Đức Giêsu và “sứ vụ nước Trời”


Fr. Tân Nguyễn, O.F.M.


Kitô giáo khởi đầu chỉ với một nhóm lao động bình dân, đi theo một vị thầy Do Thái ít người biết đến, tại một vùng hẻo lánh của Đế quốc Rôma. Dùng những lời rao giảng và hành vi bị cho là cách mạng, vị kinh sư bên lề xã hội này bị lên án là lộng ngôn và phản quốc, cuối cùng bị đóng đinh trên thập giá. Vị kinh sư bên lề xã hội này chính là Đức Giêsu, Đấng sáng lập và đặt nền tảng cho Kitô giáo. Nhờ dựa trên niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu, và hồi tưởng lại lời giảng dạy cùng các sự kiện trong cuộc đời của Đức Giêsu, các môn đệ đã mạnh dạn tuyên xưng những gì họ cảm nhận nơi cộng đoàn của họ. Qua lời rao giảng của các Tông Đồ, tôn giáo mà Đức Giêsu khởi sự đã trở thành tôn giáo về Đức Kitô, Đấng Mêsia mang ơn cứu độ đến cho thế trần. Mặc cho những cơn bắt đạo dồn dập và thảm khốc, Kitô giáo vẫn tồn tại; và chỉ vài thập niên sau khi Hoàng đế Constantine thống trị được toàn Đế quốc Rôma, Kitô giáo đã phát triển nhanh chóng để trở thành một quốc giáo. Với chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược bối cảnh văn hóa Hy Lạp của Đế quốc Rôma và hậu cảnh Do Thái Giáo mà Đức Giêsu đã sống và thực hiện sứ vụ Nước Trời. Sau đó, chúng ta sẽ tóm tắt sứ mạng và niềm tin về thiên tính của Ngài cùng với sự thành hình của các bản Tin Mừng.

HẬU CẢNH VĂN HÓA HY-LA

Năm 339 TCN, vua Philíp II ở Macêđônia thu tóm các đảo quốc Hy Lạp, nhưng chỉ bốn năm sau đó thì bị sát hại. Alexander lên kế vị cha mình, tiêu diệt mọi lực lượng phản động, và thừa thế mở rộng bờ cõi. Lần lượt các vùng đất xa gần rơi vào tay Đại đế Alexander: Tiểu Á, Giuđa và Giêrusalem, Ai Cập, và đến năm 334 TCN, Đế Quốc Persia cũng nằm trong tay Alexander. Khi dự tính thôn tính luôn Ấn Độ thì quân lính của ông nổi loạn vì quá mệt mỏi, Alexander đành phải kéo quân trở về sau một thập niên chinh chiến, nhưng chiến công của ông đã để lại một đế chế bao la, trải dài từ Anh Quốc cho đến Syria, Địa Trung Hải và miền bắc Africa.

Sống dưới sự thống trị của Đế quốc Hy Lạp, dân Do Thái vẫn tiếp tục thực hành tôn giáo của họ, nhưng mọi giao tiếp xã hội đều được thể hiện qua ngôn ngữ Hy Lạp. Các binh sĩ Hy Lạp được phép kết hôn với người Persia, và các tập tục địa phương được kết nối vào một khuôn văn hóa chung. Đây là sự khởi đầu của tiến trình Hy Lạp Hóa (Hellenization). Nhưng Alexander qua đời bất thình lình ở tuổi 33, và vì không có người nối dõi, quyền cai trị trên Đế quốc Hy Lạp rơi vào sự tranh chấp giữa bốn vị tướng lãnh cao nhất và dòng dõi của họ. Chỉ 150 năm sau, Đế quốc Hy Lạp sụp đổ sau cuộc thất trận với quân đội Rôma tại Côrintô (146 TCN). Trong giai đoạn này, Giuđa bị xâu xé giữa hai quyền lực Ptolemies (Ai Cập) và Seleucids (Tây Á) của Đế quốc Hy Lạp. Quân Seleucids (175-164 TCN) thống trị Giêrusalem và gây vô số tai họa cho dân Do Thái. Họ làm ô uế Đền Thờ bằng cách tế một con heo trên bàn thánh, bãi bỏ Lề Luật Torah và nghi thức lễ Vượt Qua, cấm cắt bì cũng như kết án tử hình nhanh chóng những kẻ phản đối. Nhà Macabê nổi dậy, dùng chiến thuật du kích, lật đổ chế độ Seleucids và giành lại tự do cho Giêrusalem (166-160 TCN). Nhà Macabê hỗ trợ việc thiết lập vương triều Hátmônê, vốn cuối cùng chiếm đóng cả vùng Giuđa và để dân Do Thái được phép tự quản lý. Năm 53 TCN, vị tướng tài giỏi của Rôma là Pompey, đem quân can thiệp vào nội chiến của Hátmônê và biến vương triều này thành một chư hầu của Rôma. Sau nhiều chuyển biến chính trị phức tạp giữa Rôma và Giêrusalem, Hêrôđê, vốn là một người ngoại bang, được bổ nhiệm làm vua của dân Do Thái. Hêrôđê dẹp tan vương triều Hátmônê vào năm 37 TCN. Ông mất chỉ hai năm sau khi Đức Giêsu được sinh ra.

Dưới Đế quốc Rôma, việc giao dịch thương mại và nghiên cứu học thuật phát triển nhanh chóng giữa các đô thị như Rôma, Antiôkia, Alexandria, vốn tạo nên sự hài hòa giữa văn hóa La Tinh và Hy Lạp. Hiệu quả là một không gian công cộng, căn cứ trên các giá trị nhân bản (Pax Rômana) được thành hình. Việc điều hành trong Đế Quốc được chia thành nhiều địa hạt với các quan tổng trấn mỗi vùng, và phải gửi báo cáo thường xuyên về Rôma. Các vùng thuộc địa phải trả sưu thuế nặng nề, bù lại họ được quân đội Rôma bảo vệ khỏi sự tấn công của dân man di ngoại biên. Dọc theo biên giới có nhiều binh trại phòng thủ kiên cố sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm chiếm. Ranh giới phân biệt bộ lạc hay sắc tộc bị xóa bỏ, thay vào đó hệ thống đường sá được thiết lập, mang lại trật tự trong Đế Quốc, vốn đã giúp các nhà truyền giáo mang Tin Mừng đến những vùng đất xa xôi (Cv 13-20).

Trong khi triết học Hy Lạp tôn thờ tinh thần của con người thì văn hóa Rôma khai triển nghệ thuật tổ chức xã hội, hệ thống giao thông, trang bị quân sự và điều hành luật pháp. Chưa bao giờ trong lịch sử có một đế quốc rộng lớn nhưng vẫn được thống nhất như thế. Hệ thống tôn giáo dân sự là công cụ duy trì quyền lực và sự hiệp nhất của Đế quốc Rôma. Người dân thờ các thần Zeus, Apollo, Hera hay Aphrodite, cùng với các thần nhỏ tại địa phương vốn bảo trợ các phạm vi đất đai, mùa màng, súc vật, sức khỏe, sinh sản, tình yêu và chiến tranh. Giới bình dân gắn bó với các tập tục huyền bí, ma thuật và thờ các thần nam nữ từ Syria, Persia và Ai Cập. Họ tổ chức các nghi thức tế lễ công cộng để xin ơn các thần và tránh khỏi bị các thần trả thù. Giới thượng lưu chỉ trích quần chúng về sự mê tín dị đoan và tìm sự bình an tâm linh nơi triết lý Khắc Kỷ. Họ phó thác cuộc sống cho định mệnh vốn đã được mặc định sẵn. Tôn giáo của Rôma không đặt nặng vào sự ràng buộc luân lý hay tín lý, mà chỉ mong đem lại sự thái bình của Đế Quốc và tránh tai họa hay quấy rối từ kẻ thù. Kitô giáo manh nha ra đời trong bối cảnh mạng lưới văn hóa Hy Lạp này.[1]

