
Phêrô Nguyễn Hải Nam, C.Ss.R.
Trong tất cả các thụ tạo hữu hình, chỉ con người có khả năng nhận biết và
yêu mến Đấng Tạo Hóa nên mình, chỉ con người được kêu gọi tham dự vào sự sống của
Thiên Chúa.[1] Vì thế nhờ ân sủng, mỗi một
người được kêu gọi dâng lên Ngài một lời đáp trả của đức tin và tình yêu, mà
không ai có thể thay thế được. Và trong dòng lịch sử, Đức Trinh Nữ Maria là người
thể hiện điều này cách hoàn hảo nhất ngang qua lời thưa “Fiat”.
Nhận biết và yêu mến cũng có nghĩa là đón nhận và đáp trả. Người đáp trả
tình yêu trước hết phải là người biết mình được yêu. Tình yêu đó chính là Thiên
Chúa. “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc
1,29). Lời chào của thiên sứ Gabriel có thể làm Đức Maria bối rối nhưng cũng
nói lên được sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho Mẹ - Đấng được
yêu mến và sủng ái. “Này bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên
là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao Đức Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vang vua Đavit, tổ tiên Người. Người sẽ trị vị
nhà Giacop đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).
Là một thiếu nữ Do Thái, Mẹ cũng mong ngóng, chờ đợi Đấng Messia mà Thiên Chúa
đã hứa ban cho dân tộc của Mẹ. Vì thế, khi biết được kế hoạch Thiên Chúa đã định,
linh hồn Mẹ ngợi khen Thiên Chúa, thần trí Mẹ hớn hở vui mừng. Và thái độ đon đả
lên đường đi thăm bà Elisabeth đã lột tả hết niềm vui trào tràn nơi Mẹ. Để rồi,
nơi căn nhà của bà chị họ, Mẹ đã xướng lên một trong những lời kinh chúc tụng
tình yêu Thiên Chúa đẹp nhất trong Thánh Kinh - lời kinh Magnificat (x. Lc
1,46-55). Tình yêu mà Mẹ ca tụng rất cá vị và cụ thể. Ở làng Nadaret không có
gì hay ho (x. Ga 1,46) mà Thiên Chúa - “Đấng Cứu Độ Mẹ” lại đoái thương phận nữ
tỳ hèn mọn, để rồi từ nay hết mọi đời, Mẹ được khen là diễm phúc. Chúa Cha đã
thi ân giáng phúc cho Mẹ hơn bất cứ loại thụ tạo nào khác, cho Mẹ hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần (x. Ep 1,3), Ngài đã chọn Mẹ từ trước trong Đức Kitô
(x. Ep 1,4). Như là thiếu nữ Sion, Mẹ là đại diện rõ ràng nhất “những người
nghèo của Thiên Chúa”. Các Anawim hay “số sót” này hằng cậy trông vào một mình
Thiên Chúa.[2] Từ đó, Mẹ nhận ra được
lòng quảng đại của Đấng Toàn Năng khi Người đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả:
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, ban của đầy dư cho kẻ đói nghèo. Và vị
Thiên Chúa của Abraham, của Israel tôi tớ vẫn hằng trung tín từ đời nọ đến đời
kia, Người vẫn nhớ lại lòng thương xót như đã hứa cùng cha ông của Mẹ. Lời hứa
đó nay sẽ thành toàn nơi Mẹ qua lời loan báo của sứ thần.
