HAI NGƯỜI CON LẠC: Chú giải Tin Mừng CN IV MC C (Lc 15,1-3.11-32)

 


LmJoseph Phạm Duy ThạchS.V.D.


Xem toàn bộ bài chú giải tại: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/03/nguoi-nguoi-con-lac-chu-giai-tin-mung.html

Hy Lạp

Ἦσαν δὲ αὐτῷ ἐγγίζοντες πάντες οἱ τελῶναι καὶ οἱ ἁμαρτωλοὶ ἀκούειν αὐτοῦ.

καὶ διεγόγγυζον οἵ τε Φαρισαῖοι καὶ οἱ γραμματεῖς λέγοντες ὅτι οὗτος ἁμαρτωλοὺς προσδέχεται καὶ συνεσθίει αὐτοῖς.

Εἶπεν δὲ πρὸς αὐτοὺς τὴν παραβολὴν ταύτην λέγων·

11 Εἶπεν δέ· ἄνθρωπός τις εἶχεν δύο υἱούς.

12 καὶ εἶπεν ὁ νεώτερος αὐτῶν τῷ πατρί· πάτερ, δός μοι τὸ ἐπιβάλλον μέρος τῆς οὐσίας. ὁ δὲ διεῖλεν αὐτοῖς τὸν βίον.

13 καὶ μετ᾽ οὐ πολλὰς ἡμέρας συναγαγὼν πάντα ὁ νεώτερος υἱὸς ἀπεδήμησεν εἰς χώραν μακρὰν καὶ ἐκεῖ διεσκόρπισεν τὴν οὐσίαν αὐτοῦ ζῶν ἀσώτως.

14 δαπανήσαντος δὲ αὐτοῦ πάντα ἐγένετο λιμὸς ἰσχυρὰ κατὰ τὴν χώραν ἐκείνην, καὶ αὐτὸς ἤρξατο ὑστερεῖσθαι.

15 καὶ πορευθεὶς ἐκολλήθη ἑνὶ τῶν πολιτῶν τῆς χώρας ἐκείνης, καὶ ἔπεμψεν αὐτὸν εἰς τοὺς ἀγροὺς αὐτοῦ βόσκειν χοίρους,

16 καὶ ἐπεθύμει χορτασθῆναι ἐκ τῶν κερατίων ὧν ἤθιον οἱ χοῖροι, καὶ οὐδεὶς ἐδίδου αὐτῷ.

17 εἰς ἑαυτὸν δὲ ἐλθὼν ἔφη· πόσοι μίσθιοι τοῦ πατρός μου περισσεύονται ἄρτων, ἐγὼ δὲ λιμῷ ὧδε ἀπόλλυμαι.

18 ἀναστὰς πορεύσομαι πρὸς τὸν πατέρα μου καὶ ἐρῶ αὐτῷ· πάτερ, ἥμαρτον εἰς τὸν οὐρανὸν καὶ ἐνώπιόν σου,

19 οὐκέτι εἰμὶ ἄξιος κληθῆναι υἱός σου· ποίησόν με ὡς ἕνα τῶν μισθίων σου.

20 καὶ ἀναστὰς ἦλθεν πρὸς τὸν πατέρα ἑαυτοῦ. Ἔτι δὲ αὐτοῦ μακρὰν ἀπέχοντος εἶδεν αὐτὸν ὁ πατὴρ αὐτοῦ καὶ ἐσπλαγχνίσθη καὶ δραμὼν ἐπέπεσεν ἐπὶ τὸν τράχηλον αὐτοῦ καὶ κατεφίλησεν αὐτόν.

21 εἶπεν δὲ ὁ υἱὸς αὐτῷ· πάτερ, ἥμαρτον εἰς τὸν οὐρανὸν καὶ ἐνώπιόν σου, οὐκέτι εἰμὶ ἄξιος κληθῆναι υἱός σου.