Có ba yếu tố quan trọng mà văn hóa Hy Lạp tác động lên sự phát triển của Giáo Hội sơ khai. Trước tiên, chiến thắng của Đại đế Alexander (336 TCN) tạo nên hiện tượng Hy Lạp Hóa (Hellenization) qua ngôn ngữ Hy Lạp. Cho dù sau khi Alexander chết, ngôn ngữ Hy Lạp vẫn là yếu tố định hình cho sinh hoạt của người dân tại các vùng Địa Trung Hải, thay thế ngôn ngữ địa phương trong các lĩnh vực kinh doanh, chính quyền và giáo dục. Hệ quả quan trọng của tiến trình Hy Lạp Hóa là sự kiện Kinh Thánh Do Thái được dịch sang tiếng Hy Lạp (Septuagint, nghĩa là “Bản Bảy Mươi” hay LXX). Từ đó, cả dân Do Thái lẫn dân ngoại đều đọc chung một bản Kinh Thánh và giúp dân Do Thái hòa nhập dễ dàng hơn với dân ngoại. Phaolô cũng trích dẫn bản Kinh Thánh Septuagint này trong các thư của ngài.

Yếu tố thứ hai đóng góp cho tiến trình phổ quát hóa văn hóa Hy Lạp là hệ thống đường sá do Đế quốc Rôma xây. Trên khắp các vùng miền, quân đội Rôma đi đến đâu thì thiết lập đến đó những con đường lát đá, vốn đáp ứng nhu cầu di chuyển nhanh chóng các chiến mã và chiến xa của họ. Những con đường này tồn tại qua nhiều thế kỷ, góp phần vào sự phát triển kinh tế, hành chính và quân đội của Đế Quốc. Hệ thống di chuyển thuận tiện này là nền tảng cho sự ổn định của “Pax Rômana”, vốn cung cấp phương tiện cho việc truyền thông và vận chuyển hàng hóa. Cũng trên những nẻo đường này, Phaolô đã thực hiện ba cuộc hành trình với hơn mười ngàn dặm, nhằm mang Tin Mừng Kitô giáo đến muôn dân, vì ngài tin rằng tận thế sắp đến (Cv 13-20). Truyền thông cũng là yếu tố quan trọng cho sự phát triển và hiệp nhất của Giáo Hội.

Yếu tố quan trọng thứ ba là niềm hy vọng của người Do Thái về Đấng Mêsia sẽ đến, vốn nuôi dưỡng tinh thần phấn đấu của họ dưới sự thống trị của Rôma. Đây chính là động lực cho cuộc nổi dậy của nhà Macabê, khi Antiôkhô Epiphany làm ô uế Đền Thờ và áp bức dân Do Thái với sưu thuế nặng nề. Cho dù chiến thắng của nhà Macabê chỉ tạm thời, thành công chính trị kết hợp với niềm tin tôn giáo đã tạo nên não trạng cánh chung, vốn là hậu cảnh cho sứ vụ Nước Trời của Đức Giêsu. Sống với sự thù ghét của dân Do Thái và bách hại của Đế Quốc, Kitô hữu càng nhận ra Tin Mừng Kitô chính là sự hiện thực của lời hứa Cựu Ước và tạo nên sức sống mới nơi cộng đoàn họ. Như thế, những gì xảy ra trong văn hóa Hy Lạp và bối cảnh Do Thái Giáo giúp chúng ta trân trọng hơn tác động của Tin Mừng lên Giáo Hội sơ khai.

HẬU CẢNH DO THÁI GIÁO

Khoảng cách giữa Cựu Ước và Tân Ước chỉ là vài trang trong sách Kinh Thánh, nhưng bao gồm 400 năm lịch sử thăng trầm của Do Thái Giáo, từ ngôn sứ Malakhi cho đến Gioan Tẩy Giả. Theo tiên tri Đanien, có năm đế quốc thống trị thế giới: Babylon, Persia, Hy Lạp, Rôma và một vương quốc sắp đến. Đến năm 539 TCN, Đế Quốc Persia đánh bại Đế Quốc Babylon và dân Do Thái được giải phóng. Dưới sự lãnh đạo của ngôn sứ Nêhêmia, dân Do Thái trở về quê hương, xây tường thành và tái thiết Đền Thờ, hưởng tự do và an bình sau 40 năm bị đày đọa. Do Thái Giáo tin rằng Thiên Chúa chọn họ làm dân riêng và họ sống phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Người. Lịch sử bị thống trị và làm nô lệ cho ngoại bang thôi thúc sự mong chờ Đấng Mêsia đến giải phóng dân tộc họ. Tâm thức luôn được nhắc nhở bởi Lề Luật và việc tôn thờ một mình Thiên Chúa đã khiến họ tách biệt với lối sống “sa đọa” của dân ngoại. Do Thái Giáo tin rằng Đấng Tạo Thành trời đất lập giao ước với tổ tiên của họ, buộc họ chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa. Sau khi được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, Thiên Chúa ban cho họ Thập Giới trên núi Sinai. Mặc dù rất nhiều lần họ phản bội Thiên Chúa, Người vẫn không bỏ rơi họ mà còn sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, răn đe và nhắc nhở: Hãy giữ vững niềm tin vào Đấng Mêsia sẽ đến!

Sau khi vào “Đất Hứa”, dân Do Thái thiết lập vương quốc và xây nên Đền Thờ (I) dưới thời trị vì của vua Đavít và Salômôn. Đền Thờ là một kỳ tác vĩ đại và hoàn mỹ, đặc biệt ở nơi cực thánh được tô điểm lộng lẫy và chứa Hòm Bia Thiên Chúa. Sau khi Salômôn mất, vương quốc này bị phân chia làm hai: Israel và Giuđa, nhưng rồi bị Đế Quốc Babylon thống trị, Đền Thờ bị phá hủy, dân chúng bị bắt đi lưu đày. Sau khi Đế Quốc Persia chiến thắng Babylon (436 TCN), dân Do Thái được trả tự do và trở về Giêrusalem. Họ xây dựng lại một Đền Thờ (II), nhỏ và khiêm tốn hơn Đền Thờ (I). Nhưng chỉ một thế kỷ sau đó, toàn thể vùng Palestin bị Đế quốc Hy Lạp chiếm đóng (332 TCN). Dân Do Thái nổi dậy giành độc lập nhiều lần, cuối cùng nhà Macabê với chiến thuật du kích lấy lại Giêrusalem (167 TCN). Lúc này ở Do Thái có hai nhóm Hacidics và Hellenizers hậu thuẫn cho nhà Macabê và lập nên vương triều Hátmônê. Nhưng sau đó họ bất mãn vì nhà Macabê chỉ tập trung bành trướng thế lực. Nhóm Hacidics phân hóa thành một phái tìm cách sống thánh thiện giữa đời thường (Pharisêu) và một phái nhỏ hơn rút vào hoang địa tìm cuộc sống thánh thiện tách biệt (Étxênê). Còn nhóm Hellenizers (tiền thân của Xađốc) chủ trương cải tiến và kết hợp với văn hóa Hy-La.

