.
[33] Thomas Aquinas, De malo Ia, 1 – 3.
[34] Thomas Aquinas, De Principiis naturae, III, 21.
[35] Peccati được dùng đồng nghĩa lúc là tội, lúc là sự dữ, nên đôi
khi rất khó, cẩn thận kẻo nhầm lẫn.
[36] See Irenaeus, Against Heresies, Book IV,
Chaps. 37
and 38.
[37] John H. Hick, Philosophy of Religion, pp. 64-7.
[38] Ở đây hạn từ “khoái lạc” được hiểu theo hạn từ hedone
trong tiếng Hy Lạp.
[39] Vấn đề tai hoạ liên quan đến thiên nhiên, chúng ta có thể
tìm hiểu trong phần biện luận của David Hume, trong tác phẩm Dialogues của
triết gia, phần XI.
[40] Yoram Hazony and Dru Johnson, The Question of God’s
Perfection: Jewish and Christian Essays on the God of the Bible and Talmud,
Brill Rodopi, 2018.
[41] https://plato.stanford.edu/entries/process-philosophy/ (2024/3/21)
[42] David Griffin, God, Power, and Evil,
p. 2.
[43] Alfred North Whitehead, Religion
in the Making (New York: Cambridge University Press, 1930), p.330.
[44] John Stuart Mill, Three Essays on Religion
(London: Longmans, 1875, and Westport, Co:, Greenwood Press), pp. 116-17.