Mùa Chay, 14 tháng 04 năm 2011
LM. Giu-se Lê Minh Thông, O.P.
Đề tài được chia làm 5 bài:
Bài 1: “Sự thật là gì?”. Quan sát Ga 18,28–19,16a
Bài 2: Sự thật về những kẻ tố cáo Đức Giê-su.
Bài 3: Sự thật về Phi-la-tô.
Bài 4: Sự thật về Đức Giê-su.
Bài 5: Áp dụng Ga 18,28–19,16a vào cuộc sống.
Bài 1: “SỰ THẬT LÀ GÌ?” (Ga 18,38)
QUAN SÁT BẢN VĂN Ga 18,28–19,16a
Dẫn nhập
“Sự thật” (alêtheia) là đề tài lớn
trong Tin Mừng Gio-an, đặc biệt đề tài này được đề cao trong đoạn văn Đức
Giê-su xuất hiện trước Phi-la-tô: Ga 18,28–19,16a. Trong đoạn văn này có lời
đối thoại giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su về đề tài sự thật:
“Phi-la-tô nói với Đức
Giê-su: ‘Vậy chính Ông là Vua sao?’ Đức Giê-su trả lời: ‘Chính ngài nói
rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian
để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.’
Phi-la-tô nói với Người: ‘Sự thật là gì?’ Nói điều này xong, Phi-la-tô lại
đi ra với những người Do Thái và
nói với họ: ‘Phần ta, ta không tìm thấy điều gì để kết tội Ông ấy…’” (Ga
18,37-38).
Độc giả có thể “nuối tiếc” và tự
hỏi: Tại sao Phi-la-tô không nán lại để nghe Đức Giê-su định nghĩa về sự thật?
Tại sao người thuật chuyện không tận dụng khoảng khắc quý giá này để cho độc
giả biết sự thật là gì? Thực ra, đây là một điểm độc đáo về cách hành văn của
Tin Mừng Gio-an: Không cho biết trực tiếp sự thật là gì, nhưng lại đang nói về
sự thật. Phi-la-tô có lý do để bỏ đi sau khi đặt câu hỏi, có thể vì ông không
dám đối diện với sự thật. Người thuật chuyện không cho độc giả biết sự thật là
gì để nói với độc giả rằng: Muốn biết sự thật thì cứ đọc Tin Mừng Gio-an từ đầu
đến cuối sẽ biết sự thật là gì và sự thật là ai. Cụ thể trong đoạn văn Ga
18,28–19,16a, người thuật chuyện đang nói với độc giả về sự thật, nhưng sự thật
ấy được trình bày như thế nào?
Khi Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su “Sự
thật là gì?” rồi bỏ đi, người thuật chuyện không cho độc giả câu trả
lời trực tiếp về sự thật. Tuy nhiên, toàn bộ nội dung của đoạn văn Ga
18,28–19,16a cho độc giả biết nhiều sự thật. Đó là “sự thật về những kẻ chống
đối Đức Giê-su”, “sự thật về Phi-la-tô” và “sự thật về Đức Giê-su”. Làm thế nào
để đọc ra được những sự thật này? Làm thế nào để độc giả có thể trả lời được
những câu hỏi: “Sự thật” trong đoạn văn Ga 18,28–19,16a là gì?
Để thưởng thức kiểu hành văn độc đáo
trong đoạn văn Ga 18,28–19,16a chúng ta cùng tìm hiểu đoạn văn này. Trong bài
viết này (bài 1/5) sẽ tập trung vào việc đọc và quan sát bản văn qua các mục:
1) Đọc bản văn 18,28–19,16a.
2) Phân đoạn 18,28–19,16a: Lý giải tại sao lại bắt đầu đoạn văn ở 18,28 và kết thúc ở 19,16a.
3) Tìm hiểu bối cảnh văn chương đoạn văn 18,28–19,16a.
4) Phân tích cấu trúc của đoạn văn. Đoạn văn được xây dựng
thế nào và kết cấu ra sao?
Ba bước “phân đoạn”, “bối cảnh văn chương” và “cấu trúc” sẽ được thực hiện nhờ chú ý đến các yếu tố: Thời gian, không gian, nhân vật,
từ ngữ và các đề tài trong đoạn văn. Ba bước này giúp quan sát kỹ bản văn, từ
đó có thể trả lời câu hỏi “sự thật là gì?” trong đoạn văn Ga
18,28–19,16a.
Nội dung loạt bài này đã được trình
bày trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp
dụng vào Tin Mừng thứ tư, phần áp dụng vào đoạn
văn Ga 18,28–19,16a: “Đức Giê-su và Phi-la-tô”, tr. 197-220.
1. Bản văn Ga
18,28–19,16a: Đức Giê-su và Phi-la-tô (Lê Minh Thông dịch
theo bản Hy Lạp)
[Dẫn nhập]
18,28 Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng
trấn; lúc đó trời vừa sáng, họ không vào trong dinh tổng trấn để
khỏi bị nhiễm uế, vì còn ăn lễ Vượt Qua.
[Bên ngoài dinh]
29 Vậy
Phi-la-tô ra ngoài và nói với họ: “Các người tố cáo người này điều gì?”
30 Họ trả lời và nói với ông: “Nếu Ông này không làm
điều ác, chúng tôi đã chẳng nộp cho ông.”
31
Phi-la-tô nói với họ: “Các người cứ đem Ông ấy đi và xét xử Ông ấy theo luật
của các người.” Những người Do Thái nói
với ông ấy: “Chúng tôi không được phép xử tử ai cả.”
32 Thế
là nên trọn lời Đức Giê-su, Người đã nói cách chết nào Người sẽ phải chết.
[Bên trong dinh]
33
Phi-la-tô lại trở vào dinh, ông ấy gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông là
Vua dân Do Thái phải
không?”
34 Đức
Giê-su trả lời: “Ông tự mình nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ông
về Tôi?”
35
Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Dân của Ông và các thượng
tế đã nộp Ông cho tôi. Ông đã làm gì?”
36 Đức
Giê-su trả lời: “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Vương quốc
của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị
nộp cho những người Do Thái.
Nhưng thật ra, Vương quốc của Tôi không ở chốn này.”
37
Phi-la-tô nói với Người: “Vậy chính Ông là Vua sao?” Đức Giê-su trả lời:“Chính
ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến
thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng
Tôi.”
38a
Phi-la-tô nói với Người: “Sự thật là gì?”
[Bên ngoài dinh]
38b Nói
điều này xong, Phi-la-tô lại đi ra với những người Do Thái và nói với họ: “Phần ta, ta
không tìm thấy điều gì để kết tội Ông ấy.
39
Theo tục lệ của các người, ta thả một ai đó cho các người trong dịp lễ Vượt
Qua. Vậy các người có muốn ta thả cho các người Vua dân Do Thái không?”
40 Họ
lại la lên rằng: “Không phải người này nhưng là Ba-ra-ba.” Nhưng Ba-ra-ba là
một tên cướp.
[Bên trong dinh, chuyển tiếp]
19,1 Bấy
giờ Phi-la-tô bắt lấy Đức Giê-su và đánh đòn Người.
2
Những người lính kết một vương miện bằng cây gai đặt lên đầu Người, và khoác
cho Người một áo choàng đỏ tía.
3 Họ
đến gần Người và nói: “Kính chào Vua dân Do Thái” và họ vả mặt Người.
[Bên ngoài dinh]
4
Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với họ: “Này, ta dẫn Ông ấy ra ngoài cho các
người, để các người biết rằng ta không tìm thấy lý do để kết tội Ông ấy.”
5 Vậy
Đức Giê-su bước ra ngoài, đội vương miệng bằng gai và khoác áo choàng đỏ tía.
Ông ấy nói với họ: “Đây là Người.”
6 Khi
vừa thấy Người các thượng tế cùng các thuộc hạ kêu lên rằng: “Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào
thập giá.” Phi-la-tô nói với họ: “Các người hãy đem Ông ấy đi mà
đóng đinh vào thập giá, vì ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội Ông ấy.”
7
Những người Do Thái trả
lời Phi-la-tô: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật và chiếu theo
Lề Luật thì Ông ấy phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa.”
8 Khi
Phi-la-tô nghe lời này, ông càng sợ hơn.
[Bên trong dinh]
9 Ông
lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: “Ông từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su
không cho ông ấy câu trả lời nào cả.
10 Vậy
Phi-la-tô nói với Người: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có
quyền tha Ông và có quyền đóng đinh Ông vào thập giá sao?”
11 Đức
Giê-su trả lời [ông ấy]: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được
ban cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn.”
[Bên ngoài dinh]
12 Từ
lúc đó, Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng những người Do Thái kêu lên rằng: “Nếu ông tha
người này, ông không là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống
lại Xê-da.”