Đến năm 63 TCN, vùng Giuđa rơi vào tay Đế quốc Rôma và dân Do Thái bị xem là công dân hạng hai. Chế độ Rôma thống trị cách tàn bạo và khắt khe với dân Do thái hơn nhiều so với thời Đế quốc Hy Lạp. Nhiều hội đường Do Thái Giáo bị nhà nước biến thành nơi hội họp cho các nghị viên và tổ chức nghi lễ. Tại Alexandria, hình tượng của hoàng đế được trưng bày trong hội đường, khiến người Do Thái phản đối dữ dội và gây tranh chấp đổ máu dưới triều đại Hoàng đế Gaius Caligula (37-41 CN). Về phía nội bộ, Do Thái Giáo đang có sự căng thẳng giữa các ý thức hệ về cách sống đạo trong khi mong chờ Đấng Mêsia đến. Trong khi nhóm Xađốc kết hợp với chính quyền Rôma để điều hành việc phụng tự của Đền Thờ, nhóm Dêlốt tìm cách phục hồi chủ quyền bằng bạo lực và khủng bố. Trong khi nhóm Pharisêu áp dụng Torah vào cuộc sống thường ngày, nhóm Étxênê tách biệt khỏi xã hội ô uế để bảo vệ sự tinh tuyền của Lề Luật. Nói chung, các lãnh đạo Do Thái kỳ vọng Đấng Mêsia sẽ khôi phục niềm hãnh diện của dân tộc. Còn quần chúng khao khát Đấng Cứu Tinh nhưng dễ bị lôi cuốn bởi điềm hay dấu lạ. Có nhiều người Do Thái tản mác khắp nơi trên thế giới, gọi là “Do Thái Lưu Vong” (Diaspora).

Linh đạo của Do Thái Giáo được định hình chính yếu bởi các phái Pharisêu, Xađốc và Étxênê. Trước tiên, phái Pharisêu (“perishaya” nghĩa là “tách biệt”) giữ thái độ nghiêm túc về thực hành tôn giáo và củng cố chủ nghĩa quốc gia cực đoan. Họ tuân phục từng chữ viết của Lề Luật và tích cực bảo vệ lối chú giải truyền khẩu. Phái này có những kinh sư chuyên chú giải Kinh Thánh cho phù hợp lối sống của người dân tại các miền quê. Họ chỉ ra sự thánh thiện không chỉ là việc dâng lễ hiến tế tại Đền Thờ, mà bởi sự vâng phục Lề Luật. Họ tạo nên truyền thống chú giải Torah truyền khẩu để giúp người dân dễ áp dụng Lề Luật vào cuộc sống hàng ngày. Họ khai triển thêm nhiều chi tiết về luật giữ ngày Sabbath, luật giữ chay và luật giữ sự thanh sạch, vốn trở nên gánh nặng cho các tín đồ (Mt 23,1-4). Nhóm Pharisêu tin vào sự sống lại của kẻ chết, sự tồn tại của thiên thần và sự sống đời sau. Điều này mang lại niềm an ủi cho con người khi đối đầu với đau khổ và củng cố niềm tin vào sự công chính của Thiên Chúa vượt trên mọi truân chuyên.

Cho dù nhóm Pharisêu thường bị chỉ trích là sống giả dối và giữ luật theo hình thức, thật ra họ chia sẻ một số quan điểm với Đức Giêsu về hình phạt và ân thưởng ở đời sau, sự sống lại của thân xác, sự tồn tại của thiên thần và tự do chọn lựa của con người. Sau khi Đền Thờ bị phá hủy, Hội đường trở thành trung tâm sinh hoạt tôn giáo của cộng đoàn, cũng như huấn luyện các rabbi và sáng tác Mishnah để bảo đảm sự liên tục của Do Thái Giáo. Thời Đức Giêsu, người Pharisêu chiếm số đông nhất trong các phái giáo Do Thái và chia làm hai phe: phe bảo thủ (Shamai) và phe cấp tiến (Hillel). Chỉ những Pharisêu có học thức (kinh sư) mới trở thành lãnh đạo. Đa số họ là người bình dân và thợ thuyền, thao thức với việc cam kết tuân giữ Lề Luật. Sau khi Đền Thờ sụp đổ, phe Shamai dần biến mất, và phe Hillel cấp tiến tiếp tục tổ chức học hỏi Torah tại các Hội đường, phát triển truyền thống chú giải Kinh Thánh gọi là “Halakha”. Chính nhờ đó mà Do Thái Giáo còn tồn tại đến ngày nay.

Phái Xađốc gồm các quý tộc và thượng tế cấp tiến, có tư duy thông thoáng hơn. Quyền lực và ảnh hưởng của họ gắn bó với nghi lễ tại Đền Thờ ở Giêrusalem. Họ công nhận Lề Luật của Môsê, nhưng chỉ tin vào Ngũ Thư và loại bỏ lối chú giải truyền khẩu của phái Pharisêu. Họ không tin có sự sống lại của thân xác, đời sống vĩnh cửu, phán xét cá nhân, và sự tồn tại của thần lành hay thần dữ vì những điều này không được đề cập trong Ngũ Thư. Phái Xađốc thân thiện với chính quyền ngay cả trước khi Rôma cai trị. Họ cũng cộng tác đắc lực với nhà Macabê để đạt lợi ích thực tế và vì đó bị thất sủng với Hêrôđê một thời gian. Nhưng không lâu sau, họ hợp tác với triều đình Hêrôđê và Đế quốc Rôma. Thượng Hội Đồng Sanhedrin cũng như các vị Thượng Tế ở Giêrusalem đều là người của phái này. Nhờ có học thức và hiểu biết về văn hóa Hy-La, phái Xađốc giúp môi giới giữa dân Do Thái với chính quyền Rôma, nhưng cũng vì sự thân thiện này mà họ không được dân Do Thái yêu chuộng. Sau khi Đền Thờ bị phá hủy (70 CN), phái Xađốc hầu như biến mất.

Nhóm thứ ba là Étxênê, chủ trương một linh đạo tách biệt, rút khỏi thế giới sa đọa, vào hoang địa để theo đuổi cuộc sống khổ hạnh, cầu nguyện, tuân thủ ngày Sabbath cũng như sự tinh tuyền của Lề Luật Môsê. Tên gọi “Étxênê” nghĩa “những kẻ thánh thiện” hay “thầy thuốc”. Có lẽ vì vậy mà họ kết nối nghi thức thanh tẩy và buổi ăn cộng đoàn vào các cử hành phụng vụ. Một số học giả đề nghị rằng Gioan Tẩy Giả có mối tương quan với nhóm này. Linh đạo của họ nhấn mạnh sự công chính, sự trừng phạt của Thiên Chúa đối với tội nhân và sự bất tử của linh hồn. Tuy nhiên, khác với phái Pharisêu, người Étxênê không tin sự sống lại của thân xác và tránh tham dự mọi hoạt động chính trị công cộng. Ngày nay, người ta biết nhiều về phái Étxênê qua Cuộn Sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls) được khám phá vào năm 1947.

Cả hai nhóm Pharisêu và Xađốc đều xem lời rao giảng của Đức Kitô như mối đe dọa cho ảnh hưởng của họ trên dân Do Thái. Đức Giêsu chỉ trích thái độ duy Lề Luật của nhóm Pharisêu, chỉ nhắm vào bề ngoài trong khi xem thường nguyên tắc công bằng và lòng thương xót của Thiên Chúa (Mt 23,23). Cùng lúc, Đức Giêsu phản biện cách phái Xađốc giản lược đức tin thành nghi thức phụng vụ, cùng sự gắn bó với quyền lực thế gian. Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống và chỉ ra sai lầm của phái Xađốc khi họ chối bỏ sự sống lại của thân xác (Mt 22,31-32). Đức Giêsu cũng lên án thái độ tự cao và tự công chính của nhóm Xađốc (Lc 18,9-14).