22 εἶπεν δὲ ὁ πατὴρ πρὸς τοὺς δούλους αὐτοῦ· ταχὺ ἐξενέγκατε στολὴν τὴν πρώτην καὶ ἐνδύσατε αὐτόν, καὶ δότε δακτύλιον εἰς τὴν χεῖρα αὐτοῦ καὶ ὑποδήματα εἰς τοὺς πόδας,

23 καὶ φέρετε τὸν μόσχον τὸν σιτευτόν, θύσατε, καὶ φαγόντες εὐφρανθῶμεν,

24 ὅτι οὗτος ὁ υἱός μου νεκρὸς ἦν καὶ ἀνέζησεν, ἦν ἀπολωλὼς καὶ εὑρέθη. καὶ ἤρξαντο εὐφραίνεσθαι.

25 Ἦν δὲ ὁ υἱὸς αὐτοῦ ὁ πρεσβύτερος ἐν ἀγρῷ· καὶ ὡς ἐρχόμενος ἤγγισεν τῇ οἰκίᾳ, ἤκουσεν συμφωνίας καὶ χορῶν,

26 καὶ προσκαλεσάμενος ἕνα τῶν παίδων ἐπυνθάνετο τί ἂν εἴη ταῦτα.

27 ὁ δὲ εἶπεν αὐτῷ ὅτι ὁ ἀδελφός σου ἥκει, καὶ ἔθυσεν ὁ πατήρ σου τὸν μόσχον τὸν σιτευτόν, ὅτι ὑγιαίνοντα αὐτὸν ἀπέλαβεν.

28 ὠργίσθη δὲ καὶ οὐκ ἤθελεν εἰσελθεῖν, ὁ δὲ πατὴρ αὐτοῦ ἐξελθὼν παρεκάλει αὐτόν.

29 ὁ δὲ ἀποκριθεὶς εἶπεν τῷ πατρὶ αὐτοῦ· ἰδοὺ τοσαῦτα ἔτη δουλεύω σοι καὶ οὐδέποτε ἐντολήν σου παρῆλθον, καὶ ἐμοὶ οὐδέποτε ἔδωκας ἔριφον ἵνα μετὰ τῶν φίλων μου εὐφρανθῶ·

30 ὅτε δὲ ὁ υἱός σου οὗτος ὁ καταφαγών σου τὸν βίον μετὰ πορνῶν ἦλθεν, ἔθυσας αὐτῷ τὸν σιτευτὸν μόσχον.

31 ὁ δὲ εἶπεν αὐτῷ· τέκνον, σὺ πάντοτε μετ᾽ ἐμοῦ εἶ, καὶ πάντα τὰ ἐμὰ σά ἐστιν·

32 εὐφρανθῆναι δὲ καὶ χαρῆναι ἔδει, ὅτι ὁ ἀδελφός σου οὗτος νεκρὸς ἦν καὶ ἔζησεν, καὶ ἀπολωλὼς καὶ εὑρέθη (Lk 15:11-32 BGT)

Dịch sát

1 Bởi vì tất cả những người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi thường đến với Đức Giêsu để nghe Người, 

2 và những người Pharisêu và các Kinh Sư cứ kêu trách, nói rằng: ‘Ông ấy tiếp đón phường tội lỗi và cùng ăn với chúng’. 

3 Người mới nói cùng họ dụ ngôn này, rằng:

11 “Một người nọ có hai con trai. 

12 Người con thứ nói với cha: ‘Thưa cha, xin ban cho con một phần tải sản thuộc về con!’ Rồi người cha đã phân chia của cải cho họ. 

13 Không nhiều ngày sau đó, sau khi thu gom tất cả, người con thứ lên đường đi vào một vùng xa xôi. Và ở đó, anh ta phung phí tài sản của anh vào lối sống buông thả.

14 Sau khi anh ta đã tiêu xài hết tất cả [tài sản] của anh, thì có một nạn đói nghiêm trọng xảy ra trong miền đó và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu. 

15 Anh ta ra đi để được sống bám vào một người dân trong vùng ấy; và người này sai anh ta ra cánh đồng để chăn heo. 

16 Lúc ấy, anh ta cứ ao ước có thể lấp thỏa mãn cơn đói với những hạt đậu muồng mà những con heo thường ăn, nhưng không ai cho anh ta.

17 Sau khi đi vào trong chính nội tâm của mình, anh xác định rằng: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết vì nạn đói ở đây! 