13 Khi
Phi-la-tô nghe những lời này, ông ấy dẫn Đức Giê-su ra ngoài đến nơi gọi là Nền
Đá – tiếng Híp-ri là
Gáp-ba-tha – và đặt Người ngồi
trên tòa.
14 Hôm
ấy là ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, vào khoảng giờ thứ sáu [12 giờ
trưa]. Phi-la-tô nói với những người Do Thái: “Đây là Vua của các người.”
15 Họ
liền kêu lên: “Đem đi, đem đi, hãy đóng đinh Nó vào thập giá.” Phi-la-tô nói
với họ: “Ta đóng đinh Vua của các người sao?” Các thượng tế trả lời: “Chúng tôi
không có vua nào cả ngoài Xê-da.”
[Kết]
16a Bấy
giờ Phi-la-tô trao Người cho họ để Người bị đóng đinh vào thập
giá.
2. Phân đoạn Ga
18,28–19,16a
Khi chọn một đoạn văn để đọc, câu
hỏi trước tiên đặt ra: Tại sao đoạn văn lại bắt đầu từ câu này và kết thúc ở
câu kia? Tại sao không chọn đoạn văn dài hơn hoặc ngắn hơn, hay bắt đầu và kết
thúc ở một câu khác? Tại sao lại bắt đầu đọc ở 18,28 và kết thúc ở 19,16a? Tựa
đề và phân đoạn các đoạn văn trong các bản dịch Kinh Thánh chỉ là gợi ý. Nói
chung, một tựa đề không thể tóm tắt hết các ý tưởng của đoạn văn. Vì thế, người
đọc không nên lệ thuộc vào các tựa đề và phân đoạn trong các bản dịch. Bản văn
gốc Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp không có đề mục các đoạn văn như trong các bản
dịch. Người đọc được tự do trong việc chọn bản văn dài hay ngắn (từ vài câu đến
vài chương) để đọc.
Đầu đoạn văn 18,28–19,16a, người
thuật chuyện cho người đọc biết có sự thay đổi về không gian, thời gian và nhân
vật ở 18,28: “Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng trấn; lúc đó
trời vừa sáng, họ không vào trong dinh tổng trấn để khỏi bị nhiễm uế, vì
còn ăn lễ Vượt Qua.” Trước c. 28 Đức Giê-su ở nhà Cai-pha, trong c. 28
Đức Giê-su ở dinh Phi-la-tô. Trước 18,28 Đức Giê-su hiện diện giữa những kẻ
chống đối (Kha-nan, Cai-pha), từ 18,28 sự phân cách giữa Đức Giê-su và những kẻ
tố cáo Người đã hình thành: Đức Giê-su ở trong dinh Phi-la-tô trên phần đất bị
nhiễm uế, còn những kẻ tố cáo ở trên phần đất không bị nhiễm uế. Như thế, không gian thay đổi từ nhà
Cai-pha đến dinh Phi-la-tô. Về thời gian, trước 19,28 là ban đêm, từ 19,28, câu
chuyện bắt đầu vào lúc “trời vừa sáng” (18,28), khởi đầu một ngày mới. Yếu tố
mới là xuất hiện nhân vật Phi-la-tô. Ông là người ngoại, được Xê-da đặt lên để
giám sát vùng Giu-đê.
Đoạn văn 18,28–19,16a kết thúc ở
19,16a, vì hai lần từ “họ” ở 19,16 chỉ hai nhóm người khác nhau. Người thuật
chuyện kể: “Bấy giờ ông ấy [Phi-la-tô] trao Người [Đức Giê-su] cho họ để
Người bị đóng đinh vào thập giá” (19,16a). “Vậy họ điệu Đức
Giê-su đi” (19,16b). “Họ” ở 19,16a là các thượng tế, thuộc hạ và những người Do
Thái; nhóm này đã đối chất với Phi-la-tô và đòi đóng đinh Đức Giê-su. “Họ” ở
19,16b là những người điệu Đức Giê-su đi và thực hiện việc đóng đinh Đức
Giê-su, đó là lính tráng, được nói đến khi họ chia áo Đức Giê-su ở 19,23-24. Vì
thế, 19,16a thuộc về đoạn văn trước và 19,16b bắt đầu đoạn văn mới.
Như thế, 18,28–19,16a làm thành một
đoạn văn có sự phân đoạn rõ ràng qua sự thống nhất của bốn yếu tố:
1) Thống nhất về thời gian: Từ sáng
sớm (18,28) tới trưa (19,14).
2) Thống nhất về không gian: Trình
thuật diễn ra bên trong và bên ngoài dinh Phi-la-tô.
3) Thống nhất về nhân vật: Thuật lại
các cuộc đối thoại giữa Phi-la-tô và những kẻ tố cáo Đức Giê-su, giữa Phi-la-tô
và Đức Giê-su.
4) Thống nhất về nơi chốn: Trước
18,28 Đức Giê-su ở nhà Cai-pha (18,24); trong đoạn văn 18,28–19,26a, Đức Giê-su
ở dinh Phi-la-tô và sau 19,16a, Người vác thập giá tiến về Gôn-gô-tha
(19,16b-17).
Lý giải việc giới hạn
đoạn văn là cần thiết vì nó tác động đến ý nghĩa bản văn. Dù đoạn văn ngắn hay
dài cũng cần chỉ ra những dấu hiệu cho phép khởi đầu và kết thúc đoạn văn. Bước
tiếp theo là tìm hiểu bối cảnh văn chương của đoạn văn.
3. Bối cảnh văn chương
Đặt bản văn trong bối cảnh chung
rộng lớn hơn giúp định hướng ý nghĩa đoạn văn. Câu hỏi đặt ra là bản văn có
những nối kết nào, liên tục hay đứt đoạn với những đoạn văn trước và sau nó?
Đoạn văn bắt đầu một đề tài mới hay nối tiếp đề tài cũ? Đặt đoạn văn trong bối
cảnh văn chương rộng lớn hơn giúp tránh hiểu lạc đề hay áp đặt lên bản văn
những điều xa lạ với bối cảnh chung của đoạn văn. Thường một đoạn văn vừa liên
hệ vừa đứt đoạn với những đoạn văn
trước và sau nó.
Đoạn văn 18,28–19,16a là
một phần trình thuật Thương khó (Ga 18–19). Hai chương này kể lại việc Đức
Giê-su bị bắt (18,1-12) và bị tra hỏi (18,13-27); Người xuất hiện trước
Phi-la-tô (18,28–19,16a); sau đó bị đóng đinh, chết trên thập giá (19,16b-37);
và cuối cùng Người được mai táng (19,38-42). Đức Giê-su trong Ga 18–19 di
chuyển từ nơi này đến nơi khác. Người ta đến bắt Đức Giê-su trong một thửa vườn
ở bên kia suối Kít-rôn (18,1); sau đó Người được dẫn đến các nơi: dinh Kha-nan,
nhà Cai-pha, dinh Phi-la-tô và Gôn-gô-tha là nơi Người bị đóng đinh, rồi Người
được mai táng ở một ngôi mộ mới trong một thửa vườn (19,41). Ga 18–19 làm thành
trình thuật về “Giờ của Đức Giê-su” bắt đầu trong một “thửa vườn” (kêpos) ở bên
kia suối Kít-rôn, phía đông thành Giê-ru-sa-lem và kết thúc cũng trong một
“thửa vườn” (kêpos) ở Gôn-gô-tha, phía tây thành Giê-ru-sa-lem. Như thế, đoạn
văn 18,28–19,16a là một phần không thể tách rời khỏi bối cảnh chung của các
chương 18–19.
Trong bối cảnh chung Ga 18–19, đoạn
văn 18,28–19,16a có những đặc điểm riêng, phân biệt với các đoạn văn khác.
Những người dẫn Đức Giê-su đến dinh Phi-la-tô (18,28) không phải là những kẻ đi
bắt Người (18,2), họ cũng không phải là những người dẫn Đức Giê-su đi đóng đinh
(19,16b). Vậy họ là ai? Chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần phân tích nhân vật. Đức
Giê-su và Phi-la-tô chỉ gặp nhau trong đoạn văn 18,28–19,16a. Với những dấu
hiệu phân đoạn nói trên, đoạn văn 18,28–19,16a phân biệt với những đoạn văn
khác và làm thành một đoạn văn để phân tích.