Ngoài ra, sau những cuộc nổi dậy chống lại quân Rôma, hơn một triệu người Do Thái ra đi và sống lưu vong tại Alexandria, Antiôkia và các vùng Tiểu Á. Hạn từ “lưu vong” (Diaspora) được dùng trong lịch sử để nói về những cuộc lưu đày từ thời Assyria (721 TCN) và Babylon (587 TCN). Người Do Thái Lưu Vong được phép thi hành nghi thức Sabbath và các ngày lễ, được miễn bổn phận thờ cúng hoàng đế nhưng vẫn phải đóng thuế Đền Thờ. Họ thiết lập nhiều cộng đoàn và Hội đường để học hỏi Kinh Thánh (bản dịch Septuagint). Vào các mùa lễ hội, họ hành hương về Giêrusalem và dâng lễ tế tại Đền Thờ theo quy định của Lề Luật. Qua thời gian, có nhiều dân ngoại “kính sợ Thiên Chúa” (God-fearer), nhưng chưa muốn chấp nhận nghi thức cắt bì và Lề Luật Do Thái. Nhóm người này trở thành nhịp cầu giúp Tin Mừng Kitô kết nối với dân ngoại đang sống trong Đế quốc Rôma.

SỬ LIỆU VỀ ĐỨC GIÊSU

Biến cố Kitô có thể tiếp cận từ các nhãn quan khác nhau như sử liệu Rôma, Do Thái Giáo và Kitô giáo. Trong thư khố Rôma cổ đại, tên “Giêsu” và “Kitô hữu” được một số tác giả ngoại giáo như Phlegon, Suetonius, Thallus và Mara Bar-Serapion nhắc đến. Phlegon, sinh năm 80 CN, một sử gia Rôma gốc Tralles, tác giả hai cuốn Chronicles và Olympics, nhắc đến sự kiện mặt trời bị che lấp khi Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Suetonius, một sử gia Rôma ở giai đoạn 69-112 CN, trong tác phẩm Lives of the Twelve Caesars, đề cập đến Kitô hữu và Đức Giêsu. Thallus, một sử gia Hy Lạp, tác giả ba bộ sử ký về vùng Địa Trung Hải, cung cấp lời giải thích cho biến cố nhật thực khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Mara Bar-Serapion, một triết gia Stoic, sáng tác khoảng thập niên 60-70 CN, cho rằng vì dân Do Thái giết vị “Vua Khôn Ngoan”, họ bị Thiên Chúa trừng phạt, đuổi ra khỏi Đất Hứa và tản mác khắp mặt đất. Ông lý luận thêm rằng Socrates không chết vì Platô còn sống, Pythagore không chết vì còn Hera, và vị “Vua Khôn Ngoan” không chết vì ngài để lại một quy luật mới cho thế gian.[2]

Các tài liệu trên chỉ đề cập sơ qua đến tên Đức Giêsu, nhưng hai sử liệu của Pliny the Younger và Tacitus trình thuật chi tiết hơn về Kitô hữu và bối cảnh của Giáo Hội sơ khai. Pliny the Younger, quan tổng trấn tại địa hạt Bithynia-Pontus (Thổ Nhĩ Kỳ), viết cho Hoàng đế Trajan (112 CN) báo cáo sự kiện các Kitô hữu tụ tập bất hợp pháp: “Họ là những người tôn thờ Đức Giêsu như Thiên Chúa” (Thư 10). Pliny muốn biết cách xử lý nhóm này cho hợp pháp. Điều này chứng tỏ Pliny nghe đến Đức Giêsu và có dính líu đến lịch sử bách hại nơi Giáo Hội sơ khai. Tacitus, bạn của Pliny và tác giả tập sử yếu “The Annals” (115 CN), kể lại sự kiện Hoàng đế Nêrô đốt kinh thành Rôma để phát triển dự án xây dựng của ông (64 CN). Khi Nêrô bị dân chúng hoài nghi là người khởi sự cuộc đại hỏa, ông đổ thừa cho các Kitô hữu, vốn đang sống âm thầm trong bóng tối, lo sợ sự thù ghét của dân thành Rôma. Nêrô tố cáo các Kitô hữu tội đốt phá kinh thành, tống giam và xử tử nhiều người rất dã man. Tacitus ghi rằng các tín hữu này đi theo Đức Kitô, người bị quan tổng trấn Philatô đóng đinh tại địa hạt Giuđa, dưới thời Hoàng đế Tibêriô. Thông tin của Tacitus, dù không nhiều chi tiết, ít nhất cho thấy trong vài thế kỷ sau cái chết của Đức Giêsu, một sử gia ngoại giáo đã nghe biết về Ngài.

Về phía Do Thái Giáo, sử gia Flavius Josephus, một vị tướng Do Thái gốc Galilê, tổ chức cuộc nổi dậy chống chế độ Rôma vào các năm 66-70 CN. Khi Josephus và binh sĩ bị lực lượng Rôma bao vây tại pháo đài Masađa, thay vì đầu hàng, họ quyết định tự tử bằng cách rút thăm ai sẽ giết ai. Cuối cùng đến phiên Josephus, ông thuyết phục người còn sót lại đầu hàng. Khi bị bắt và điệu đến tướng Vesparian của Rôma, Josephus dùng tài chính trị để tiên đoán vị tướng này sẽ trở thành hoàng đế tương lai. Điều này thành hiện thực, vì sau khi Nêrô tự vẫn và ba hoàng đế tranh nhau kế vị trong vòng một năm, các tướng lãnh Rôma bầu chọn Vesparian lên ngôi hoàng đế. Josephus để lại các sử liệu giá trị về Do Thái Giáo ở Palestin như: “Các Cuộc Chiến Do Thái Giáo” (Jewish Wars) và hai mươi tập sách về lịch sử dân Do Thái từ thời Ađam và Evà, gọi là “Lịch Sử Do Thái Cổ Đại” (Jewish Antiquities). Tác phẩm này nói đến một vị Cứu Thế (Mêsia) tên Giêsu, có một người anh em là Giacôbê và làm nhiều phép lạ. Điều quan trọng là một sử gia Do Thái nổi tiếng trong thế kỷ I ghi nhận những chi tiết phù hợp với những gì được biết qua các bản Tin Mừng. Josephus viết:

“(63) Vào lúc ấy có Giêsu, một nhân vật khôn ngoan, không biết có hợp pháp khi gọi Ngài là người, nhưng Ngài thực hiện những việc vĩ đại và là một thầy dạy chân lý rất hấp dẫn cho dân chúng. Ngài lôi cuốn nhiều dân Do Thái lẫn dân ngoại. Ngài được tôn như Đấng Cứu Thế, và bị Philatô, nghe theo lời tố cáo của các giới hữu trách của chúng ta, lên án đóng đinh vào thập giá. Những kẻ yêu mến Ngài ngay từ lúc đầu đã không bỏ rơi Ngài, vì sau ba ngày, Ngài xuất hiện với họ như còn sống, như các ngôn sứ Thiên Chúa báo trước các điều này và hàng chục ngàn biến cố tuyệt vời khác về Ngài. Cũng vậy, phái Kitô hữu, lấy tên Ngài để gọi cho họ, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.[3]

Ngoài các tài liệu của Josephus, ở thế kỷ V, tên Đức Giêsu được nhắc đến trong cuốn Talmud, một sưu tập các lời chú giải Kinh Thánh Do Thái theo truyền thống Kinh Mishnah. Về phía Kitô giáo, Phaolô là tác giả phong phú nhất. Tên của ngài gắn liền với mười ba cuốn sách trong Tân Ước. Phaolô cho biết những thông tin căn bản về Đức Giêsu: người gốc Do Thái, sinh bởi người nữ, có một số anh em, trong đó có Giacôbê, quy tụ mười hai Tông Đồ, rao giảng về Nước Trời cho người Do Thái, dạy các tín hữu sống công bằng, không được ly dị, cuối cùng dự buổi Tiệc Ly với các môn đệ trước khi bị đóng đinh vì một môn đệ phản bội Ngài.