18 Sau khi trỗi dậy, tôi sẽ đi về cùng cha tôi, và sẽ nói với người: ‘Thưa cha, con đã trót phạm tội chống lại trời và trước mặt cha; 

19 con không còn đáng được gọi là con cha nữa, xin xử với con như một trong những người làm công của cha thôi’.

20 Và sau khi trỗi dậy, anh ta đã đi về cùng cha anh ta. Nhưng khi anh ta còn ở đàng xa, thì cha anh ta đã thấy anh, và ông chạnh lòng thương và sau khi chạy đến, ông bá lấy cổ nó mà hôn thắm thiết. 

21 Người con mới nói với ông: ‘Thưa cha, con đã phạm tội chống lại trời và trước mặt cha, con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa’ 

22 Nhưng cha của anh ta đã nói cùng các đầy tớ: ‘Hãy mau đem áo choàng loại một mà mặc cho cậu, hãy đặt nhẫn vào tay nó, và giày vào chân nó; 

23 rồi mang con bê đã được vỗ béo và giết thịt, chúng ta phải ăn tiệc mừng, 

24 vì người con này của ta, người đã chết mà lại sống lại, đã mất đi mà lại được tìm thấy’. Và họ bắt đầu chung vui.

25 Nhưng người con cả của ông thường ở ngoài cánh đồng. Sau khi về đến, anh ta lại gần ngôi nhà, anh ta nghe tiếng nhạc và nhảy múa.

26 Sau khi gọi một người đầy tớ lại, anh ta cứ hỏi những điều ấy có nghĩa gì. 

27 Người đầy tớ nói với anh ta: ‘Người em của cậu đã về đến, và cha cậu đã cho giết thịt con bê đã được vỗ béo, vì ông đã nhận lại cậu trong tình trạng khỏe mạnh’. 

28 Nhưng anh ta đã nổi giận và cứ không muốn đi vào trong. Sau khi đi ra, cha của anh ta nài nỉ anh ta. 

29 Để đáp lại, anh ta nói với cha của anh rằng: ‘Xem kìa! Đã bao nhiêu năm trời, tôi làm tôi mọi cho ông và không bao giờ trái lệnh của ông; nhưng ông không bao giờ cho tôi được một con dê con để ăn mừng với những đứa bạn của tôi. 

30 Còn nó, thằng con ông, sau khi đã nuốt hết tài sản của ông với gái mãi dâm, trở về, thì ông lại giết thịt con bê đã được vỗ béo.’

31 Ông nói cùng anh ta: ‘Này con! con luôn ở với cha, thì tất cả những gì của cha đều là của con.’ 

32 Nhưng nhất thiết phải hân hoan và tổ chức tiệc mừng, vì nó, em con đó, đã chết mà lại sống, đã mất mà lại được tìm thấy.’”

Bối cảnh

Dụ ngôn được gọi là “người cha nhân hậu”; “người con hoang đàng”; hay “hai người con” được đặt trong bối cảnh những người Pharisêu và những Kinh Sư cứ kêu trách về việc tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi đến để nghe Đức Giêsu. Dụ ngôn này được đặt sau hai dụ ngôn khác nói về sự thất lạc và tìm thấy: (1) Con chiên bị mất và được tìm thấy (Lc 15,4-7); (2) Dụ ngôn đồng bạc bị mất và được tìm thấy (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn nói về sự lạc mất của con vật, sự vật dẫn đến dụ ngôn thứ ba nói về sự lạc mất của con người, hai người con trong gia đình Thiên Chúa. Nhìn thời lượng của dụ ngôn thứ ba (22 câu) so với cả hai dụ ngôn thứ nhất và thứ hai (7 câu) độc giả có thể thấy tầm quan trọng của dụ ngôn thứ ba, dụ ngôn “người cha nhân hậu”. Chủ đề “hoán cải – giao hòa” là một chủ đề bao trùm toàn bộ Tin Mừng Luca khởi đầu từ lời tụng ca “Bênêđíctus của ông Dacariah, bố của ông Gioan Tẩy Giả: “Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 1,77). Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Chúa, rao giảng, kêu gọi người ta chịu Phép Rửa của lòng hoán cải để được ơn tha tội (Lc 3,3); Hoán cải đích thực phải được thể hiện bằng cách “sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” (Lc 3,8). “Hãy hoán cải” là thông điệp Tin Mừng nền tảng và đầu tiên của Đức Giêsu: “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”. Người cũng khẳng định rằng “Người không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi đi vào cuộc hoán cải” (Lc 5,32). Người cũng cho thấy niềm vui của triều thần trên trời vì một người tội lỗi hoán cải, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải hoán cải (Lc 15,7). Sự trở lại của Lêvi, người thu thuế (Lc 5,27-32) và của cục trưởng chi cục thuế, Giakêu (Lc 19,1-10) là hai ví dụ khả thể cho chủ đề này. Trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khổ”, ông nhà giàu nói với tổ phụ Ápraham rằng “nếu có ai đến với họ từ cõi chết, họ sẽ hoán cải” (Lc 16,30). Tin Mừng Luca khép lại với mệnh lệnh của Đức Giêsu dành cho các Tông Đồ: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ hoán cải để được ơn tha tội” (Lc 24,47). Dụ ngôn “người cha nhân hậu” là một ví dụ tuyệt vời nhất minh họa cho chủ đề lòng thương xót, và sự hoán cải.