Trong Tin Mừng thứ tư,
trình thuật “Đức Giê-su và Phi-la-tô” được thuật lại với nhiều chi tiết không
có trong Tin Mừng Nhất Lãm. Thực vậy, Tin Mừng thứ tư trình bày việc Kha-nan
chất vấn Đức Giê-su chỉ trong một câu: “Thượng tế hỏi Đức Giê-su về các môn đệ
của Người và về giáo huấn của Người” (Ga 18,19); những gì xảy ra ở nhà Cai-pha
không được kể lại, vì ông này đã đóng vai trò của mình ở Ga 11 khi Cai-pha đề
nghị một người chết thay cho toàn dân (11,49-50). Trong khi đó, trình thuật
“Đức Giê-su và Phi-la-tô” được kể đến 30 câu (Ga 18,28–19,16a): Phi-la-tô “đi
ra”, “đi vào” nhiều lần để trao đổi với những kẻ tố cáo Đức Giê-su ở bên ngoài
dinh và ông đối đáp với Đức Giê-su bên trong dinh.
Vào thời đó, những kẻ tố
cáo “không có quyền xử tử” Đức Giê-su (18,31), nên mục đích của họ trong đoạn
văn 18,28–19,16a là được chính quyền Rô Ma cho phép xử tử Đức Giê-su. Những lý
do họ đưa ra để kết tội Đức Giê-su là để Phi-la-tô cho phép họ giết Đức Giê-su.
Khi người thuật chuyện dành một phần quan trọng để trình bày câu chuyện “Đức
Giê-su và Phi-la-tô”, chắc chắn tác giả muốn gửi gắm vào đoạn văn này những
ý nghĩa thần học quan trọng. Để đọc ra ý nghĩa đó, cần phân tích cấu trúc đoạn
văn 18,28–19,19a nhờ quan sát các yếu tố thời gian, không gian và nhân vật.
4. Cấu trúc đoạn văn
18,28–19,16a
Sau khi thực hiện bước thứ nhất (lý
giải việc giới hạn đoạn văn) và bước thứ hai (đặt đoạn văn trong bối cảnh văn
chương của nó), bước thứ ba là tìm cấu trúc đoạn văn. Mục đích việc tìm cấu
trúc là để biết bản văn nói gì và nói như thế nào. Bản văn được chia làm mấy
phần, gồm các đề tài nào và được diễn tả bằng từ ngữ nào? Các ý tưởng tiến
triển, liên kết và tương quan với nhau như thế nào? Cấu trúc đoạn văn được
thiết lập nhờ các yếu tố thời gian, nơi chốn, nhân vật, từ ngữ, đề tài trong
đoạn văn.
Thời gian trong đoạn văn
18,28–19,16a trải dài suốt buổi sáng vào ngày áp lễ Vượt Qua. Những kẻ tố cáo
Đức Giê-su dẫn Người đến dinh Phi-la-tô vào lúc “trời vừa sáng” (18,28), và
cuộc trao đổi kết thúc vào “khoảng 12 giờ trưa vào ngày áp lễ Vượt Qua” (19,14).
Về nơi chốn, câu chuyện diễn tiến tại dinh Phi-la-tô và được chia làm hai phần:
Bên trong dinh (bị nhiễm uế) và bên ngoài dinh (không bị nhiễm uế). Các nhân
vật được chia làm hai nhóm: Bên trong dinh có “Đức Giê-su” và “quân lính”
(19,2); bên ngoài dinh có “những người Do
Thái” (18,31.36.38; 19,7.12.14), “các thượng
tế” (18,35; 19,6.15) và “các thuộc hạ” (19,6).
Nhân vật “đi ra”, “đi
vào” giữa “bên trong” và “bên ngoài” dinh là Phi-la-tô. Nhóm nhân vật ở bên
ngoài dinh được giới thiệu ở đầu đoạn văn 18,28–19,16a bằng đại từ “họ”:
“Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng trấn
(18,28a). “Họ” ở đây không chỉ là “những người Do
Thái” mà thôi mà còn bao gồm cả “các thượng
tế” và “các thuộc hạ”; các nhân vật này sẽ xuất hiện dần dần trong đoạn văn
18,28–19,16a. Đại từ “họ”, mở đầu (18,28) và kết thúc đoạn văn (19,16a) là có
chủ ý. Chúng ta sẽ bàn đến ý nghĩa của đại từ “họ” trong phần sau.
Về từ ngữ, nhiều kiểu
nói liên quan đến nhân vật Giê-su. Đầu trình thuật, Đức Giê-su bị tố cáo là
“người làm điều ác” (18,30); Người bị đặt ngang hàng với Ba-ra-ba, một tên cướp
(18,40) và những kẻ tố cáo đòi đóng đinh Người (19,6.15). Đến giữa trình thuật
họ lại tố cáo Đức Giê-su tự xưng là Con Thiên Chúa (19,7). Đến cuối trình
thuật, những kẻ tố cáo họ kết tội Đức Giê-su là xưng làm vua (19,12).
Về phần Phi-la-tô, ông dùng danh
xưng “vua dân Do Thái” (18,33.39; 19,14.15) để gọi Đức Giê-su.
Ông tuyên bố Người vô tội (18,38; 19,6) và tìm cách tha Người (19,12). Ông long
trọng giới thiệu Đức Giê-su với những kẻ tố cáo: “Đây là Người” (19,5); “Đây là
vua các người” (19,14). Như thế, đề tài chính đoạn văn có thể là “vương quyền”
của Đức Giê-su.
Dựa vào yếu tố không
gian (bên trong, bên ngoài) và việc Phi-la-tô “đi ra”, “đi vào” từ đầu đến cuối
trình thuật, đoạn văn 18,28–19,16a có câu dẫn nhập (18,28) và câu kết (19,16a).
Phần nội dung được cấu trúc thành hai phần song song (18,29-40 // 19,4-15);
phần chuyển tiếp (19,1-3) ở giữa hai cấu trúc song song này. Mỗi phần nhỏ lại
có cấu trúc đồng tâm (đối ngẫu) A, B, C, B’, A’ như sau:
CẤU TRÚC 18,18-19,16a
18,28 : Dẫn nhập. “Họ”
dẫn Đức Giê-su đến dinh Phi-la-tô
A. 18,29-30 : Đức Giê-su: Người
làm điều ác. Bên ngoài
B.18,31-32:
Người Do Thái xin hành quyết Bên ngoài
C.
18,33-38a: Đức Giê-su và Phi-la-tô Bên
trong
B’. 1838b: Đức
Giê su vô tội. Bên
ngoài
A’. 18,39-40: Ba-ra-ba và Đức
Giê-su Bên
ngoài
19,1-3: Chuyển tiếp. Dấu
chỉ vương quyền Bên trong
AA. 19,4-5: “Đây là Người, vương
quyền”. Bên ngoài
BB. 19,6-8:
“Xưng là Con Thiên Chúa” Bên
ngoài
CC/
19,9-11: Đức Giê-su và Phi-la-tô Bên
trong
BB’. 19,12:
“Xưng là vua” Bên
ngoài
AA’. 19,13-15: “Đây là vua các
người” Bên
ngoài
19,16a: Kết. Phi la tô
trao Đức Giê su cho “họ”
Đoạn văn 18,28–19,16a được cấu trúc
chặt chẽ với phần dẫn nhập (18,28): Giới thiệu thời gian, nơi chốn và bối cảnh.
Nếu trong phần mở đầu “họ” dẫn Đức Giê-su đến với Phi-la-tô thì trong phần kết,
Phi-la-tô lại trao Đức Giê-su cho “họ”. Xem ra chẳng có gì mới trong cuộc “xét
xử” Đức Giê-su. Thực ra, ngay từ đầu trình thuật, người thuật chuyện cho biết
những gì xảy ra là để ứng nghiệm lời Đức Giê-su nói về việc “Người sẽ phải chết
cách nào” (18,32). Nếu Đức Giê-su sẽ phải chết thì trình thuật Người xuất hiện trước
Phi-la-tô (18,28–19,16a) nói điều gì với độc giả và bản văn trình bày điều đó
như thế nào?
Hai cấu trúc đồng tâm song song A,
B, C, B’, A’ và AA, BB, CC, BB’, AA’ được thiết lập dựa vào sự di chuyển của
Phi-la-tô từ “bên trong” ra “bên ngoài” dinh và ngược lại. Phần chuyển tiếp
(19,1-3), không có đối thoại, trình bày những dấu chỉ vương quyền cách tương
phản: Vị vua bị đánh đòn; lời chào kèm theo những cái vả mặt. Cấu trúc cho thấy
Đức Giê-su được trình bày từ một “kẻ làm điều ác” (A) đến một “vị vua” (AA’).
Qua các yếu tố song song B // B’ và BB // BB’, Đức Giê-su từ một kẻ bị buộc tội
(B) trở thành người vô tội (B’). Từ chỗ bị đặt ngang hàng với Ba-ra-ba, Người
được nâng lên làm Con Thiên Chúa (BB) và được gọi là vua (BB’).