Có một nguồn sử liệu quan trọng gọi là “Q” (“Quelle”, tiếng Đức nghĩa “nguồn”). Dù không phải Tin Mừng và không còn tồn tại, nó cung cấp nguồn liệu mà hai thánh ký của Tin Mừng Mátthêu và Luca khai thác. Khi so sánh ba bản Tin Mừng Mátthêu, Máccô và Luca, có những trình thuật tương tự nên được gọi là Tin Mừng Nhất Lãm (Synoptic). Tin Mừng Máccô được viết đầu tiên. Nhưng vì có quá nhiều sự kiện tương đồng giữa Mátthêu và Luca mà không thấy trong Máccô, hầu hết các học giả ở thế kỷ XIX đồng ý rằng Mátthêu và Luca dùng sử liệu “Q”. Họ giả định rằng tài liệu “Q” xuất hiện khoảng thập niên 50-60 trước Máccô, có lẽ hàm chứa những chi tiết như: Lời Nguyện “Lạy Cha”, các Mối Phúc, biến cố Đức Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc, và việc chữa lành con trai của một sĩ quan tại Capernaum. Nếu giả thuyết này đúng, “Q” là sử liệu sớm nhất về Đức Giêsu, dù không còn tồn tại. Ngoài ra, Mátthêu và Luca có lẽ tham khảo những nguồn liệu riêng, được các học giả gọi là “M” và “L”. Hơn nữa, ít nhất 52 tài liệu viết bằng tiếng Hy Lạp Cổ (Coptic) được khám phá trong “Thư Viện Nag Hammadi” vào năm 1945 tại Nag Hammadi (Ai Cập). Trong đó, nhiều bản ngoại thư như “Tin Mừng Theo Philliphê”, đặc biệt “Tin Mừng Theo Tôma”, ghi lại 114 câu nói của Đức Giêsu, nhưng không đề cập biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Điều này cho thấy sự đa dạng của Kitô giáo trong các thế kỷ đầu, tại mỗi khu vực văn hóa như Palestin, Alexandria, Antiôkia, có cách chú giải Tin Mừng về Đức Kitô rất khác nhau.

Nói chung, qua tra cứu cẩn thận dựa trên quy chuẩn sử liệu, các học giả kết luận cách hiểu đúng nhất về Đức Giêsu là xem Ngài như một vị ngôn sứ thời cánh chung. Qua Cuộn Sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls), chúng ta biết văn chương Khải Huyền lan rộng trong Do Thái Giáo ở thế kỷ I. Đây là niềm tin về sự thống trị của quyền lực sự dữ sẽ bị lật đổ qua cuộc phán xét cuối cùng, và sự thiết lập một vương quốc dưới vương quyền của Đấng Mêsia. Đám đông đi theo Đức Giêsu không xa lạ gì với hậu cảnh “Nước Trời đã gần đến”. Cả bốn Tin Mừng và hai mươi ba tài liệu khác trong Tân Ước, kể cả “Q” và các ngoại thư Tin Mừng, được viết trong tâm thức này. Do đó, chúng ta phải dựa vào bối cảnh lịch sử của những người tiếp thu Tin Mừng để có sự hiểu biết phổ quát về Đức Giêsu.

ĐỨC GIÊSU RAO GIẢNG “NƯỚC TRỜI”

Linh đạo cánh chung của Do Thái Giáo là hậu cảnh cho sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu và những gì các môn đệ Ngài hấp thụ. Qua trải nghiệm về Thập Giá và Phục Sinh, các cộng đoàn Kitô hữu diễn giải sâu rộng hơn về ý nghĩa sứ mạng Nước Trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu nói tiếng Aram và Hípri, vốn là hai ngôn ngữ thông dụng ở Palestin, nhưng có lẽ Ngài không biết rõ tiếng La Tinh hay Hy Lạp. Ngài lên án sự lạm dụng trong Do Thái Giáo, nhưng vẫn tuân thủ Lề Luật Do Thái theo tinh thần Nước Trời. Ngài rao giảng về sự gần kề của Nước Trời, nhưng các môn đệ sau biến cố Phục Sinh lại rao giảng về Đức Giêsu. Đức Giêsu không lập một giáo phái riêng; nhưng chỉ trong hai thập niên sau khi Ngài về trời, Kitô giáo không còn là tôn giáo cho người Do Thái mà là chung cho mọi người. Qua sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô, sự kiện Đấng Mêsia đến giải phóng dân Do Thái trở thành Đấng Thiên Sai giải thoát loài người khỏi sự chết, hậu quả của tội lỗi. Ơn cứu rỗi phổ quát này được Thiên Chúa ban cho bất cứ ai tin vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, không phân biệt Do Thái hay dân ngoại, tự do hay nô lệ, nam hay nữ (Gl 3,28).

Ngoài Tân Ước, chúng ta chỉ có vài lá thư lẻ tẻ do các tín hữu trong thế kỷ I nhắc đến Đức Giêsu. Các bản Tin Mừng thường mâu thuẫn với nhau, đôi khi về điểm nhấn, đôi khi về chi tiết lịch sử, đôi khi về sứ mệnh của Đức Giêsu, nên khó biết bản Tin Mừng nào ghi lại lịch sử chính xác nhất. Thường thì các tài liệu sớm được cho là chính xác hơn các tài liệu xuất hiện sau, như Tin Mừng Máccô so với Tin Mừng Gioan. Các nguồn liệu tiền chính thống có thể cho biết thêm về hậu cảnh ý thức hệ đa dạng của Palestin ở thế kỷ I. Điều quan trọng là các bản Tin Mừng không có ý định tường thuật cách khách quan về các biến cố, mà để tuyên xưng đức tin của họ vào ơn cứu rỗi nơi Đức Giêsu. Tính chính xác lịch sử không quan trọng bằng khả năng thuyết phục về quan điểm thần học. Cả bốn Tin Mừng cho biết về truyền thống đức tin và những mối quan tâm thực tế của các cộng đoàn. Điều này có nghĩa nền tảng Kitô giáo được căn cứ trên sự tiếp nhận mạc khải Thiên Chúa nơi các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Vì thế, tìm hiểu sứ vụ và cuộc đời của Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta nhận ra nhãn quan đức tin mà bản Tin Mừng đang trình bày. Raymond Brown, nhà chú giải Kinh Thánh nổi danh của thế kỷ XX, chỉ ra rằng khi Giáo Hội sơ khai chấp nhận thư quy của các bản Tin Mừng Tân Ước, họ cũng đồng ý sống với các lưu tâm đặc thù trong đó.