Cấu trúc

Ngoài phần dẫn nhập nói về bối cảnh của dụ ngôn, đoạn văn còn lại gồm năm cảnh dựa trên hoạt động của các nhân vật.

Dẫn nhập (15,1-3): Lý do kể dụ ngôn

Cảnh I: Người cha và hai người con (11-12)

Cảnh II: Người con thứ sa đọa và hồi tâm (13-19)

Cảnh III: Người cha và người con thứ (20-24)

Cảnh IV: Người con cả trở về từ ngoài đồng (25-27)

Cảnh V: Người cha và người con cả (28-32)

Cảnh kết: Mở (có thể cảnh đoàn tụ cả ba cha con)

Bình luận tổng quát

Sau khi nghiên cứu về cả ba nhân vật trong dụ ngôn này, dụ ngôn này có thể được gọi là dụ ngôn về Người cha nhân từ và hai người con bị mất”, bởi lẽ xét cho cùng cả hai người con đều bị lạc và người cha vẫn dành lòng thương xót cho cả hai. Người con thứ bị lạc theo lối sống tự do, buông thả của mình. Anh trở nên băng hoại về đạo đức và lâm vào tình trạng bế tắc, khốn cùng nhất. Người con cả bị lạc trong lối sống kỷ luật, bận tâm quá nhiều đến công việc, bổn phận, đến nỗi cảm giác như mình là nô lệ trong nhà mình. Anh thiếu tình yêu của một người con để có thể cảm nhận được tình yêu của cha dành cho chính anh, và cho em của anh. Anh thiếu rộng lượng của một người anh để có thể thấy thương xót và tha thứ cho những lỗi lầm của người em.

Bối cảnh của dụ ngôn này là bối cảnh của một gia đình, trong đó có một người cha và hai người con. Người ta có thể đặt câu hỏi là người mẹ đâu rồi? Câu trả lời có thể giản đơn là sở dĩ không có người mẹ vì người cha là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa vừa là cha, vừa là mẹ. Người con cả là hình ảnh tượng trưng cho những Kinh Sư và những người Pharisêu; Người con thứ đại diện cho những người thu thuế và những người tội lỗi. Nội dung câu chuyện xoay quanh cung cách đối xử của người cha, cũng là Thiên Chúa, đối với hai mẫu hình con cái trong gia đình Thiên Chúa: Người tội lỗi và những người xem mình là công chính.

Sự phân chia của cải (bios), món quà sự sống, mà người cha dành cho hai người con cho thấy ông yêu thương cả hai và công bằng với cả hai. Tuy nhiên, cả hai người con đều không dùng gia tài ấy, món qùa ấy để sống cho ra người theo thánh ý của ông, nên ông cảm thấy phiền lòng.