Và để đáp trả lại ân tình và tín nghĩa Thiên Chúa đã dành, Mẹ Maria - Evà
mới đã thưa lên “Fiat - xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Đây
là lời đáp trả trọn vẹn và hoàn hảo trong tự do của Mẹ. Sở dĩ nó hoàn hảo bởi với
lời thưa này, Mẹ đã bỏ ngỏ chính cuộc đời của mình cho Thiên Chúa. Khi thưa
“xin vâng” Mẹ biết những hệ quả sẽ xảy đến với mình: bị nghi ngờ; mất danh dự,
bị hôn phu Giuse từ bỏ, và thậm chí theo luật có thể bị ném đá. Nhưng “tình yêu
hoàn hảo loại trừ sự sợ hãi” (1Ga 4,18). Mẹ tin vào Thiên Chúa “Đấng không
có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Tình yêu cũng không phải là một cảm
xúc nhất thời nhưng là một chọn lựa trong trách nhiệm và trung tín. Vì thế tiếng
Fiat đã được Mẹ thưa lên trong suốt cuộc đời. Không chỉ trong biến cố truyền
tin, mà còn khi hạ sinh Chúa Giêsu nơi hang Belem, khi đưa con trốn sang Ai Cập,
Mẹ đã thưa tiếng Fiat liên tục dù không hiểu. Mẹ tin vào kế hoạch tình yêu của
Thiên Chúa. Mẹ cũng đã suy đi gẫm lại lời tiên tri của cụ già Simêon trong ngày
dâng con trong đền thờ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc
2,35). Để rồi, nơi đỉnh đồi Canvê, một lần nữa Mẹ lại thưa lên tiếng Fiat trọn
vẹn và trung kiên trước thánh ý của Chúa Cha khi chứng kiến con mình chịu treo
trên thập giá. Mẹ đã chịu khổ cực với Người Con Một của mình và dự phần vào hy
lễ của con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do
lòng mình sinh ra.[3] Như vậy, từ Nadaret đến
Belem và cuối cùng nơi đồi Canvê, Mẹ đã hoàn toàn hành động như lời thưa: “vâng
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Với xác tín mạnh mẽ vào tình yêu của Thiên Chúa, cùng với sự đáp trả bằng
cách hiến trọn cuộc đời cho thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô, Mẹ Maria thực sự
là mẫu gương cho các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) - những người được Chúa
Thánh Thần thúc đẩy và trợ lực, dùng mọi nỗ lực để đạt tới sự hiến thân trọn vẹn.
Qua Đức Kitô, họ nhắm tới việc trở nên lời đáp trả cho Thiên Chúa “Đấng đã yêu
thương họ trước” (1Ga 4,10). Họ diễn tả lời đáp trả này trong việc tuyên các lời
khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục (x. HP 56). Sở dĩ Đức Maria cảm nghiệm
được sâu sắc và đáp trả tình yêu Thiên Chúa bởi Mẹ hằng suy đi gẫm lại trong
lòng các biến cố xảy ra (x. Lc 2,19). Cũng vậy, các tu sĩ DCCT được mời gọi
mang lấy nơi mình lời khuyên của Đức Kitô Cứu Thế “Anh em phải cầu nguyện
luôn và đừng nản chí” (Lc 18,1), họ vun trồng tinh thần chiêm niệm (x. HP
24), được nuôi dưỡng bởi giáo huấn của Tin Mừng và Phụng Vụ thánh đặc biệt là
bí tích Thánh Thể (x. HP 27). Nhờ đó, họ có thể nhận thấy Thiên Chúa trong con
người và trong những biến cố hằng ngày, nhất là trong chính cuộc đời họ (x. HP
24). Vị Thiên Chúa đó trung tín và quảng đại, đầy sáng kiến đã thi thố tình yêu
của Ngài cách cá vị đối với họ. Cũng như Đức Maria đã thưa lên tiếng Fiat với
Thiên Chúa từ Nadaret đến Belem và cuối cùng nơi đồi Canvê qua việc đồng hành với
Đức Kitô và mầu nhiệm cứu chuộc của Ngài như một nữ tỳ của Chúa (x. HP 32), các
tu sĩ DCCT cũng dễ dàng thuần phục đối với Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động
không ngừng làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, để họ có được những
tâm tư tình cảm như Đức Kitô (x. Pl 5, 5tt) và nên một lòng một trí ý với Ngài
(x. HP 25), tham dự vào sự bỏ mình của Đấng chịu đóng đinh (x. HP 51), vì vinh
quang Thiên Chúa và ơn cứu độ trần gian, vì tình yêu đối với Thiên chúa và tình
yêu dành cho con người (x. HP 53).
Như vậy, bằng tiếng Fiat trong suốt cuộc đời, Mẹ Maria đã thực thi ơn gọi
nhận biết và yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn. Và cho đến nay, Mẹ vẫn đang
không ngừng thực thi điều này như là Đấng hằng cứu giúp dân Thiên Chúa trong Đức
Kitô. Thế nên, Mẹ là gương mẫu và là vị bảo trợ cho các tu sĩ DCCT và những ai
mong mỏi được hiến mình cho Thiên Chúa và công trình cứu chuộc của Người. Vì thế,
họ hãy gắn bó với Mẹ như mẹ của mình với tất cả lòng yêu mến và sự tôn kính mà
họ phải có như những người con (x. HP 32).