Tin Mừng Máccô 1,14 tóm tắt giáo thuyết của Đức Giêsu: Nước Thiên Chúa đã gần kề, hãy ăn năn thống hối, đừng làm những việc tội lỗi và đón nhận Tin Mừng. Nước Trời như một vương quốc do chính sứ giả của Thiên Chúa mang đến bởi một nhân vật được gọi là “Con Người” (Mc 8,38). Nước Trời sẽ chấm dứt mọi trật tự xã hội và đảo ngược trật tự giữa kẻ quyền thế và người bị áp bức (Mc 13,26-27; 10,30). Người nghe cần chuẩn bị cho biến cố này bằng sự thống hối, từ bỏ con đường tội lỗi, phân phát của cải và sống cho tha nhân (Mc 1,15; Mc 10,13-44; Mt 13,45-46). Thiên Chúa muốn dân Người tuân phục Lề Luật, tóm tắt qua hai mệnh lệnh: “Yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự!” (Đnl 6,4-6) và “Yêu tha nhân như chính mình!” (Lv 19,18). Những lời răn dạy này mang tính khẩn cấp vì trời đất đang qua đi và sự xuất hiện của Nước Trời đang xảy ra trước mắt người nghe (Mc 9,1; 13,30; 14,62).

Các bản Tin Mừng khác cho biết thêm một ít thông tin khách quan về cuộc đời của Đức Giêsu. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ lúc khoảng 30 tuổi, và sau ba năm rao giảng trong vùng Palestin, Ngài bị đóng đinh (Lc 3,23). Ngài có thói quen giảng dạy tại các Hội đường, nơi dân Do Thái thường tụ tập mỗi sáng thứ Bảy (Mt 4,23; Mt 9,35). Ngài vào các Hội đường không chỉ để loan báo Tin Mừng về Nước Trời đang hiện diện giữa chúng ta mà còn chữa lành đủ mọi loại bệnh tật (Lc 4,43). Đức Giêsu cho biết Ngài còn phải loan báo Nước Thiên Chúa cho những thành thị khác, vì “đó là lý do Chúa Cha đã sai” Ngài (Lc 8,1). Đức Giêsu giảng dạy cho mười hai môn đệ về sứ vụ của Ngài, sai họ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho muôn dân (Lc 8,6). Đức Giêsu cho biết Nước Trời sẽ đến trên mặt đất (Lc 9,11).

Sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê, miền bắc của Israel, và kết thúc tại Giêrusalem, nơi Ngài cùng các môn đệ ăn lễ Vượt Qua. Đức Giêsu muốn mang thông tin về sự khởi đầu của ơn cứu độ vào trung tâm Giêrusalem, nhắm vào đám lãnh đạo tôn giáo trong ngày đại lễ. Nhóm Xađốc chỉ đạo bộ hạ loại trừ Đức Giêsu như một tên phản động, vì họ lo sợ lời giảng của Ngài sẽ gây nổi loạn giữa đám đông trong ngày lễ Vượt Qua. Trong bữa Tiệc Ly cuối cùng với các môn đệ trước khi bị bắt, Đức Giêsu mong ước các môn đệ tiếp tục tái diễn nghi thức này để thể hiện sự hiệp nhất giữa Ngài và Giáo Hội. Sứ vụ của Đức Giêsu khép lại với cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau ba ngày. Sự kiện các môn đệ tuyên xưng Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu sống lại có nghĩa là “Thiên Chúa muốn phục hồi sự công chính nơi Đức Giêsu”. Lời tuyên xưng này đánh dấu sự khởi đầu cho Kitô giáo. Đức Giêsu không tự tay thiết lập Giáo Hội Công Giáo như một cơ chế tách biệt khỏi Do Thái Giáo. Nhưng niềm tin vào Đấng Phục Sinh là động lực cho các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng, qua đó Giáo Hội thành hình. Sau một thời gian, khi các môn đệ thông hiểu ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, họ bắt đầu thông diễn những “mầu nhiệm” khác như: Nhập Thể, thiên tính của Đức Giêsu và Ba Ngôi. Giáo Hội sơ khai trở thành nơi nuôi dưỡng ký ức và tâm thức về Đức Kitô. Tình huynh đệ và sự dấn thân mang Tin Mừng đến cho thế giới, minh chứng rằng Thánh Thần đang hoạt động nơi họ.

Tuy nhiên, niềm tin vào sự Phục Sinh không tránh khỏi vấn đề liên quan đến sử tính. Các “chứng cứ” chỉ tường thuật biến cố đưa xác Đức Giêsu vào mồ và các phụ nữ khám phá ngôi mộ trống. Một số môn đệ báo tin đã gặp Ngài trên bờ biển, trên đường về Emaus, hoặc trong phòng họp kín. Nhưng “Phục Sinh” là một mầu nhiệm nằm ngoài phạm vi trải nghiệm của con người, vượt trên mọi khả năng minh chứng theo tiêu chuẩn lịch sử. Những “trải nghiệm” này biến đổi tâm trạng và thay đổi thế giới quan của các môn đệ. Nó nói lên sự hoàn thành niềm hy vọng sâu sắc của con người, giúp các môn đệ hồi tưởng những gì Đức Giêsu lúc sinh thời nói về Mình. Nếu Đức Giêsu là người đầu tiên được sống lại, giai đoạn cuối thời đã bắt đầu. Các môn đệ tin rằng họ đang sống trong sự chờ đợi cuộc phán xét từ Con Người đang ngự trị trên Thiên Đàng. Các môn đệ cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô qua những lần họp nhau cầu nguyện và bẻ bánh với nhau. Từ niềm tin Đức Giêsu là “Logos” hằng hữu của Thiên Chúa, họ suy ra chính Ngài là Thiên Chúa.

THIÊN TÍNH CỦA ĐỨC KITÔ

Một khi các Kitô hữu tin Đức Giêsu là “Thiên Chúa” được sai đến cứu rỗi thế gian, họ cũng thắc mắc tại sao Thiên Chúa “được sinh ra” và nhất là tại sao Ngài “phải chết”? Từ từ, họ suy ra cái chết của Đức Giêsu không phải kết quả của bất công xã hội, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu không làm gì nên tội để đáng chết, nhưng Ngài phải chết để đền thay tội lỗi cho kẻ khác. Như thế, chỉ trong vài năm khởi đầu, ý nghĩa thần học về cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô được khai triển sâu rộng hơn, qua các nhãn quan đức tin khác nhau tại những cộng đoàn Kitô giáo thời tiền chính thống. Không người Do Thái nào chấp nhận Đấng Mêsia bị đóng đinh trên thập giá để chuộc tội cho thế gian. Vì thế, sứ vụ truyền giáo của Kitô hữu phải chỉ ra rằng Kinh Thánh đã tiên đoán điều này, và sự kiện Thiên Chúa làm cho Đức Kitô sống lại là chứng cứ Ngài công chính. Những ai tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Mêsia chết vì tội lỗi của thế gian, cũng sẽ được trở nên công chính trước Thiên Chúa. Trở thành Kitô hữu không phải là việc dâng lễ tế, mà phải có niềm tin đúng đắn về mối liên hệ của Thiên Chúa với thế giới. Điều này được Phaolô nhấn mạnh khi nói về biến cố chết và Phục Sinh của Đức Kitô (1 Cr 15,3-5).

Các tác giả tiền chính thống như Irênê và Tertulianô khai triển một số “quy luật đức tin” (regula fidei), vạch ra hướng đi chung cho suy tư thần học trong Giáo Hội.[4] Quy chuẩn chung này bao gồm: niềm tin vào một Thiên Chúa - Đấng tạo thành mọi sự, tin vào Đức Giêsu - Con của Ngài - vừa là Thiên Chúa vừa là con người, tin vào các phép lạ, các biến cố Tử Nạn, Phục Sinh, Thăng Thiên, và tin vào Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện cùng Giáo Hội cho đến cuộc phán xét. Tác phẩm của Tertulianô, “Lời Răn Dạy Đối Với Những Kẻ Lạc Giáo” (Prescription of Heretics, Tertulianô) khẳng định rằng, các tín khoản được đúc kết thành công thức tuyên xưng đức tin, rất cần thiết cho bối cảnh có nhiều giáo lý sai lầm lưu hành. Nhiều nhóm Kitô hữu có khuynh hướng chối bỏ thần tính của Đức Giêsu hoặc cho rằng thần tính của Ngài quá mạnh đến nỗi Ngài không thể đau khổ vì không có thân xác thật sự.