Các yếu tố C và CC là những đối
thoại ở bên trong dinh giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô. Trong đoạn văn
18,28–19,16a, Đức Giê-su chỉ trao đổi với Phi-la-tô. Đối thoại giữa Đức Giê-su
và những kẻ tố cáo đã bị cắt đứt bởi ranh giới “bên trong” và “bên ngoài”. Chính
ở trên phần đất được xem là nhiễm uế mà Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa “vương
quyền” và “quyền bính” cho Phi-la-tô (người đại diện đế quốc Rô Ma), và qua
ông, Đức Giê-su nói với thế giới dân ngoại.
Việc lý giải giới hạn của đoạn văn,
phân tích bối cảnh văn chương và cấu trúc như trên đã giúp độc giả quan sát kỹ
bản văn 18,28–19,16a. Những phân tích sau đây nhằm tìm hiểu ý nghĩa của đoạn
văn; nghĩa là điều mà người thuật chuyện muốn người đọc nhận ra qua nội dung và
cách trình bày câu chuyện. Đó là sự thật về những kẻ chống đối Đức Giê-su sẽ
được trình bày trong bài tiếp theo (bài 2/5).
Bài 2: SỰ THẬT VỀ NHỮNG KẺ CHỐNG ĐỐI ĐỨC GIÊSU
Những gì xảy ra bên ngoài dinh
Phi-la-tô liên quan đến nhân vật Phi-la-tô và những kẻ tố cáo Đức Giê-su. Mặc
dù Đức Giê-su không giao tiếp với họ nhưng tất cả các trao đổi bên ngoài dinh
đều liên quan đến Người. Chúng ta sẽ tập trung phân tích đề tài “sự thật” nơi
ba nhân vật:
1) Những kẻ tố cáo;
2) Phi-la-tô;
3)
Đức Giê-su.
Theo
cách trình bày câu chuyện, sự thật về các nhân vật này được tỏ lộ
dần dần trong đoạn văn 18,28–19,16a. Bài này sẽ tìm hiểu về sự thật liên quan
đến những kẻ chống đối Đức Giê-su.
Cấu trúc đoạn văn 18,28–19,16a mở
đầu và kết thúc với đại từ “họ”. Họ là ai? Nhóm nhân vật này dần dần xuất hiện
qua câu chuyện. Ở 18,28-30 người đọc chưa biết “họ” là ai. Đến 28,31, nhân vật
“những người Do Thái” xuất hiện: “Những người Do Thái nói với ông ấy: ‘Chúng
tôi không được phép xử tử ai cả’” (18,31b). Sau đó lại xuất hiện nhân vật “các
thượng tế” ở 18,35; 19,6.15 và “các thuộc hạ” ở 19,6.
Trong đoạn văn
18,28–19,16a, các nhóm nhân vật “những người Do Thái” và “các thượng tế” gần
như đồng nhất với nhau. Quả vậy, ở 18,35, Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su: “Dân của
Ông và các thượng tế đã nộp Ông cho tôi. Ông đã làm gì?”,
nhưng trong câu trả lời, Đức Giê-su lại nói: “Nếu Nước của Tôi thuộc về thế
gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những
người Do Thái” (18,36). Nếu ở 19,6 các thượng tế cùng các thuộc hạ kêu
lên: “Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào thập giá”, thì ở
19,15 những người Do Thái kêu lên rằng: “Đem đi, đem đi, hãy
đóng đinh Nó vào thập giá” (19,15). Như thế, có sự đồng nhất giữa hai nhóm nhân
vật này. Về mặt chủng tộc, các thượng tế là những
người Do Thái, nhưng về mặt văn chương, Tin Mừng thứ tư cho phép phân
biệt hai nhóm nhân vật “các thượng tế” và “những người Do Thái”.
Trong Tin Mừng, nhóm
“những người Do Thái” tranh luận trực tiếp với Đức Giê-su từ ch. 2 đến ch. 10, trong khi nhóm
“các thượng tế” xuất hiện khá muộn (từ ch. 7). Đặc điểm của nhóm “các thượng
tế” là không tranh luận trực tiếp với Đức Giê-su. Nhóm này xuất hiện cùng với
nhóm Pha-ri-sêu trong việc tìm bắt Đức Giê-su (7,32-45) và trong việc quyết
định giết Người (11,47-57). “Các thượng tế” là những người quyết định giết cả
La-da-rô (12,10). Trong đoạn văn 18,28–19,16a, nhóm “các thượng tế” cùng với
nhóm “những người Do Thái” nộp Đức Giê-su cho Phi-la-tô và đòi đóng đinh Người. Việc hai nhóm này
xuất hiện trong đoạn văn 18,28–19,16a là có ý nghĩa. Nhóm nhân vật “những
người Do Thái” gợi lại tất cả những tranh luận giữa họ với Đức Giê-su trong suốt Tin
Mừng. Nhóm “các thượng tế” gợi lại việc họ triệu tập Thượng Hội Đồng, quyết
định giết Đức Giê-su (11,47-53) và ra lệnh bắt Người (11,57). Vì thế, đại từ
“họ” trong đoạn văn 18,28–19,16a chỉ hai nhóm này và có thể gọi “họ” là “những
kẻ tố cáo Đức Giê-su”. Bản văn không trình bày rõ ràng ngay từ đầu ai là người
dẫn Đức Giê-su đến dinh Phi-la-tô mà chỉ dùng đại từ “họ”. Người đọc sẽ
dần dần khám phá ra “họ” là ai trong quá trình đọc bản văn.
Sự tỏ lộ dần dần qua bản
văn phù hợp với sự tỏ lộ khác cũng dần dần, đó là những điều họ tố cáo Đức
Giê-su trước Phi-la-tô. Chỉ khi đọc đến cuối đoạn văn, độc giả mới biết hết ý
định của những kẻ tố cáo Đức Giê-su. Khởi đầu, họ kết tội Đức Giê-su là “người
làm điều ác” (18,30). Họ đòi tha Ba-ra-ba là một tên cướp (18,40), nghĩa là Đức
Giê-su được xếp vào hàng trộm cướp. Theo họ, Đức Giê-su đáng tội chết vì làm
điều ác. Kế đến, họ để lộ lý do sâu xa hơn: Đức Giê-su phải chết vì Người tự
xưng là Con Thiên Chúa; họ nói với Phi-la-tô: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật;
và chiếu theo Lề Luật, thì Ông ta phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa”
(19,7). Đến cuối đoạn văn, họ lại tố cáo Đức Giê-su về tội chính trị, khi nói
với Phi-la-tô: “Nếu ông tha người này, ông không là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự
cho mình là vua thì chống lại Xê-da” (19,12).
Như thế, những kẻ nộp
Đức Giê-su tố cáo Người ba tội: Tội hình sự (làm điều ác, 18,40); tội nói phạm
thượng (xưng là Con Thiên Chúa, 19,7); và tội chính trị (xưng là vua, 19,12).
Ba tội danh này nhằm đạt được điều những kẻ tố cáo muốn làm mà họ không được
phép làm: Giết Đức Giê-su. Họ nói rõ sự bất lực của họ với Phi-la-tô: “Chúng
tôi không được phép xử tử ai cả” (18,31). Câu giải thích của người thuật chuyện
trong câu tiếp theo 18,32: “Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su, lời Người nói về
việc Người sẽ phải chết cách nào”, cho thấy số phận Đức Giê-su đã được quyết
định từ trước. Đoạn văn 18,28–19,16a không nhằm mục đích xét xử Đức Giê-su; nhưng qua
câu chuyện này, người thuật chuyện muốn làm sáng tỏ sự thật sâu xa về các nhân
vật: sự thật về những kẻ tố cáo, sự thật về Phi-la-tô và sự thật về Đức Giê-su.
Sự thật bên trong của những kẻ tố
cáo được tỏ lộ dần dần với các yếu tố thời gian và nơi chốn. Lúc trời vừa sáng
(18,28) mọi sự chưa sáng tỏ, người đọc chưa biết “họ” là ai và chưa hiểu hết ý
định của “họ”. Nhưng đến cuối trình thuật, vào lúc 12 giờ trưa (19,14), sự thật
về họ được tỏ lộ rõ ràng. “Họ” là “những người Do Thái”, “các thượng tế”, những kẻ chống đối và bách hại Đức
Giê-su trong suốt sứ vụ công khai của Người. Họ không dám vào dinh Phi-la-tô vì
sợ bị nhiễm uế, nhưng lại tìm mọi cách giết Đức Giê-su. Họ là những người trung
thành với Thiên Chúa trong việc giữ luật thanh sạch để dự lễ Vượt Qua, nhưng
đến cuối trình thuật, giữa thanh thiên bạch nhật, họ tuyên bố: “Chúng tôi không
có vua nào cả ngoài Xê-da” (19,15).