Người con thứ đã rời xa gia đình và phung phí tải sản (hay bản thể) của mình bằng lối sống buông thả nơi vùng dân ngoại. Anh ta đã lao dốc không phanh từ địa vị một cậu chủ – một người Do Thái, anh đến vùng dân ngoại và trở thành người ngoại. Khi tiêu hết tài sản anh trở thành một đầy tớ chăn heo cho người ngoại. Khi ao ước ăn thức ăn của heo, anh tự biến mình ngang hàng với con heo, một con vật ô uế. không được. Ngay cả thức ăn của heo, anh cũng không được ăn, giá trị của anh trở nên thấp hơn cả giá trị một con heo. Từ địa vị cậu chủ xuống địa vị tôi tớ; từ địa vị con người xuống địa vị con heo, thậm chí thấp hơn cả con heo. Không còn một hình ảnh tuột dốc sa đọa nào có thể diễn tả hơn nữa tình trạng khốn cùng của người con thứ. Chính trong sự tận cùng của sự sa đọa ấy, người ta mới thấy được sự vĩ đại của tấm lòng người cha. Ông ta chẳng quan tâm cậu đã làm những điều xấu gì, đã xài bao nhiêu tiền, đi xa bao nhiêu. Từng ngày, từng giờ, ông vẫn mong chờ da diết qua hình ảnh “thấy anh ta từ đằng xa”, “chạy đến”, “ôm cổ”, “hôn thắm thiết”. Hơn nữa, ông đã cho chuẩn bị áo choàng tốt nhất, đẹp nhất, sang nhất, dép, nhẫn cùng với một con bê được vỗ béo. Ông đã làm tất cả những điều tỉ mỉ nhất, lớn lao nhất để đón mừng ngày người con thứ trở về. Người cha phục hồi lại cho người con thứ tất cả từ địa vị, quyền làm con và tài sản. Có thể nói rằng, người cha đã trả lại cho anh ta “bản thể” (căn tính) mà anh cứ tưởng là anh đã phung phí hết. Thực ra, người cha chỉ chia cho anh ta “sự sống” của mình. Bản thể, căn tính của anh, vẫn luôn thuộc về anh. Niềm vui mừng của ông là niềm vui của người thấy con sống lại. Không niềm vui nào có thể sánh bằng niềm vui ấy.

Người con cả, dù ở lại gia đình, nhưng cũng thất lạc. Khi quá bận tâm với việc đồng áng, việc bổn phận, anh không thể ở gần người cha. Anh không thấy và chia sẻ được nổi niềm của người cha. Anh làm việc nhưng lại không vui vì luôn nghĩ rằng mình là một người đầy tớ. Câu nói của anh lúc giận dữ bộc lộ những uất ức chất chứa trong lòng anh bấy lâu. Lâu nay tương quan cha-con giữa anh và cha của anh đã bị đổ bể tan nát hết rồi. Anh không thể gọi cha mình một tiếng cha dù cho ông vẫn gọi anh ta là “teknon” (đứa con nhỏ), vì anh nghĩ rằng ông ích kỷ với anh, trong khi lại rộng lượng với người con thứ. Tương quan anh-em giữa anh và em của anh cũng không còn, vì anh cay cú với lỗi lầm của em mình và không thể tha thứ cho nó. Anh nằng nặc không muốn đi vào nhà của anh và chung vui bữa tiệc đoàn viên với người thân ruột thịt của anh. Anh đánh mất chính mình, lạc mất cả người cha và người em ruột.

Người cha, Thiên Chúa, luôn ao ước tất cả người con đều vào dự tiệc vui với Người. Chính vì thế, Người vẫn nài nỉ và mở đường cho một mối giao hòa trong gia đình Thiên Chúa. Tuy nhiên, câu trả lời vẫn nằm ở chọn lựa tự do của người con cả. Liệu anh ta có thể tự giải thoát cho mình bằng cách cởi bỏ lối suy nghĩ tiêu cực về người Cha của mình? Liệu anh có thể tỏ lòng nhân hậu mà tha thứ cho những lỗi lầm của em mình? Liệu anh có thể nhìn nhận lại người cha và người em mà anh đã đánh mất bấy lâu? Chỉ có mình anh mới giải đáp những câu hỏi đó mà thôi.

Học viện Thánh Anphongsô