Trong các thư gửi hai cộng đoàn Manhêđia và Philađenphia (“Magnesians và PhilCNelphians”), Inhaxiô cật lực phản đối “Ảo Thân Thuyết” (Docetism; trong tiếng Hy Lạp, từ “dokeo” nghĩa “vẻ bên ngoài” hay cái gì “tưởng tượng” ra), vốn cho rằng Đức Giêsu là một vị thần, nhưng Ngài xuất hiện như con người bằng xương bằng thịt qua vài loại ảo ảnh. Inhaxiô lý luận rằng nếu điều này đúng thì biến cố chịu nạn trên thập giá không thật, và việc tử đạo sắp đến của ngài cũng vô nghĩa (Thư Gửi Cộng Đoàn Smyrneans 4,2).

Thuyết “Ảo Thân” xuất phát từ cách chú giải cực đoan của Marcion vốn thổi phồng sự khác biệt giữa Lề Luật và Tin Mừng mà Phaolô đã phân tích. Marcion, qua nhãn quan ngộ giáo, và kết luận có hai Thiên Chúa: Thiên Chúa của Lề Luật tạo nên thế giới vật chất. Thiên Chúa của Tin Mừng gửi Đức Giêsu đến giải thoát nhân loại khỏi Thiên Chúa của Cựu Ước. Vì Đức Giêsu không thuộc thế giới vật chất, Ngài không có thân xác và không thể chết cho tội lỗi của con người. Các thư của Phaolô (Pl 2,6-11) và Tin Mừng Gioan khẳng định thần tính của Đức Giêsu. Nhưng phái Ảo Thân cho rằng thần tính của Đức Giêsu quá mạnh đến nỗi Ngài không thể là con người bình thường (1 Ga 2,19). Phái này còn giải thích rằng Giuđa Ítcariốt hay Simon làng Xirênê, qua cách phép màu nào đó, đã thay thế Đức Giêsu trong biến cố đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Inhaxiô chỉ trích sự sai lầm trong cách giải thích này, khẳng định máu của Đức Giêsu chịu chết trên thập giá là “máu của Thiên Chúa” (Ep 1,1) và gọi Đức Giêsu là “Thiên Chúa của chúng ta” (Gl 1,1).

Một ý kiến sai lầm khác về thần tính của Đức Kitô đến từ linh mục Ariô (256-336 CN), khẳng định rằng dù Đức Giêsu là Thiên Chúa, bản tính thần linh của Ngài thấp kém hơn Chúa Cha. Chủ thuyết “Arianism” lý luận rằng nếu Đức Giêsu là Chúa Con thì Chúa Cha phải có trước, nghĩa là đã có một khoảng “thời gian” mà Chúa Con hay “Logos” chưa tồn tại. Như thế, Chúa Con không đồng hàng với Chúa Cha. Tại Công Đồng Chung Nicêa, chủ thuyết “Arianism” bị lên án, nhưng không có nghĩa nó chấm dứt. Chủ thuyết này được các tín đồ ở Đông Phương tiếp tục ủng hộ và gây khó khăn cho nhiều vị lãnh đạo nơi Giáo Hội Tây Phương.

Cuối cùng, còn có hai chủ thuyết chối bỏ hoàn toàn thần tính của Đức Giêsu. Nghĩa Tử Thuyết (Adoptionism) cho rằng Đức Giêsu chỉ là một con người tốt lành và xứng đáng được chọn làm “Con Thiên Chúa”, vốn là truyền thống đã có từ Cựu Ước và để lại dấu vết trong Tân Ước. Nhóm thứ nhì gồm những Kitô hữu gốc Do Thái (Ebonites), vốn chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia nhưng không phải Thiên Chúa. Như thế, trong giai đoạn tiền chính thống chưa có sự thống nhất về thần tính của Đức Giêsu.

AI VIẾT CÁC BẢN TIN MỪNG?

Suy tư thần học bắt đầu lâu trước khi các bản Tin Mừng được viết xuống. Chỉ trong sáu thập niên sau cái chết của Đức Giêsu, Kitô giáo lan rộng khắp các vùng miền của Đế quốc Rôma, qua lời truyền khẩu cùng thư từ đến từ các Tông Đồ và Tông Phụ. Tính xác thực về những gì xảy ra không quan trọng bằng niềm tin và sức mạnh ân sủng mà truyền thống lưu lại về “biến cố Kitô”. Sau nhiều năm, nhiều bản “Tin Mừng” thành hình, thuật lại các câu chuyện về cuộc đời Đức Giêsu và được lưu truyền trong Đế quốc Rôma. Bốn Tin Mừng Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan là các bản văn đáng tin cậy nhất. Dù viết bởi tác giả ẩn danh, họ là những người tài ba, học thức cao, thông thạo tiếng Hy Lạp mà các tín hữu Kitô đang dùng trong các vùng miền của Đế quốc Rôma, khác với dân bản địa thời Đức Giêsu dùng tiếng Aram.[5]

Các bản Tin Mừng là tài liệu sớm nhất về biến cố Kitô nhưng không phải tất cả được chấp nhận vào thư quy Tân Ước. Lúc đầu, các Tin Mừng được cho là do các Tông Đồ biên soạn, nhưng dần dần các học giả chỉ ra rằng Tin Mừng không phải bản tường thuật hay chứng kiến những gì mắt thấy tai nghe. Trái lại, đây là sự đúc kết từ thông tin truyền khẩu, bản văn đã lưu truyền nơi các cộng đoàn tín hữu qua nhiều thập niên sau biến cố Kitô. Mỗi bản Tin Mừng là một trình thuật được thánh ký góp nhặt và sắp xếp lại sao cho phù hợp với quan điểm thần học của cộng đoàn đức tin. Các bản Tin Mừng sau dùng các bản trước đó như nguồn liệu, chẳng hạn cách Tin Mừng Mátthêu và Luca dùng Tin Mừng Máccô. Sự khác biệt giữa các tường thuật về chi tiết lẫn điểm nhấn của mỗi thánh ký gây khó khăn cho sử gia muốn xác thực thời điểm và những gì đã xảy ra. Điều này chứng tỏ Tin Mừng không phải “sử ký” mà là tuyên xưng đức tin về ơn cứu độ từ Đức Kitô, vốn được cho là linh ứng bởi mỗi cộng đoàn đức tin.

Vì các Tin Mừng được viết khoảng 40 đến 70 năm sau Đức Giêsu, cho nên không thể biết chắc có thánh sử nào đã thật sự trải nghiệm và chứng kiến tận mắt những gì được mô tả lại. Ngay cả Phaolô, tác giả sớm nhất của Tân Ước, cũng không phải môn đệ của Đức Giêsu khi Ngài còn sống. Đức Giêsu nói tiếng Aram nhưng Tân Ước ghi lại bằng tiếng Hy Lạp. Đức Giêsu là người Do Thái, sống và chết như người Do Thái. Các Tin Mừng đều được viết bởi những người thông thạo tiếng Hy Lạp, sau nhiều thập niên của biến cố mà chúng kể lại, trong lúc đó các môn đệ của Đức Giêsu là những người ít học và nói tiếng Aram. Hai tác giả của Tin Mừng Luca và Gioan thú nhận rằng họ thừa hưởng các mẩu chuyện từ truyền thống truyền khẩu. Lời nói và hành vi của Đức Giêsu được truyền lại cho các giáo đoàn, nhưng chính người kể lại cũng không thắc mắc về tính chân thực của các trình thuật. Các mẩu chuyện đã được thay đổi cho phù hợp bối cảnh. Sự mâu thuẫn hoặc đáng hoài nghi về tình tiết trong câu chuyện, như việc kiểm kê dân số trong Tin Mừng Luca, là cơ hội để các sử gia khai thác mục đích thần học của tác giả đứng sau trình thuật đó.