Qua cách trình bày các
nhân vật như thế, người thuật chuyện đã tạo ra sự đảo lộn ngoạn mục. Những kẻ
tố cáo Đức Giê-su tìm mọi cách giết Người mà không quan tâm đến việc xét xử
(phân định xem bị cáo có tội hay vô tội) làm cho họ trở thành “những người làm
điều ác” chứ không phải là Đức Giê-su.
Sự đảo lộn về không gian
cũng là nét độc đáo của đoạn văn. Ngay từ đầu, sự phân biệt bên trong dinh (bị
nhiễm uế thuộc về dân ngoại) và bên ngoài dinh (thuộc phần đất không bị nhiễm
uế) mang ý nghĩa tôn giáo. Không gian địa lý này gợi về không gian thần học:
“Bên ngoài” dinh thuộc về dân Thiên Chúa và “bên trong” dinh thuộc về dân
ngoại. Những kẻ nộp Đức Giê-su được giới thiệu như là những người trung thành
với Thiên Chúa, họ không vào trong dinh để có thể dự lễ Vượt Qua kính Đức Chúa
là Đấng đã cứu dân khỏi ách nô lệ Ai-cập. Họ tùng phục Thiên Chúa đến mức ai
nói phạm thượng thì phải chết, vì Dân Thiên Chúa chỉ tôn thờ một mình Thiên
Chúa. Trớ trêu thay, cuối đoạn văn họ lại tuyên bố Xê-da là vua của họ, trong
khi Thiên Chúa mới là Vua thực sự của họ. Vẻ bên ngoài, họ trung thành với
Thiên Chúa, nhưng thực ra họ tôn thờ Xê-da (19,15).
Như thế, không gian thần
học bị đảo lộn: Những kẻ giữ luật, tránh bị nhiễm uế qua hình thức bên ngoài,
lại lộ ra thái độ bên trong: Sống theo kiểu dân ngoại, tung hô Xê-da và bất
trung với Thiên Chúa. Họ đòi giết Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Qua cách trình bày nhân
vật như trên, bản văn làm lộ ra bộ mặt thật của những kẻ tố cáo. Đức Giê-su đã
tố cáo tội của họ khi Người nói với Phi-la-tô: “Kẻ nộp Tôi cho ông thì mắc tội
nặng hơn” (19,11b). Người thuật chuyện mời gọi người đọc ra được những sự thật
trên nơi những kẻ chống đối Đức Giê-su để soi rọi vào cuộc đời mình.
Bài tiếp theo (bài 3/5)
sẽ trình bày sự thật về Phi-la-tô, một trong những nhân vật chính của câu
chuyện.
Bài 3: SỰ THẬT VỀ PHI-LA-TÔ
Trong đoạn văn 18,28–19,16a,
Phi-la-tô là nhân vật trung tâm. Ông làm cầu nối giữa bên trong và bên ngoài
dinh. Thoạt đầu ông không muốn liên lụy đến vụ xét xử Đức Giê-su khi ông nói
với những kẻ tố cáo Người: “Các người cứ đem Ông ấy đi và xét xử Ông ấy theo
luật của các ngươi” (18,31a). Việc Phi-la-tô từ chối can thiệp cho thấy Đức
Giê-su không nguy hiểm về an ninh chính trị, đó chỉ là xung đột nội bộ giữa
những kẻ tố cáo và Đức Giê-su.
Về phía những kẻ tố cáo, vấn đề
không phải là xét xử để biết Đức Giê-su có tội hay vô tội, mà họ tìm cách để
giết Đức Giê-su. Họ kéo Phi-la-tô vào cuộc đương đầu với những đối đáp ngày
càng gay gắt. Khởi đầu, khi họ kết tội Đức Giê-su làm điều ác thì Phi-la-tô lại
quan tâm đến tư cách “vua dân Do Thái” (18,33) của Người. Phi-la-tô tuyên
bố ngược với điều họ tố cáo: Không tìm được lý do để kết tội Đức Giê-su
(18,38). Khi những kẻ tố cáo đòi giết Đức Giê-su bằng cách hô lên: “Hãy đóng
đinh vào thập giá” (19,6) và “Đem đi, đem đi, hãy đóng đinh Nó vào thập giá”
(9,15a) thì Phi-la-tô đáp lại cách mỉa mai: “Ta đóng đinh vua của các người
sao?” (19,15b). Những kẻ tố cáo đòi giết thì Phi-la-tô lại tìm cách tha
(19,12). Ông khẳng
định ba lần Đức Giê-su vô tội (18,38; 19,4.6). Như thế, Phi-la-tô đã dùng Đức
Giê-su để đối đầu với những kẻ tố cáo Người.
Trong đoạn văn 18,28–19,16a, Phi-la-tô xử sự cách mâu thuẫn và bất công với Đức
Giê-su. Thật thế, mâu thuẫn và bất công trước tiên là ông tuyên bố không tìm
thấy điều gì để kết tội Đức Giê-su nhưng lại đặt Người ngang hàng với Ba-ra-ba.
Tục lệ ân xá trong dịp lễ dành cho các tội nhân chứ không phải dành cho người
vô tội. Việc ông đề nghị với những kẻ tố cáo lựa chọn giữa Đức Giê-su và
Ba-ra-ba là xếp Người vào hạng trộm cướp. Mâu thuẫn và bất công thứ hai là nếu
Đức Giê-su vô tội, tại sao Phi-la-tô lại cho đánh đòn (19,1) và để quân lính
nhục mạ Người (19,2-3)? Hơn nữa, sau khi cho đánh đòn, chính Phi-la-tô lại
tuyên bố Đức Giê-su vô tội (19,4). Mâu thuẫn và bất công thứ ba là Phi-la-tô
tuyên bố ông có quyền tha hay đóng đinh Đức Giê-su, nhưng ông lại không thi
hành quyền này. Ông không tuyên bố Đức Giê-su có tội hay vô tội mà chỉ làm theo
đòi hỏi của những kẻ tố cáo, ông đã trao Đức Giê-su cho họ (19,16a).
Sự thật về
Phi-la-tô lộ tỏ khi những kẻ tố cáo đe doạ: “Nếu ông tha người này, ông không
là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da” (19,12). Để
bảo vệ quyền lợi, ông đành thí bỏ Đức Giê-su. Ông không dám xét xử Người theo
sự thật. Động từ “xét xử” ở đây hiểu là động từ kép: Trước là “xét”
xem bị cáo đúng hay sai, vô tội hay có tội; sau đó tuyên án “xử”, nghĩa
là tuyên bố hình phạt nếu bị cáo có tội và tuyên bố tha nếu
bị cáo vô tội. Phi-la-tô đã không dám đứng về phía sự thật để thi hành việc xét
xử.
Sự thật về Phi-la-tô trong đoạn văn 18,28–19,16a là ông
chủ ý chọc tức và làm nhục những kẻ tố cáo Đức Giê-su. Ông gọi Đức Giê-su là
vua của họ, nhưng trong mắt ông, đó là “vị vua hề”: Đức Giê-su là vua nhưng
không có chút quyền lực nào. Ông là người sử dụng quyền hành cách độc đoán vì
vừa tuyên bố Đức Giê-su vô tội vừa cho đánh đòn Người. Qua những mâu thuẫn và
bất công nơi nhân vật Phi-la-tô trong đoạn văn, người thuật chuyện cho độc giả
thấy ông cũng chẳng hơn gì những kẻ tố cáo Đức Giê-su. Ông cũng có tội, nhưng
những kẻ nộp Đức Giê-su cho ông thì mắc tội nặng hơn (19,11).
Sự đối đầu giữa Phi-la-tô và những kẻ tố cáo vừa cho thấy
ý định giết Đức Giê-su của những kẻ tố cáo; vừa lộ ra thái độ không dám đứng về
phía sự thật của Phi-la-tô (18,37b). Như thế, câu chuyện đưa ra ánh sáng sự
thật về Phi-la-tô, sự thật về sự lựa chọn của ông, sự thật về cách ông thực thi
quyền hành. Phi-la-tô không xét xử Đức Giê-su, vậy ai mới thực sự là người xét
xử trong câu chuyện? Những sự thật khác về Phi-la-tô sẽ được bàn tới trong bài
sau (bài 4/5) khi phân tích sự thật về Đức Giê-su qua những lời Phi-la-tô trao
đổi với Đức Giê-su.
Bài 4: SỰ THẬT VỀ ĐỨC GIÊ-SU
Đức Giê-su
trong đoạn văn 18,28–19,16a không nói nhiều, nhưng Người là nhân vật chính. Tất
cả các nhân vật khác đều nói về Người và họ chỉ xuất hiện trong tương quan với
Đức Giê-su. Sự đảo lộn cũng xảy ra với Đức Giê-su phù hợp với diễn tiến câu
chuyện từ tờ mờ sáng đến giữa trưa. Căn tính của Đức Giê-su lộ tỏ dần dần trong
câu chuyện. Khởi đầu Người bị tố cáo là người làm điều ác và bị đặt ngang hàng
với quân trộm cướp. Giữa đoạn văn, Người là Con Thiên Chúa và cuối đoạn văn Đức
Giê-su là vua dân Do Thái. Dưới hình thức những
lời tố cáo, châm biếm, nhục mạ, sự thật về Đức Giê-su được bày tỏ.
Đối với độc giả, nếu như Đức Giê-su phải chết vì tội tự
xưng là Con Thiên Chúa thì cái chết đó minh chứng rằng: Người đích thật là Con
Thiên Chúa. Sự thật về tư cách vương đế của Đức Giê-su là đề tài quan trọng
trong đoạn văn. Không phải vô tình mà câu đầu tiên Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su:
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”
(18,33). Người thuật chuyện dẫn vào đề tài vương quyền của Đức Giê-su cách đột
ngột bằng câu hỏi của Phi-la-tô. Sau đó, đề tài này xuyên suốt bản văn với hai
từ “basileus” (vua) và “basileia” (vương quyền, vương quốc). Tất cả các nhân
vật khác đều nói đến tư cách vua của Đức Giê-su.
Phi-la-tô gọi Đức Giê-su là “vua dân Do Thái”; ông biết Đức Giê-su không phải là vua theo nghĩa chính
trị mà chỉ là vua hề. Thái độ và hành động quân lính cho thấy điều đó. Người
thuật chuyện kể: “Những người lính kết một vương miện bằng cây gai đặt lên đầu
Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ tía. Họ đến gần Người và nói: ‘Kính
chào vua dân Do Thái’ và họ
đánh Người” (19,2-3). Về phía những kẻ tố cáo, họ kết tội Đức Giê-su tự xưng là
vua theo nghĩa chính trị để dồn Phi-la-tô vào chân tường. Họ nói với ông ấy:
“Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da” (19,12).
Đối với
người đọc, tất cả những gì Phi-la-tô và những kẻ chống đối nói về tư cách vương
đế của Đức Giê-su là nhằm minh họa cho đề tài vương
quyền trong đoạn văn. Đề tài này được Đức Giê-su làm rõ ở bên trong dinh, khi
Người trao đổi với Phi-la-tô về tư cách vương đế của Người. Phân tích những gì
xảy ra bên trong dinh (hai cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô; việc
quân lính chế nhạo) sẽ làm sáng tỏ sự thật về Đức Giê-su.
CUỘC ĐỐI
THOẠI THỨ NHẤT (18, 33-38a)
Phi-la-tô |
Đức Giê-su |
c. 33: Ông là
vua dân Do Thái? |
c.34: Ai nói? |
35a: Tôi là
người Do Thái sao? Ông đã làm gì? |
36: Không
trả lời câu hỏi Mạc khải về vương quốc |
37a: Vậy Ông
là vua sao? |
37b: Xác
nhận gián tiếp. Mạc khải về sứ vụ |
38: Sự thật
là gì? |
|
Trong đối
thoại thứ nhất (18,33-38a), Phi-la-tô đặt ra cho Đức Giê-su năm câu hỏi
(18,33.25a35b.37a.38a). Điều này chứng tỏ ông là người chất vấn, là người hỏi
cung, người đang thi hành quyền xét xử. Nhưng cách trả lời của Đức Giê-su làm
cho tình thế đảo ngược. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp những câu hỏi của
Phi-la-tô. Cách Đức Giê-su đối đáp với Phi-la-tô làm lộ ra tư cách thẩm phán
của Người.
Trong lời
thoại thứ nhất, Phi-la-tô hỏi xem Đức Giê-su có phải là vua dân Do Thái không
(18,33). Người không trả lời, nhưng hỏi lại Phi-la-tô: “Ngài tự mình nói điều
ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?” (18,34). Việc Đức Giê-su đặt
câu hỏi cho người hỏi cung cho thấy tình huống đã bắt đầu thay đổi ngay từ câu
đầu tiên, khi người bị kết tội lại đặt câu hỏi cho người có quyền xét xử.
Trong câu hỏi thứ hai, Phi-la-tô vừa tự phân biệt mình
với những người Do Thái: “Tôi là
người Do Thái sao?”
(18,35a), vừa cho thấy vai trò của các nhân vật khi nói: “Dân của Ông và các
thượng tế đã nộp Ông cho tôi” (18,35b). Như thế, vị trí của các nhân vật được
phân định: Phía tố cáo là dân và các thượng tế; người xét xử là Phi-la-tô; và
người bị tố cáo là Đức Giê-su.
Câu hỏi tiếp theo của Phi-la-tô liên quan đến việc làm,
ông ấy hỏi Đức Giê-su: “Ông đã làm gì?” (18,35c). Đức Giê-su không trả lời trực
tiếp câu hỏi này. Thay vì trả lời, Người mặc khải về vương quốc của Người: “Vương quốc của Tôi
không thuộc về thế gian này. Nếu Vương quốc của Tôi thuộc về thế gian này,
thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái. Nhưng thật ra, Vương quốc của Tôi không ở chốn này”
(18,36). Đức Giê-su gián tiếp nói về tư cách vua của Người, vì vương quyền đi
đôi với vương quốc. Câu nói của Đức Giê-su (18,36) vừa đi vào chủ đề vương
quyền mà Phi-la-tô đã hỏi ở 18,33 vừa cho thấy tại sao Người có mặt trước
Phi-la-tô như là kẻ bị tố cáo.
Diễn tiến cuộc đối thoại cho thấy Đức Giê-su là người chủ
động dẫn chuyện. Người kéo Phi-la-tô trở lại đề tài vương quyền trong lời thoại
thứ ba. Khi Phi-la-tô hỏi: “Vậy Ông là vua sao?” (18,38a). Đức Giê-su khẳng
định gián tiếp: “Chính ngài nói rằng Tôi là vua” (18,37b); và Người mặc khải sứ vụ của Người: “Vì điều này, Tôi đã sinh ra,
và vì điều này, Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc
về sự thật thì nghe tiếng Tôi” (18,37c). Mặc khải này là câu trả lời về việc làm của
Người mà Phi-la-tô đã hỏi trước đây: “Ông đã làm gì?”
(18,35c). Đức Giê-su tóm kết sứ vụ của Người bằng cụm từ: “Làm chứng
cho sự thật.”
Một lần nữa, Đức Giê-su gợi ý để Phi-la-tô hỏi: “Sự thật
là gì?” (18,38a); sau khi hỏi xong, Phi-la-tô bỏ đi, ông không muốn nghe nói về
sự thật. Có lẽ vì ông sợ mất danh hiệu “bạn của Xê-da” (19,12) nên ông không
dám đứng về phía sự thật, không dám bênh vực sự thật về Đức Giê-su.
Tóm lại, đề tài chính trong cuộc đối thoại thứ nhất ở bên
trong dinh (18,33-38a) là tư cách vua của Đức Giê-su, Người
nói về vương quyền và vương quốc của Người. Chính Người dẫn câu chuyện và gợi ý
cho Phi-la-tô đặt câu hỏi. Người trả lời các câu hỏi của Phi-la-tô sau một
nhịp; nghĩa là Phi-la-tô hỏi câu thứ hai thì Đức Giê-su trả lời câu thứ nhất.
Ông hỏi câu thứ ba thì Người trả lời câu thứ hai.
Cuộc đối
thoại tiến triển như sau: Phi-la-tô hỏi về tư cách vua thì Đức Giê-su không trả
lời mà hỏi lại Phi-la-tô (18,34). Phi-la-tô hỏi về việc làm thì Đức Giê-su lại
trả lời về vương quốc và vương quyền (18,36). Phi-la-tô hỏi trở lại về tư cách
vua thì Đức Giê-su lại nói về việc làm của Người (18,37). Cách trình bày cuộc
đối thoại như thế cho thấy Đức Giê-su chủ động trong cuộc trao đổi. Người nói
với tư cách là Đấng mặc khải chứ không phải như người bị chất
vấn. Cuối cuộc trao đổi thứ nhất, Phi-la-tô đã ở vào thế bị động, ông không dám
đối diện với sự thật. Việc đặt câu hỏi rồi bỏ đi ra ngoài cho thấy ông sợ đối
diện với sự thật về Đức Giê-su và sự thật về chính ông.