Ngoài ra, tên gọi của các bản Tin Mừng như “Mátthêu” (người thu thuế), “Gioan” (con trai của Dêbêđê), “Máccô” (thư ký của Phêrô), và “Luca” (người đồng hành với Phaolô) cũng là những chủ đề cho nghiên cứu. Nếu Mátthêu thật sự viết một cuốn sách về lời nói và thực hành của Đức Giêsu, lẽ ra phải gọi đó là “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô” hay “Cuộc Đời và Cái Chết của Đấng Cứu Độ”. Do đó, người nào gán tên “Tin Mừng Theo Thánh Mátthêu” cho bản văn này, có lẽ muốn độc giả biết đây là phiên bản của thánh “Mátthêu” về Đức Giêsu. Hơn nữa, trên các bản văn gốc không ghi tên tác giả, và không có Tin Mừng nào tự cho mình được viết bởi nhân chứng gốc. Trong câu Mt 9,9, có đề cập một người tên Mátthêu, nhưng không nói gì về việc người ấy là tác giả. Câu Mt 21,24 cho biết tác giả không phải chứng nhân mà dựa theo trình thuật của các nhân chứng khác. Nói chung, các Tin Mừng trong Tân Ước đều được viết bởi những tác giả ẩn danh.

Papiass, một nhân vật ít được biết đến (120-130 CN), ghi lại rằng Tông Đồ Phêrô rao giảng về “Lời và Đời Sống” của Đức Giêsu tùy theo nhu cầu hoàn cảnh; và sau đó Máccô, thư ký của ngài, viết các mẩu chuyện này xuống, nhưng “không theo thứ tự nào hết. Papiass cho biết ông nhận thông tin này từ một Kitô hữu cao niên có lẽ đã chứng kiến tận mắt những gì Phêrô đã giảng. Papiass cũng viết thêm rằng Mátthêu ghi lại các lời giảng của Đức Giêsu bằng tiếng Hípri và “mọi người diễn giải chúng theo khả năng riêng”. Papiass không nói gì về Tin Mừng Luca hay Gioan. Tài liệu của Papiass, dù không trích dẫn Máccô, đã cho biết tác giả của Tin Mừng Máccô không phải nhân chứng gốc mà được một tín hữu cao niên khác kể lại. Ngoài những gì đến từ Papiass, chúng ta không nghe thấy gì về tên của các tác giả Tin Mừng mãi đến cuối thế kỷ II.

Hầu hết sử gia đồng ý rằng các sách Tin Mừng thể hiện khả năng viết bằng tiếng Hy Lạp khá điêu luyện. Cách Tông Đồ Công Vụ cho biết hai Tông Đồ Phêrô và Gioan đều không biết chữ (Cv 4,13), do đó khó khẳng định các môn đệ của Đức Giêsu là tác giả của các bản Tin Mừng mang tên họ. Các học giả cho rằng tên gọi của các bản Tin Mừng Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan chỉ là vấn đề thuận tiện qua lịch sử. Cả hai tác giả của Luca, Gioan và Papiass đều cho biết Tin Mừng được căn cứ trên những báo cáo lưu truyền từ các Kitô hữu trước đó; như thế, chúng có thể truy tầm ngược lại đến những nhân chứng tiên khởi (Lc 1,1-4). Nhưng khi các nhân chứng tiên khởi kể lại thì chi tiết không tránh khỏi bị thay đổi. Như thế, không có gì bảo đảm rằng lời của các nhân chứng kể lại qua nhiều thế hệ thật sự chính xác như đã xảy ra.

Nói tóm lại, Tin Mừng đến với dân ngoại qua những lời giáo huấn và mẫu chuyện đã được thay đổi để thích ứng với thời gian, không gian, văn hóa cũng như niềm tin và ngôn ngữ địa phương. Trong thế giới mà phương tiện truyền thông đại chúng còn rất giới hạn, hầu hết người giảng và người nghe không có cơ hội kiểm chứng tính chân thực của lời chứng, dù họ có muốn hay không. Thật vậy, nhu cầu kiểm chứng ngôn ngữ chỉ xảy ra trong văn hóa dựa trên chữ viết; còn trong văn hóa truyền khẩu, việc giả định các mẩu chuyện cần thay đổi để phù hợp với nhu cầu bối cảnh và thính giả là đương nhiên. Tất cả các Tin Mừng Tân Ước đến với chúng ta qua tiến trình thông diễn phức tạp này.


Tài liệu tham khảo

Carroll, John. Constantine’s Sword: The Church and the Jews. A History. Boston: Houghton Mifflin, 2001. Tác phẩm nghiên cứu tác động của biến cố Constantine cải đạo trên não trạng bài Do Thái.

Cartlidge, David R., and David L. Dungan, eds. Documents for the Study of the Gospels, 2nd ed. Philadelphia: Fortress, 1994. Tác phẩm sơ lược tầm quan trọng của Do Thái giáo và tâm thức tôn giáo của xã hội Hy-La.

Roetzel, Calvin. The World That Shaped the New Testament. 2nd ed. Louisville: John Knox Press, 2002. Sách này cung cấp một cái nhìn tổng quát về thế giới Do Thái và Hy-La.

Sanders, E. P. The Historical Figure of Jesus. London: Penguin, 1993. Đây là một khai lộ hữu ích cho sinh viên về cuộc sống và giáo huấn của Đức Giêsu lịch sử.

Simon, Marcel. Verus Israel: A Study of the Relations between Christians and Jews in the Roman Empire (135– 425). Tr. H. McKeating. New York: Oxford, 1986. Đây là nghiên cứu về tương quan Do Thái-Kitô giáo trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo hội.

Williamson, G. A. Eusebius: The History of the Church from Christ to Constantine. Rev. and ed. Andrew Louth. London: Penguin, 1989. Đây là một bản dịch của cuốn “Lịch Sử Giáo hội” của Êusêbiô.



[1] Ramsey Macmullen, Christianizing the Roman Empire: AD 100-400 (University of New Mexico, NM, 1984).

[2] W.F.C. Frend, The Rise of Christianity, (Fortress Press, NY, 1984).

[3] x. The Jewish Antiquities, Bk18, Chapter 3, (The Works of Josephus, William Whiston trans., Hendrickson Publishers, 1987). “Now, there was about this time Jesus, a wise man, if it be lawful to call him a man, for he was a doer of wonderful works-a teacher of such men as receive the truth with pleasure. He drew over to him both many of the Jews, and many of the Gentiles. He was [the] Christ; (64) and when Pilate, at the suggestion of the principal men amongst us, have condemned him to the cross, those that loved him at the first did not forsake him, for he appeared to them alive again the third day, as the divine prophets have foretold these and ten thousand other wonderful things concerning him; and the tribe of Christians, so named from him, are not extinct at this day.”

[4] Bart Ehrman, After the New Testament (Oxford University Press, 1999).

[5] x. Henry Chadwich, The Early Church (Penguin Publisher, NY, 1993). 

Học viện Thánh Anphongsô