Phần chuyển tiếp (19,1-3) vừa làm tỏ lộ sự thật về
Phi-la-tô, vừa bày tỏ sự thật về vương quyền Đức Giê-su, không phải bằng lời
nói mà qua những gì quân lính làm. Tiểu đoạn 19,1-3 có cấu trúc đồng tâm A, B,
A’ với sự tương phản giữa “không có quyền” và “những dấu chỉ quyền hành”:
CẤU TRÚC
19,1-3
A.
19,1: Không có quyền
Đức
Giê-su bị đánh đòn
B. 19,2-3a: Ba dấu chỉ vương quyền
vương
miện, áo choàng đỏ, lời chào
A’.
19,3b: Không có quyền
Đức
Giê-su bị quân lính đánh
Những gì quân lính làm
cho Đức Giê-su là để chế nhạo, để làm cho Người trở thành vua hề. Đó là một vị
vua không có quyền lực. Vương miện bằng gai do quân lính đặt lên đầu Đức
Giê-su; áo choàng đỏ do quân lính khoác; họ cúi chào và lập tức chứng tỏ quyền hành
bằng cách đánh Người. Như thế, quân lính mới thực sự là những người có quyền.
Đức Giê-su được trình
bày như người bị tước hết mọi quyền hành, bị xỉ nhục, bị đối xử bất công.
Phi-la-tô dùng quyền hành cách độc đoán: Ông cho đánh đòn Đức Giê-su, mặc dù
không tìm thấy điều gì để kết tội Người. Phi-la-tô tỏ ra thiếu trách nhiệm
trong việc thi hành quyền bính. Đức Giê-su sẽ tố cáo Phi-la-tô điều này trong
cuộc đối thoại thứ hai (19,9-11).
Người đọc tự hỏi, việc Đức Giê-su bị
xỉ nhục như vị vua hề có ý nghĩa gì? Tại sao Người lại nói về vương quyền ngay
trước lúc Người bị đóng đinh? Như Đức Giê-su đã nói với Phi-la-tô: Vương quốc
và vương quyền của Người không thuộc về thế gian này; nghĩa là Người không cạnh
tranh với vương quyền trần thế. Phần chuyển tiếp (19,1-3) trình bày vương quyền
Đức Giê-su qua các từ “vương miện” (19,2a), “áo choàng đỏ” (19,2b), “lời chào”
(19,3a) nhưng lại kèm theo sự xỉ nhục.
Cách người thuật chuyện
trình bày vương quyền như thế nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa thần học về vương quyền
của Đức Giê-su. Những yếu tố tiêu cực: “Đánh đòn”, “vòng gai”, “vả mặt” nói lên
sự khác biệt giữa vương quyền Đức Giê-su và vương quyền trần thế. Chính lúc
Người bị tước hết mọi quyền là lúc tốt nhất để thể hiện vương quyền của Người.
Khi Đức Giê-su bị tước hết mọi quyền lực trần thế, vương quyền của Người được
tỏ lộ cách rõ ràng nhất. Trong hoàn cảnh như thế, vương quyền của Đức Giê-su sẽ
không bị hiểu lầm, hiểu sai, hiểu lệnh lạc hay lẫn lộn với vương quyền trần
thế.
Ở ch. 6, sau dấu lạ bánh
hóa nhiều, Đức Giê-su biết đám đông sẽ tôn Người làm vua, nên Người đã lánh đi
(16,15). Dân chúng chưa hiểu đúng vương quyền của Người. Trình bày vương quyền
Đức Giê-su khi Người không còn chút quyền hành trần thế, tránh được mọi hàm hồ
dị nghĩa về tư cách vua của Đức Giê-su. Như thế, phần chuyển tiếp (19,1-3)
minh họa cho
lời Đức Giê-su nói trong cuộc đối thoại thứ nhất với Phi-la-tô: Người là Vua và
Vương quốc của Người không thuộc về thế gian này (18,37), nhưng Người thi hành
vương quyền trong thế gian này.
Cuộc đối thoại thứ hai với Phi-la-tô
cho thấy ai là người thi hành quyền xét xử. Đối thoại thứ hai (19,9-11) giữa
Phi-la-tô và Đức Giê-su ngắn hơn đối thoại thứ nhất, gồm ba câu hỏi của
Phi-la-tô và một câu trả lời của Đức Giê-su.
CUỘC ĐỐI THOẠI THỨ HAI (19,9-11):
Phi-la-tô |
Đức Giê-su |
c.9a: Ông từ
đâu đến? |
c.9b: (Không
trả lời) |
c.10: Ông
không trả lời tôi ư? Ông không biết là tôi có quyền tha ông hay đóng đinh ông
vào thập giá sao? |
c.11: Đức
Giê-su mạc khải về quyền bính và kết tội. Người thi hành quyền xét xử |
Cuộc đối
thoại thứ hai bắt đầu bằng sự sợ hãi của Phi-la-tô. Khi những người Do Thái nói:
“Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì Ông ta phải chết
vì đã cho mình là Con Thiên Chúa” (19,7). Người thuật chuyện cho biết: “Khi
Phi-la-tô nghe lời này, ông càng sợ hơn. Ông lại trở vào dinh và nói với Đức
Giê-su: ‘Ông từ đâu đến?” (19,8-9). Phi-la-tô sợ hơn, nghĩa là trước đó ông đã
sợ. Nỗi sợ của Phi-la-tô có lẽ đã nảy sinh từ cuối cuộc đối thoại thứ nhất khi
ông không dám đối diện với sự thật (18,38). Nếu ông sợ sự thật thì ông không
thể thi hành quyền xét xử. Ở 19,8, Phi-la-tô sợ hơn, vì một đàng Đức Giê-su nói
Vương quốc của Người không thuộc chốn này; đàng khác, những người Do Thái xác
nhận Người là Con Thiên Chúa; đây mới là lý do đích sâu xa khiến Đức Giê-su
phải chết. Như thế, Phi-la-tô sợ vì nhận ra rằng ông đang đối diện với Con
Thiên Chúa; đối diện với một vị Vua có
Vương quốc không thuộc về thế gian này (18,36).
Nếu như
trong cuộc đối thoại thứ nhất, Đức Giê-su cho biết Người là Vua thì trong cuộc
đối thoại thứ hai, Người thi hành quyền xét xử. Phi-la-tô tự cho là có quyền
khi nói với Đức Giê-su: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha Ông và có quyền
đóng đinh Ông vào thập giá sao?” (19,10). Nhưng thực ra, Phi-la-tô không có
quyền, đúng hơn ông không đủ can đảm thực thi quyền hành. Đức Giê-su nói về
nguồn gốc của quyền bính và Người kết tội những kẻ tố cáo và cả Phi-la-tô nữa.
Người nói với ông ấy: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được ban
cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn” (19,11).
Tình thế đã bị đảo ngược hoàn toàn, lời cuối cùng Đức
Giê-su nói với Phi-la-tô là lời kết tội, lời xét xử, lời tuyên án. Như thế, Đức
Giê-su đã thực thi vương quyền của Người trong thế gian, ngay chính lúc Người
bị thế gian tước hết mọi quyền hành. Sự đảo ngược độc đáo trong đoạn Tin Mừng
là ở chỗ Đức Giê-su, người bị tố cáo, bị kết tội, lại trở thành vị thẩm phán
đích thực; Người có quyền xét xử và tuyên bố ai là người có tội.
Tư cách
thẩm phán này được nhấn mạnh khi Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi vào nơi dành cho
vị thẩm phán: “Phi-la-tô đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng
Híp-ri là Gáp-ba-tha” (19,13). Động từ “kathizô” (đặt ngồi), ở 19,13 dùng ở
ngôi thứ ba số ít nên có thể hiểu hai cách: “Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi” hay
“Phi-la-tô ngồi” vào nơi gọi là Nền Đá. Vì trong đoạn văn, Phi-la-tô không
tuyên bố lời xét xử nên hiểu theo nghĩa ông đặt Đức Giê-su ngồi phù hợp hơn.
Một đàng Phi-la-tô muốn Đức Giê-su đóng vai vị thẩm phán hề; đàng khác người
thuật chuyện chủ ý trình bày Đức Giê-su như vị thẩm phán. Phi-la-tô muốn Đức
Giê-su đóng vai vị vua hề đến cùng; nhưng thực ra, Phi-la-tô đã nói
đúng về Đức Giê-su khi gọi Người là “vua dân Do Thái” và
đã làm đúng khi đặt Người ngồi vào chỗ ngồi của vị thẩm phán.
Yếu tố
thời gian cuối trình thuật cho thấy ý nghĩa thần học về giờ chết của Đức
Giê-su. Hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua vào khoảng 12 giời trưa (19,14). Khi
Phi-la-tô trao Đức Giê-su để người bị đóng đinh cũng là lúc trong đền thờ người
ta giết chiên để mừng lễ Vượt Qua, Đức Giê-su trở thành chiên Vượt Qua mới.
Tóm lại,
vào lúc 12 giờ trưa, giữa thanh thiên bạch nhật, sự thật về Đức Giê-su được lộ
tỏ. Người là Con Thiên Chúa, Người là Vua, Vương quốc của Người không thuộc về
thế gian nhưng Người thi hành vương quyền của Người trong thế gian này. Ý nghĩa
bản văn thật phong phú, nhưng việc hiểu
bản văn chỉ kết thúc khi nhận ra điều bản văn muốn nói với người đọc hôm nay.
Bài tiếp thep (bài 5/5) sẽ áp dụng một vài điều vào cuộc sống độc giả.
Bài 5: ÁP DỤNG Ý NGHĨA ĐOẠN VĂN Ga 18,28–19,16a VÀO CUỘC SỐNG
Loạt bài trên đã tìm hiểu sự thật
nơi những kẻ chống đối Đức Giê-su, sự thật nơi nhân vật Phi-la-tô và sự thật về
Đức Giê-su. Trong quá trình đọc, độc giả có thể
có thiện cảm hay ác cảm với các nhân vật trong câu chuyện. Người đọc có thể tự
đồng hóa với các nhân vật
và lựa chọn đứng về phía nhân vật chính diện. Các tình tiết trong câu chuyện có
thể soi rọi vào những tình huống tương tự trong cuộc sống người đọc. Mỗi độc
giả có một lịch sử cuộc đời riêng, nên việc cảm nhận và sống bản văn cũng khác
nhau.
Trong đoạn văn 18,28–19,16a, người
đọc có thể đối chiếu với cuộc sống qua đề tài sự thật. Sự thật được lộ tỏ dần
dần trong bản văn từ tờ mờ sáng cho đến giữa trưa. Đó là sự thật của những kẻ
tố cáo Đức Giê-su, sự thật của Phi-la-tô và sự thật của Đức Giê-su. Người đọc
có thể thấy sự thật về chính mình hay sự thật về người khác qua các nhân vật
trong đoạn văn 18,28–19,16a.
Trong vị trí của những
kẻ tố cáo Đức Giê-su, người đọc, hay ai đó, có thể đã vô tình hay hữu ý đi
ngược với sự thật để đạt được điều mình muốn. Trong bản văn, những kẻ tố cáo
không có bằng chứng về việc Đức Giê-su làm điều ác, hay tự xưng là vua theo nghĩa
chính trị; dầu vậy, họ vẫn tìm cách giết Đức Giê-su. Khi những kẻ chống đối tìm
mọi cách để đạt mục đích, họ vô tình đi ngược lại niềm tin của họ: Bên ngoài,
họ giữ lề luật; nhưng thực ra, họ bất trung với Thiên Chúa vì đã tuyên xưng
thần phục Xê-da. Bản văn mời gọi người đọc xem lại tính chính đáng của những
điều mình đang đeo đuổi.
Về nhân vật Phi-la-tô,
bản văn đặt người đọc, hay ai đó, trước việc dùng người khác để khiêu khích đối
phương (Phi-la-tô dùng Đức Giê-su để châm chọc những kẻ tố cáo Người). Điều này
dẫn đến tự mâu thuẫn với chính mình khi tìm cách tỏ ra là mình là người
có quyền hành (Phi-la-tô không tìm thấy lý do để
kết tội mà lại cho đánh đòn và chế nhạo Đức Giê-su). Khi quyền lợi bị nguy hại, người ta có thể không dám đứng về phía
sự thật (Phi-la-tô không dám xét xử Đức Giê-su theo sự thật). Nhân vật
Phi-la-tô có thể là lời chất vấn cho người đọc.
Qua nhân vật trọng tâm
là Đức Giê-su, Người đọc được mời gọi phân biệt giữa vương quyền của Đức Giê-su
và vương quyền trần thế. Sự phân biệt này có thể buộc người đọc thay đổi quan
niệm của mình về vương quyền và quyền bính. Sự thật về Đức Giê-su và sự thật về
vương quyền của Người trong bản văn giúp người đọc biết cách bày tỏ quyền bính
và vương quyền của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể.
Tóm lại, bản văn 18,28–19,16a là lời
mời gọi người đọc đứng về phía sự thật. Câu nói của Đức Giê-su: “Bất cứ ai
thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi” (18,37c) cũng là câu mà người thuật chuyện
dành cho độc giả. Đọc toàn bộ Tin Mừng thứ tư, người đọc sẽ biết sự thật là gì,
để làm gì và sự thật là ai. Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Nếu các ông ở lại trong lời của
Tôi, các ông là môn đệ đích thực của Tôi, và các ông sẽ biết sự thật, và sự
thật sẽ giải phóng các ông” (8,31-32). Sự thật có khả năng giải phóng người đọc
khỏi mọi thứ nô lệ. Sự thật đó là Lời Thiên Chúa, như Đức Giê-su nói với Cha
Người: “Xin Cha thánh hiến họ trong sự thật. Lời của Cha là sự thật” (17,17).
Đức Giê-su đến để nói Lời của Thiên Chúa, và chính Người là Ngôi Lời của Thiên
Chúa (1,1-18), nên chính Người là sự thật. Đức Giê-su đã nói với các môn đệ:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (14,6).
Thực ra, thuộc về sự
thật hay đứng về phía sự thật không gì khác hơn là đứng về phía Thiên Chúa,
thuộc về Thiên Chúa, như Đức Giê-su nói: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời
Thiên Chúa” (8,47). Thuộc về sự thật là điều kiện để nghe Đức Giê-su (18,37) và
khi đã biết sự thật là gì, là ai và để làm gì, người đọc được mời gọi làm
theo sự thật (3,21) và làm chứng cho sự thật như Đức
Giê-su (18,37).
Qua sự việc tất cả các nhân vật theo
đuổi mục đích riêng của mình, người thuật chuyện muốn trình bày đề tài vương
quyền của Đức Giê-su trong đoạn văn 18,28–19,16a. Để tìm cách giết Đức Giê-su,
những kẻ tố cáo kết tội Người là kẻ làm điều ác, là người tự cho mình là Con
Thiên Chúa và xưng là vua. Phi-la-tô chọc tức những kẻ tố cáo bằng cách gọi Đức
Giê-su là vua của những người Do Thái;
ông để quân lính làm cho Người thành vị vua hề. Phi-la-tô đặt Người ngồi trên
toà xét xử để làm vị thẩm phán hề. Theo cách trình bày của người thuật chuyện,
các nhân vật đã vô tình nói đúng và làm đúng về
Đức Giê-su. Quả thật Người là Con Thiên Chúa, là Vua và Người thi hành quyền
xét xử.
Bản văn đã làm đảo lộn
tình thế và làm lộ tỏ ra sự thật của các nhân vật. Những kẻ tố cáo không vào
dinh để khỏi bị ô uế, trong khi họ tìm mọi cách để giết Đức Giê-su. Họ chuẩn bị
mừng lễ Vượt Qua kính Đức Chúa, nhưng lại tuyên xưng thần phục Xê-da. Họ đạt
được mục đích là giết Đức Giê-su, nhưng phải trả giá đắt. Họ trở thành những
người tôn thờ Xê-da, nghĩa là bất trung với Thiên Chúa của họ. Phi-la-tô có
quyền xét xử, nhưng lại sợ hãi và không dám đứng về phía sự thật. Ông là người
có quyền, nhưng thực ra là không có. Nơi mà những kẻ tố cáo Đức Giê-su cho là
bị nhiễm uế (bên trong dinh), thì ở đó Đức Giê-su mặc khải cho Phi-la-tô (đại
diện đế quốc Rô Ma) về quyền bính và về vương quyền của Người. Như thế, vương
quyền của Đức Giê-su mang tính phổ quát, vì không chỉ giới hạn trên phần đất
“không bị nhiễm uế”. Đầu bản văn 18,28–19,16a, Đức Giê-su bị kết tội là người
làm điều ác; đến cuối đoạn văn, Người là Con Thiên Chúa và là Vua.
Qua những đảo lộn ngoạn mục trong đoạn văn 18,28–19,16a, có nét châm biếm, mỉa mai nơi các nhân vật, người thuật chuyện đã trình bày thành công các đề tài thần học quan trọng: “Sự thật nơi các nhân vật” và “Vương quyền Đức Giê-su”. Người thuật chuyện mời gọi người đọc soi rọi vào cuộc đời mình qua ý nghĩa trong bản văn và qua tương tác giữa “thế giới bản văn” (le monde du texte) và “thế giới người đọc” (le monde du lecteur) để từ đó đón nhận sự thật, tin vào sự thật, sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật.