

+
Hiệp
thông với Giáo Hội hoàn vũ
trong
Thánh Lễ an táng Đức Thánh Cha Phanxicô
(lúc
10:00, thứ Bảy, 26/4/2025, giờ Rôma)
.png)
Ngược dòng lịch sử:
ÍT LỜI THANH MINH
CÙNG ĐỘC GIẢ QUYỂN TÂN ƯỚC
LM. Yuse Nguyễn Thế Thuấn, C.Ss.R (1922–1975)
Trích Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 4/1965,
488-491.506-507.
Do Chú Nguyễn Công Bình (X 5/2024)
thuộc Hội Cựu Đệ tử DCCT San Jose đánh máy lại.
Xin thành kính tưởng nhớ Chú Bình.
Học viện thánh Anphongsô hiệu đính (4/2025).
Nhiều độc giả đã mong chờ hỏi tin về quyển Tân Ước,
Tạp chí Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã báo tin hơn một năm rồi. Nay nó được ra
chào đời. Nó sinh ra được cũng đã là một cái may. Vì tưởng chừng nó cũng đã chết
nghẻo lúc còn trứng nước. Nó ra đời nhưng cũng khá què quặt. Độc giả thấy đằng
cuối sách một chuỗi dài dằng dặc những câu đính chính ắt cũng lấy làm ngán. Đó
là một điều chẳng may, và dịch giả xin chư vị hết thảy lấy đại lượng mà châm
chước cho. Nói trắng ra thì phải thú thật rằng đã có sự bất đồng ý kiến giữa
nhà xuất bản và dịch giả, tuy rằng ai cũng muốn đạt đến trọn lành.
Trước lúc độc giả mở sách ra, dịch giả xin có mấy lời
trình bày những nguyên tắc mình đã theo trong công việc, mong độc giả thông cảm
với.
Dịch giả hèn hạ này được diễm phúc làm con của Hội
Thánh thời không lấy phương châm nào hơn là những lời của Đức Piô XII trong
Thông điệp Divino Afflante Spiritu, tức là một hiến chương cho công việc
chú giải Công giáo. Điều ngài dạy đã hướng dẫn dịch giả, chứ không phải một sở
thích lập dị nào khác. Và cũng vì đó mà dịch giả không thể lĩnh nhận lấy những
lời chỉ giáo khác do tự hảo tâm thiện chí thật, nhưng không hẳn là phù hợp với
chính lời dạy của Thông điệp:
Sau khi đã chuẩn bị đàng hoàng, là học biết các tiếng
cổ ngữ, và dự bị sẵn những lợi khí của nghệ thuật bình luận, nhà chú giải Công
giáo hãy tra tay vào phận việc này – phận việc tối thượng giữa hết các phận việc
ký thác cho mình – tức là tra tầm cho ra và trình bày ý nghĩa chân chính của
Sách Thánh.
Trong khi thi hành công việc đó, nhà chú giải phải
luôn luôn có trước mắt cái lớn lao nhất giữa vạn sự phải lưu tâm, tức là nhận
ra, vạch ra ý nghĩa của lời Kinh Thánh mà người ta gọi là tự nghĩa. Tự
nghĩa đó, họ phải hội ra
với tất cả sự thận trọng phải có, nhờ sự hiểu biết ngôn ngữ, căn cứ vào mạch
lac, và hiệu đính với các đoạn song song” (Enchiridion Biblicum, số
550).
Chiếu theo nguyên tắc Hội Thánh đã ra, dịch giả chỉ
nhắm mục đích là làm sao có một bản dịch xác đáng, trung thành được chừng nào
hay chừng ấy. Dịch giả không muốn làm một bản dịch thích nghi cho độc giả ngày
nay, cũng không phải là phóng dịch để hội ra ý nghĩa đạo đức thần học. Dịch giả
thâm tín rằng các sách Tân Ước chưa thành một hệ thống thần học, chưa có một
thuật ngữ thần học; tư tưởng đầy nhựa sống, nhưng cũng như nước thanh trong bọt
trắng phau đang phun ra từ mạch chưa có dòng sông uốn thẳng. Dịch giả nói vậy
không có ác ý chỉ trích những phương pháp dịch thuật khác hữu ích có khi nhiều
hơn, thích ứng hơn vói hạng người này hay hạng người khác.
Điều dịch giả muốn là lấy chính bản Hy Lạp mà
dịch. Bản đó là bản duy
nhất thực sự là lời Kinh Thánh có thần hứng; một điều mà không có bản nào khác
có thể có, cho dẫu người ta dịch tài tình đến đâu đi nữa[1] hay là đã được dùng lâu đời
trong Hội Thánh như bản Latin gọi là bản Phổ thông (Vulgata).[2]
Dịch giả hằng cố đi sát với văn bản xét là cựu
trào của nguyên văn, hay được các nhà bình luận coi là chính gốc. Công việc dựa trên những kết quả của môn bình luận
văn bản hiện đại. Việc bình luận này có mục đích đạt thấu câu văn như lọt khỏi
tay tác giả đầu tiên – ít ra lý tưởng là thế. Cái nạn “tam sao thất bản” là một
sự thường tình, nhất là xưa kia mọi sách vở đều phải chép tay. Một đoạn văn khi
qua nhiều tay chép lại, ắt nhiều khi đã ra lu mờ, hay có khi mất dạng nữa, bởi
người chép khi thì quên điều này, khi lại viết thêm, hoặc không có ý, hoặc cũng
có ý nữa. Bản dịch này cống hiến cho độc giả nhàn lãm những điều dịch giả đã chọn,
nhưng cũng không muốn giấu độc giả những câu văn khác có thể đọc được trong những
thủ bản thời xưa, và nay còn nhiều nhà bình luận vẫn giữ, và có khi khoa bình
luận tiến triển hơn nữa có thể bắt mọi nhà chú giải phải theo.
Văn bản đã chọn rồi, thì đến công việc phiên dịch.
I. VIỆC PHIÊN DỊCH
Việc phiên dịch tựu chung có hai: hiểu nguyên văn,
và chuyển tất cả ý nghĩa qua tiếng Việt.
Nguyên tắc đó không có gì lạ. Nhưng người ta có thể
áp dụng rất khác nhau.
1. Hiểu nguyên văn
Tiếng dùng là tiếng một thời, của một người nhất định
trong một xã hội nào đó. Vậy phải cố gắng như lời Đức Piô XII dạy: Trở lại bằng tinh thần trong các thế kỷ xa xăm
đó. Ngài lại dạy điều đó là một sự nhất thiết phải
làm: “Omnino oportet mente quasi redeat interpres ad remota illa Orientis
saecula” (Enchiridion Biblicum, số 558), để hiểu văn bản như những người
đã soạn ra và độc giả tiên khởi đã hiểu. Nghĩa là không được hiểu như người đời
sau đã hiểu sau bao nhiêu phát triển về thần học, đạo lý, cũng như đời sống
thiêng liêng đạo đức. Muốn thế thì phải biết từ ngữ, mẹo luật, công thức, xã hội,
văn hoá của thời xưa. Và trong việc hiểu tư tưởng, thì phải chú trọng đến những
điều mà người ta thường không quan tâm, nhất là tư tưởng Á Đông chúng ta có khi
không đặt tầm ý nghĩa đăc biệt; những chữ nối tư tưởng như: bởi vì, vậy, nếu,
ngõ hầu, để, bấy giờ (theo nghĩa nối ý chứ không phải theo nghĩa thời gian). Rồi
phải để ý đến những tiếng tác giả dùng một cách cố ý. Trong khi ấy, thì cho dẫu
muốn đổi tiếng khác cho dễ nghe cũng đành phải ép bụng mà lặp lại.[3]
2. Chuyển qua tiếng Việt
Khi đã hiểu nguyên văn, thì chuyển qua tiếng Việt. Một
việc khá phức tạp, vì không phải dịch từng chữ ra sao thì ra.
Nhiều khi người ta theo nguyên tắc: giữ lấy ý đừng
nghĩ đến chữ. Nguyên tắc đó là nguyên tắc phóng tác chứ không còn là dịch văn nữa.
Vì ngoài ý tưởng, một đoạn văn còn lắm điều khác để làm cho nó nên một đoạn văn
có cá tính: văn có thể dùng tiếng sang trọng hay tiếng bình dân; câu văn có lúc
điêu luyện, có lúc xoàng xĩnh; khi cắt gọn, khi dài hơi; khi xuôi chảy, lúc
theo nhịp phách; có những kiểu người này dùng mà người khác không bao giờ dùng
đến. Một bản dịch khả quan nếu chỉ doãn lại đúng ý mà lại bỏ ngoài các yếu tố
kia, ắt phải nói là phóng tác, không thực là dịch nguyên văn. Lý tưởng và cũng là điều khó mà đạt đến được
là bản dịch phải làm sao gợi lên cho độc giả hiện tại cái cảm tưởng mà độc giả
tiên khởi đã có khi đọc nguyên văn. Họ phải cảm thấy đâu là thường, đâu là sang, đâu là bình dân, đâu là học
thức.
Đây xin dẫn một vài thí dụ:
Mt 21:41, dịch giả đã
để một tiếng có khi độc giả lấy làm lạ, một tục ngữ của ta “ác giả ác báo”. Thiết
tưởng lời đó đã lột được cả ý lẫn lời của tác giả Tin Mừng Matthêô (Mt): tác giả
đã láy đi láy lại những tiếng cùng một gốc, và kiểu nói đã gần như ngạn ngữ.[4]
I Corinthô 13:1, dịch giả viết: “Tôi chỉ là
thanh la vang ngân, hay chũm choẹ chập cheng.” Dĩ nhiên cũng có thể viết “thanh
la” “não bạt”. Nhưng dịch giả đã cố ý dùng bốn chữ “ch” vì đó là một cách bắt
chước tiếng vang của thứ nhạc khí đó; một điều, đã có trong câu văn Hy Lạp của
thánh Phaolô. Đàng khác “chập cheng” là kiểu tả, việc tụng kinh riêng của thầy
pháp, một điều thánh Phaolô cũng ám chỉ đến; ngài ám chỉ đến những sãi của nữ
thần Kybêlê , và có ý châm biếm những ngưới sính nói tiếng lạ tại Côrinthô, họ
cũng không khác gì các sãi đánh kẻng bên láng giềng.[5]
Vậy điều đặc sắc của một nhà trước tác là ý tưởng.
Nhưng cũng có những yếu tố riêng không thể liệt hàng ý tưởng, mà dịch giả nào
muốn trung tín tất phải kính nể, được chừng nào hay chừng ấy. Người ta có thể dịch
mọi ý tưởng, nhưng đổi hẳn câu kéo đi. Nội dung có khi toàn vẹn, nhưng thực sự
người ta sẽ không còn giữ tư tưởng sống động của tác giả muốn gợi ra một tâm
tình nào ngay trong việc dùng chữ hay đặt câu.
Phẩm sắc của tiếng dùng cũng nên đề cập đến. Vì cách dùng tiếng cũng lộ ra
con người của một tác giả. Bản dịch này cũng muốn duy trì điều đó. Dịch một đoạn
văn bình dân, tiếng Hy Lạp có vẻ cục mịch tầm thường, thành một trang tiếng Việt
văn vẻ trau chuốt, ắt phải coi là không trung thành. Bởi đó, độc giả sẽ nhận ra
lối văn dịch Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc) có khác với lối văn của thánh Luca
(Lc). Và một chỗ mập mờ để nảy ra hai nghĩa có thể có, dịch giả không được phép
dứt khoát chỉ hướng về một chiều.[6]
Phúc Âm Nhất lãm và Thánh Yoan. Nhân tiện dịch giả cũng xin nói ít lời về việc dịch
Tin Mừng Nhất lãm (tức là các Phúc Âm Matthêô (Mt), Marcô (Mc), và Luca (Lc). Bản
dịch đã muốn làm sao độc giả khi muốn so sánh thì có thể nhận ra sự đụng chạm,
những điều tương đồng giữa ba Phúc Âm. Xét chung về bản Tin Mừng Nhất lãm, dịch
giả đã cố gắng làm cho độc giả có một cảm tưởng: cảm tưởng đầu tiên có lẽ là
thiếu tôn kính. Cảm tưởng đó, xin độc giả cứ giữ lấy, đừng vội lên án bản dịch.
Vì thiết tưởng còn có điều cao trọng hơn là tôn kính nữa. Chúng ta thường khó
mà có một ý tưởng thành thực xác đáng về bản tính loài người nơi Chúa Yêsu. Mặc
nhiên, chúng ta thường nghĩ về Ngài như Thiên Chúa hiện diện trong một thân
xác, nơi một ý thức người ta. Ý thức nhân loại đó thực sự là một điều chúng ta
không thể “suy bụng ta ra bụng Ngài” được, xin miễn chấp cho lời táo bạo đó: vì
là một sự chắc thực về sứ mạng độc nhất do Thiên Chúa và về cả sự đồng nhất huyền
bí với chính Thiên Chúa. Đó là một điều vượt quá ý nghĩ của chúng ta. Tuy thế,
các sách Tin Mừng vẫn cho ta thấy rõ ràng, cũng như Hội Thánh hằng tuyên xưng:
Chúa Yêsu là người thật. Ngài có ý thức của một người thật, đầy đủ tự do; Ngài
chịu trách nhiệm về mọi hành vi nước bước của Ngài trong khi thi hành sứ mạng;
Ngài có những sáng kiến của một người biết tuỳ cơ ứng biến. Điều đó không phải
là suy luận phát tự tín điều Thiên Chúa Nhập thể, nhưng là một đòi hỏi của văn
bản khi ta muốn thành thật nhận lấy văn bản như đã viết, thí dụ như những
chương thuật lại cho ta biến cố Tiệc ly hay cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu.
Chỗ này chúng ta phải thành thực nhận biết cái khó
khăn gặp phải khi so sánh Nhất lãm với Tin Mừng theo thánh Yoan (Yn). Vào thời
soạn tác các sách Tin Mừng, toàn thể Hội Thánh cũng như các tác giả Nhất lãm đều
có một lòng tin đầy đủ như tác giả sách Tin Mừng thứ tư: họ đều tin rằng Yêsu
Nazarét là đích thực Đức Kitô (Mêsia), Đấng Thiên Chúa đã hứa cho Israel như Đấng
Cứu Thế; và hơn nữa, Ngài là Con đích thực của Thiên Chúa. Nhưng khi đọc đến
các trước tác thì ta thấy được là các Nhất lãm (và cách riêng Mc) khác Yn nhiều.
Các Nhất lãm cho ta thấy Chúa Yêsu chỉ tỏ mình ra cho môn đồ mà thôi, mà Ngài lại
làm một cách chậm rãi, như thể từng bước một; và Ngài tỏ mình ra nơi cử chỉ của
Ngài, nơi thái độ của Ngài, hơn là nơi những lời tuyên bố. Còn Yn ngược lại,
ngay từ lúc khai mạc sứ vụ, Chúa Yêsu đã tuyên xưng mình là Mêsia, là Kitô
(4:26; 5:39-47), là Con Thiên Chúa theo một nghĩa hoàn toàn siêu việt (5:17;
8:56-58…), không thấy có chuẩn bị dọn đàng. Và điều đó lại được nói ra không chỉ
cho các môn đồ của Ngài, mà là cho mọi tầng lớp thính giả, ngay cho cả những kẻ
không sẵn lòng tin vào lời Ngài. So sánh như vậy mới thấy có lắm vấn đề nảy ra.
Xác nhận các vấn đề, rồi đi sâu vào các vấn đề để giải thích một cách không chỉ
là minh giáo nhất thời mà là để nhận chân khâm phục tất cả mầu nhiệm Nhập thể của
Thiên Chúa làm người, đó là một công việc quá bao la, mấy chương này không thể
trình bày dẫu chỉ là một cách đại cương đi nữa. Chúng ta hãy tạm nhận với nhau
rằng Nhất lãm cũng như Yoan đều chung một ý định, tức là trình bày sự kiện Chúa
Yêsu một cách hoàn toàn chân thật. Có điều là họ hướng mình theo những quan điểm
khác nhau đó thôi. Và bởi đó mà những phương tiện văn chương họ sử dụng cũng
khác nhau. Các Nhất lãm muốn doãn lại các truyện, các truyền tụng di sản của những
chứng tiên khởi; họ giữ lại hầu y nguyên, như lúc đức tin mới chớm nở, hay hơn
nữa, như lúc người ta mới ngạc nhiên nhìn nhận ra có cái gì khác thường nơi con
người mà hằng ngày họ được tiếp xúc thân mật. Công việc của họ là một cống hiến
cần thiết đặc biệt cho việc tế nhận đầy đủ mầu nhiệm Nhập thể trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Còn Yoan nhìn tất cả sự nghiệp của Chúa Yêsu trong sự duy
nhất sâu thẳm, trong thực tại hằng có của Ngài, hơn là trong những giai đoạn kế
tiếp nhau theo diễn tiến của thời gian. Yoan đã nhìn thấy vinh quang ngay cả
nơi Thập giá; nơi người một thời, Yoan đã cho thấy Đấng Cứu thế muôn đời. Đọc Yoan
không phải là dễ, nhưng tuy thế, đối với đức tin hiện có của ta, Yoan không làm
ta ngạc nhiên bằng Nhất lãm.
Xin độc giả hãy lượng xét. Dịch giả có chủ đích hoàn
toàn trung thành với văn bản, một cách thành thực, không giấu giếm, không che đậy,
cả những tiếng mà người mới đọc phát rợn mình. Một cách thành thực, dịch giả cứ
theo các nhân chứng tiên khởi để chịu lấy mặc khải tiệm tiến của Chúa Yêsu về
chính mình Ngài. Yoan cho ta thấy như thể bản tính Thiên Chúa rạng ra nơi nhân
vật lịch sử Yêsu Nazarét. Còn Nhất lãm theo bước một người hai chân dẫm ngay
trên sỏi đá của trần gian (chứ không phải phớt trên ngọn cỏ như kiểu một nhà
tiên) để cuối cùng bỡ ngỡ mà xưng lên: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Bởi thế,
dịch giả không dùng tiếng “Đức”, tiếng “Chúa”, làm tiếng đệm với danh Chúa Yêsu
trong các sách Tin Mừng. Do đó độc giả thấy được rằng, khi nào trong bản dịch
có những tiếng đó, thì nó đã là một tiếng đệm vì tôn kính nữa; tiếng đó đã giúp
các nhà bình luận suy nghĩ nhiều về công việc soạn tác cho các sách Tin Mừng Nhất
lãm.[7]
Nhịp điệu cú pháp. Cùng với phẩm sắc của tiếng dùng, cũng nên thêm ít
lời về nhịp điệu của câu văn. Điều này cũng phải cố gắng duy trì. Nhip điệu
không thay đổi ý tưởng. Nhiều khi có thể bỏ một phần câu đi, mà chẳng thiệt gì
về ý tưởng. Nhưng như thế gọi là tóm tắt chứ không còn là bản dịch.[8] Kiểu
nói có tiết điệu, cú pháp của tác giả, một bản dịch cũng phải cố gắng làm cho lộ
ra một phần nào như có thể nhận thấy trong nguyên văn. Vì thế trong Lc, dịch giả
cũng cứ để nhiều nơi: “Và xảy ra là khi ấy…” Các tiếng “và xảy ra là” chẳng
thêm ý nghĩa gì, đã hẳn thế, nhưng dịch giả thiết nghĩ cũng nên duy trì một phần
nào, vì đó là dụng tâm của một tác giả đã cố ý bắt chước kiểu nói của Kinh
Thánh Cựu Ước trong bản dịch Hy Lạp gọi là Bản Bảy Mươi LXX. Câu văn như thế, độc
giả tiên khởi Hy Lạp cũng đã lấy làm kỳ rồi, chứ không phải chúng ta mới cảm thấy
thế. Những kiểu nói Kinh Thánh như vậy, dịch giả tưởng không có quyền loại hẳn
đi, nếu chỉ vì muốn có một bản tiếng Việt hoàn bị. Đó là một lập trường có thể
công kích, nhưng dù sao thì lập trường đó cũng dựa trên điều này là Thiên Chúa mặc
khải trong một lịch sử nhất định, ngang qua những người cụ thể một thời, một
văn hoá.
Nói tóm lại, dịch giả đã đặt tâm đến mọi chữ viết
ra, cố sao uốn giọng lựa lời để đừng phản phúc với nguyên văn. Sự sơ xuất vẫn
còn nhiều. Dịch giả không dám nói mình đã thực hiện tất cả nguyên tắc mình đã
ra cho mình, huống hồ lại trông mong bản dịch của mình sẽ làm hài lòng mọi hạng
người. Chỉ xin thú thật rằng,
có những đoạn dịch giả đã dịch đi dịch lại không biết mấy lần mà lần nào cũng
chưa lấy làm thoả mãn: xuôi thì mất ý, được ý thì kỳ dị. Nhưng nhiều khi dịch
giả đành chịu nhận là kỳ dị còn hơn là phản ý nghĩa. Dù sao, xin độc giả hiểu
cho rằng dịch giả đã cân nhắc từng chữ.[9] Các điều dịch giả đã lựa chọn nhiều khi đã lựa chọn
một cách giải thích, giải thích đó không tự tiện, nhưng cũng phải nhận rằng nó
có tính cách cái nhiên mà thôi, và công việc khảo sát mai sau của các học giả sẽ
đem đến một giải quyết thỏa mãn hơn. Đức Piô XII cũng có viết trong thông điệp
nói trên: “Đừng ai lấy làm lạ vì mọi khó khăn vẫn chưa thanh toán được, chưa lướt
qua được hết, và hiện giờ vẫn còn những vấn đề nan giải đang lẩn vẩn nơi đầu óc
những nhà chú giải Công giáo.” Và ngài khuyên hãy kiên nhẫn, và tìm hiểu thêm,
rồi kết luận: “Không có gì lạ nếu có một hai vấn đề sẽ không bao giờ có được một
câu trả lời đích đáng, làm hoàn toàn thoả mãn, vì là dính líu với những điều mù
tối và đã quá xa thời đại chúng ta, và cả kinh nghiệm của chúng ta nữa” (Enchiridion
Biblicum, số 563).
II. NGOÀI BẢN DỊCH còn có:
- Tiểu dẫn chung.
- Tiểu dẫn nhập đề cho
một số sách hay cho từng quyển một.
- Lề chú và cước chú.
- Bản kê những chú
thích quan trọng.
- Niên biểu sơ lược.
- Địa đồ: Đất thánh,
Yêrusalem, các vùng Địa Trung Hải.
Lần lượt dịch giả xin có vài lời nói đến các yếu tố này.
1. Tiểu dẫn
Tiểu dẫn chung cho cả Tân Ước muốn vạch ra công việc cấu thành Tín thư của Tân Ước. Nhìn thấy được trình tự cấu thành đó là một điều quan trọng, vì Tân Ước không có tính cách hệ thống, nhưng là nhiều cách tế nhận một biến cố, hay nói phải hơn, tiếp xúc với một người, và nhận dần dần ra kích thước của người đó trong lịch sử cứu rỗi theo nhiều khía cạnh, trong những thư tịch viết vào những trường hợp nhất thời. Đọc tiểu dẫn xong, mà chưa đọc Tân Ước, độc giả sẽ thấy hình như không dẫn vào Tân Ước gì cả. Cảm tưởng đó là một điều phải. Tiểu dẫn đây không phải là một linh dược làm độc giả hiểu ngay trong chốc lát tất cả Tân Ước. Phải chi ai kiếm ra được một phương pháp thần diệu như thế! Có khi độc giả còn cho tiểu dẫn là khúc mắc hơn chính bản Tân Ước nữa. Tiểu dẫn đây là một toát yếu. Một toát yếu tất nhiên không diễn giải ra được tất cả những điều muốn nói, nó phải dựa trên điều đã biết ở đâu kia rồi. Vậy nếu độc giả đọc sơ qua tiểu dẫn mà có điều không tỏ, độc giả cứ yên tâm để một bên, và cứ mạnh dạn đi vào chính bản Tân Ước. Lần này lần khác, chứ không phải là đọc một lần cho xong, trông cậy rằng độc giả sẽ không đọc Tân Ước như đọc một quyển tiểu thuyết. Nhưng độc giả sẽ coi Tân Ước như một người bạn của cả đời, viếng thăm thường nhật. Độc giả đọc xong Tân Ước rồi, và vui lòng trở lại tiểu dẫn, dịch giả trông cậy rằng độc giả sẽ thông cảm hơn, nhất là nếu độc giả đành lòng dành dụm ít thì giờ và tìm các xuất xứ kê trong tiểu dẫn, thử viết lại các xuất xứ và suy nghĩ, độc giả sẽ càng lĩnh hội nhiều hơn. Thế rồi lại về với chính bản Tân Ước, và thỉnh thoảng trở lại tiểu dẫn. Bấy giờ tiểu dẫn trông cậy rất có ích: đó là một vài chương toát yếu Thần học Tân Ước kính tặng độc giả như bó hoa dịch giả đã hái chỗ này chỗ khác và đã cảm thấy nó giúp ích cho chính mình rất nhiều. Dịch giả nhận ra là giữa hai mươi bổn trước tác dài vắn khác nhau này, nếu không có một tiêu điểm để thống nhất các khía cạnh thì trí lòng có khi bị tán loạn mất. Nếu dịch giả biết được trong hàng độc giả đã có người chia sẻ với mình quan điểm đó, dịch giả đã lấy thế làm toại nguyện rồi.
2. Tiểu dẫn nhập đề cho một số sách hay cho từng
quyển
Có hai nhập đề quan trọng: Nhập đề vào Tin Mừng Nhất
lãm, và nhập đề vào các thư của thánh Phaolô. Ngoài ra mỗi quyển có một nhập đề
riêng, dài vắn tuỳ khi. Các nhập đề đó thu thập một cách sơ lược, nhưng đã cân
nhắc hẳn hoi những gì chắc chắn của công việc sưu tầm Kinh Thánh hiện tại. Cùng
với nhập đề đó có kèm thêm một bố cục (hay dàn bài). Tuy mới coi thì chỉ là một
việc kê các đoạn. Nhưng ngay việc kê các đoạn đó cũng đã là một chú giải quan
trọng rồi, để vạch ra điều chính điều phụ của một trước tác, và đối với những
người thường làm quen với Sách Thánh, thì bố cục đó sẽ giúp họ thâu nhận, và
ghi kỹ nội dung của mỗi quyển sách hơn.
3. Lề chú
Bên tả hay bên hữu bản dịch có những hang chữ li ti,
kê những chữ tắt các sách, kèm thêm đoạn (số đậm) và câu (số lép). Chính việc
in các lề chú này và các xuất xứ cước chú mà nhà in đã phải mất công hơn cả.
Nên tiện đây dịch giả xin hết lòng đa tạ về công trình tỉ mỉ đó. Trông cậy sau
này còn có thể bổ túc để nên hoàn bị hơn. Mục đích của lề chú là cho thấy những
xuất xứ song song về đạo lý của câu trong văn bản ngang hàng với xuất xứ. Lề
chú giúp ích cho những ai muốn tìm hiểu đạo lý. Nhưng lề chú quan trọng hơn cả
là lề chú của các sách Tin Mừng Nhất lãm (Mt, Mc, Lc). Lề chú cho thấy những đoạn
cũng đồng một nội dung. Lề chú đó có kèm thêm dấu “//”; dấu đó muốn nói rằng đoạn
Sách Thánh bên trong bản văn đi song song với các đoạn kê số bên lề. Học Tin Mừng
Nhất lãm cốt thiết là so sánh, đối chiếu, và rút kết luận về những đoạn song
song đó.
4. Cước chú
Ở gần cuối trang thường có in một đoạn chữ nhỏ hơn:
có kê câu và đoạn (nếu cần), đối với những câu có hoa thị trong văn bản ở trên.
Mục đích của cước chú là cắt nghĩa các câu có hoa thị đó. Tất nhiên trong khuôn
khổ một sách nhỏ việc cắt nghĩa chỉ dồn vào ít điều mà thôi:
a) những đoạn văn gọi là dị bản. Tức là những câu Kinh
Thánh nhiều khi trong việc biên chép đã sai chạy cách này cách khác, và nhiều lần
còn thấy trong chính bản Latin dùng trong Hội Thánh: có khi vì thêm (cước chú
có ghi: có bản thêm); hoặc bớt (cước chú ghi: có bản bỏ); hoặc thay đổi (cước
chú viết: có bản đổi).
b) cắt nghĩa những điều tối nghĩa, hoặc biện chính
cho việc dịch ở trên.
c) giải rộng thêm một ít về vài chủ đề đạo lý. Các
chủ đề này nếu kê cứu hết xuất xứ, độc giả sẽ am hiểu hơn về đạo lý Tân Ước.
5. Bản kê những chú thích quan trọng
Cũng vì lý do đó mà cuốn sách có một bản kê những
chú thích quan trọng viết theo chủ đề, sắp đặt theo thứ tự A, B, C… Nhờ đó độc
giả có thể tra như một tự vị nhỏ những chủ đề cốt yếu của Thần học Tân Ước.
6. Niên biểu sơ lược
Sau cùng cuối sách còn ít trang kê một số niên biểu
về Thánh sử. Các niên biểu đó gồm có:
a) Niên biểu các biến cố quan trọng của Thánh sử.
b) Niên biểu các tác giả hay trước tác Kinh Thánh, Cựu
Ước và Tân Ước.
c) Niên biểu quan trọng lịch sử nhân loại, cả bên
Đông lẫn bên Tây phương, để làm mốc cắm chặng thời gian.
7. Địa đồ
Sách Tân Ước này còn kèm thêm ba địa đồ. Nhân tiện đây, dịch giả xin có lời thành thực cảm tạ ông Văn Đình Khai, thuộc Nha Địa dư Quốc gia Đà Lạt đã vui lòng bỏ thì giờ quý báu để hoạ lại một cách rất công phu. Các địa đồ đó cho thấy các địa điểm chính có nói đến trong các sách Tân Ước.
III. PHIÊN ÂM CÁC TÊN RIÊNG
Sau cùng dịch giả cũng xin có đôi lời trình bày việc
phiên âm ít tên riêng. Chiếu theo ngữ học, dịch giả giữ nguyên trạng cái gốc của
tên, còn phần chót tức là phần thường được thay đổi theo mẹo Hy Lạp, thì dịch
giả đã theo lệ mà để là “ô” hay vần nào khác thường dùng (thí dụ: Saulô, gốc là
Saul, và phải đọc là: Sa-u-l (ơ) (ơ rất nhẹ chỉ cốt làm nổi chữ “L” mà thôi).
Những tên quen lắm, dịch giả đành để yên, trừ ra tiếng Môsê. Dịch giả viết thế,
vì nhận thấy tiếng đó tại Việt Nam có nhiều kiểu đọc và viết như Maisen,
Moysen. Các kiểu đó muốn dựa trên tiếng Latin hay tiếng Pháp. Không có nhất luật
thì chi bằng đánh bạo mà viết y nguyên kiểu đọc của người Do Thái: gốc Hipri là
Môseh: chữ “h” cuối không đọc; chữ “e” đọc như “e” hay “ê” Việt Nam ta, chữ “s”
đọc có gió giống như “sh” của tiếng Anh.
Nhân tiện cũng xin nói dịch giả phiên âm tiếng Hébreu
(Pháp), Hebraeus (Latin), Hebrew (Anh) bằng tiếng “Hipri”. Chúng ta thường nghe
nói “Hi-bá-lai” hay “Hi-bá”. Kiểu nói đó phát tự việc phiên âm của người Trung
Hoa. Họ phiên âm tiếng Anh (Hebrew) thành Hi-pe-lai vì họ không đọc được chữ “R”
nên họ đọc “L”. Chữ Hán của Hi-pe-lai đọc theo kiểu Hán Việt là “Hi-bá-lai”.
Nghe thì hay nhưng là một kiểu nói ngọng. Vậy dịch giả thử táo bạo mà viết hầu
y nguyên tiếng gốc tiên khởi là Hipri. Thiết tưởng làm thế không có gì là quá lập
dị.
Cũng vậy dịch giả luôn luôn viết “Rôma” chứ không dùng “La-mã”. Đây cũng vậy, người Trung Hoa phiên âm “Roma” là “Lo-ma” vì không có chữ “R”. Mà “Lo-ma” của chữ Hán nếu đọc ra Hán Việt thì thành “La-mã”, một phiên âm nói được là phi lý.
Nhưng có một điều mà lắm người công kích dịch giả là
việc dùng “Y” thay “Gi” khi phiên âm tên riêng: như Yêsu thay vì Giêsu. Vậy đây
xin có vài lời cắt nghĩa.
a) Kiểu đọc các tên riêng như Giêsu, Gioan, Giacôbê,
đều dựa trên chữ J của các tên đó hoặc trong tiếng Latin (Jesus, Johannes,
Jacobus) hay tiếng Pháp (Jésus, Jean, Jacques), và có thể chúng ta đọc theo tiếng
Ý Đại Lợi : “Giesu, Giovanni, Giacobbe”. Những kiểu đọc của ta muốn dựa trên Latin
một phần nào. Cứ xét về luật phiên âm thì phiên âm Latin mới đúng. Nhưng khi đó
thì “J” có giá trị như “I”, và “I” đó đồng giá trị với “Y”, nó có giá trị như
khi chúng ta đọc “yên” trong tiếng “bằng yên”.
b) Dịch giả không cần nhấn đến vài ích lợi phụ thuộc:
như chúng ta sẽ viết ít chữ hơn (thời nguyên tử cấp tốc, thì điều đó cũng đã có
lợi), hay như “Y”có thể mọi người Nam Bắc đọc giống nhau được chứ như ‘Gi’ thì
không chắc có được đồng nhất hay không.
c) Nhưng điều cốt yếu đã khiến dịch giả mạo muội ra
đề nghị phiên âm này là một vấn đề chú giải, hay tra cứu để cắt nghĩa một phần
nào.
Tên riêng Do Thái thường có kèm thêm Danh Thiên
Chúa. Danh Thiên Chúa chung là EL (nghĩa là “Thiên Chúa, thần”). Tên đó chúng
ta gặp trong tiếng Ezêkiel (chính là Y (ơ) khezq, El: Xin Thiên Chúa (El) làm
cho ‘nó’ nên mạnh mẽ), cũng như trong các tên Mikael, Gabriel, Raphael, Israel.
Nhưng Thiên Chúa trong Giao ước với Israel có mang
danh hiệu đặc biệt là: YHWH và phải đọc là Yahweh, hai chữ “H” không cần cho việc
phát âm, và như thế người ta đọc là Yavê. Tiếng đó viết tắt lại là Yahu, rồi
“Ya”. Tiếng “Ya” đó ta gặp trong tiếng Allêluia (chính là Hallêluya: hãy ngợi
khen (Hallêlu) Thiên Chúa Yavê (Ya). Tiếng Ya đó ta còn gặp trong các tên như:
Elia: chính là Eliyya hu, Eliyya; Elya (Ya (vê) đích
thực là El). Đó là tiếng Ya đặt ở cuối tên (Isaia, Ysaya cũng thế).
Nhưng “Yahu”, “Ya” có thể đặt ở đầu tên, khi đó thì
người ta đọc là Y-hô (Yơ-hô) và đọc chập lại thì thành Yô (chính là Yaw, Y au),
và có khi chỉ còn có Y mà thôi.
Johannes: Y-hô-kha-nan, Yôkhanan: Yavê thương xót.
Joachim: Y-hô-ya-qim, Yô-ya-qim (Yavê thiết lập, cho
trỗi dậy).
Jesus: Y-hô-su-a, Yô-su-a, (tên của ông Gio-duệ như
thường nói) và sau cùng Yê-su-a, và phiên âm Hy Lạp Latin Iesus.
Tên đó đã được cắt nghĩa trong Mt 1:21 (vì sẽ cứu):
chính là Yavê cứu thoát, Yavê là sự cứu thoát.
Vậy xét hiện tượng đặt tên như thế, nên dịch giả thiết
tưởng phiên âm những gốc có tiếng “Y” trong nguyên khởi thành “Y” trong tiếng
Việt Nam là một điều nên thử xem, vì khi đó thì cho dù là ở sau như Elya, hay
là ở trước như Yoan, cái gốc cũ vẫn còn có thể nhận hình trạng của nó. Chứ như
Elia và Gioan thì thật xa hình thức rồi. Chữ viết là một phù hiệu để gợi ý, nếu
kiểu viết nào vừa ngắn lại vừa gợi nhiều ý, tất nhiên giá trị phù hiệu của nó
được gấp đôi. Một thí nghiệm trông cậy được nhiều độc giả hưởng ứng. Và hễ ai đọc
được “yên” thì cũng đọc được “Yê” hay “Ya”.






Đề tài 1:
VIỆC PHỔ BIẾN LỜI CHÚA
TẠI VIỆT NAM
+ ĐGM.
Giuse Đỗ Quang Khang
Giám mục GP. Bắc Ninh
Kính
thưa toàn thể tham dự viên,
Khởi
đi từ chủ đề của buổi hội thảo hôm nay: ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG CHÚA CỨU THẾ CHO HỘI
THÁNH VIỆT NAM VỀ VIỆC PHỔ BIẾN LỜI CHÚA, xin được khởi đi từ hai gợi ý căn
bản:
- Câu
nói nổi tiếng của thánh Jérônimô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa
Kitô.”
- Tông
huấn Verbum Domini, số 47, minh định rằng: “Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa đang ngỏ với thế giới hôm
nay, với Giáo Hội và với riêng từng người.”
1. Kinh
Thánh nói về Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa
Từ hai
khẳng định này, ta có thể nhận ra rằng hai điều:
- Kinh Thánh là “một câu chuyện tình”, mà
Thiên Chúa, ngang qua Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa, ngỏ với thế giới, với Hội
Thánh và với riêng từng người.
- Tất cả
mọi trình thuật, mọi sự kiện, mọi câu chuyện… được ghi lại trong Kinh Thánh chỉ
có thể được đọc và hiểu trong lăng kính nền tảng là “quy Kitô”. Sách Công vụ
Tông đồ, chương 8 đã cho chúng ta một kinh nghiệm thật quý giá về điều này:
“34 Viên thái giám ngỏ lời với ông Philípphê: “Xin ông cho biết:
vị ngôn sứ nói thế về ai? Về chính mình hay về một ai khác?” 35 Ông
Philípphê lên tiếng và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giêsu
cho ông” (Cv 8,34–35).
2. Đức
Kitô, Lời ban Sự Sống Đời Đời
Tuy
nhiên, ý niệm “Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa” như chúng ta vừa trình bày
xem ra khá trừu tượng, thậm chí khó hiểu ngay cả với những người quen suy tư.
Nhất là con người của thế giới hôm nay: điều gì cũng phải rõ ràng, dễ hiểu, mới
có thể dễ chấp nhận hơn.
Tin Mừng
Ga 6 đã kể lại cho chúng ta một kinh nghiệm đắt giá về điều này: sau diễn
từ về Bánh Hằng Sống: “60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền
nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?... 66 Từ lúc đó,
nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. 67 Vậy Đức
Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”68 Ông
Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết
đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”’
Khẳng
định cho hôm nay: ‘Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa’ có lẽ cũng sẽ thật
khó chấp nhận như Chúa Giêsu năm xưa đã mặc khải cho các môn đệ: “54 Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại
vào ngày sau hết,55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật
là của uống.56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống
đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà
được sống như vậy” (Ga 6,54–57).
Các
môn đệ quyết định ở lại với Đức Kitô không phải vì các ông đã hiểu điều mà người
khác không thể hiểu, nhưng chỉ vì một lẽ thật giản đơn: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”
(Ga 6,68).
3. Sự Sống
Đời Đời là biết Thiên Chúa Cha, và Đức Kitô, Đấng Thiên Sai
Để có
Sự Sống Đời Đời, Phêrô đã quyết định ở lại với Chúa Giêsu. Nhưng ý niệm Sự Sống
Đời Đời ấy xem ra vẫn xa lạ và khó hiểu với những người dân mà một cuộc sống cứ
quay quắt giữa vòng xoáy cơm áo gạo tiền. Chúng ta cùng trở lại với lới khẳng định
của Chúa Giêsu về ý niệm Sự Sống Đời Đời trong Ga 17: “Mà sự sống đời đời
đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha
đã sai đến, là Giê-su Ki-tô [αὕτη δέ ἐστιν
ἡ αἰώνιος ζωὴ ἵνα γινώσκωσιν σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν καὶ ὃν ἀπέστειλας
Ἰησοῦν Χριστόν (Jn. 17:3 BGT)].”
4. Làm
sao để có Sự Sống Đời Đời?
Lời khẳng
định ấy của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu ra rằng:
- Sự Sống
Đời Đời đã được bắt đầu từ cuộc sống trần thế này.
- Vậy, ai
có thể có được Sự Sống Đời Đời?
* Người
biết Cha là Thiên Chúa duy nhất-chân thật. Nói cách khác, người có kinh nghiệm
hay trải nghiệm về một Đấng mà Đức Giêsu gọi là Cha, Thiên Chúa, Ngài chỉ là một
và chân thật; nghĩa là không có hai và không bao giờ có sự giả dối nơi Ngài.
* Biết
Thiên Chúa trở thành cửa ngõ để biết Đức Giêsu Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến
– Đấng Thiên Sai.
Như thế,
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mặc khải, không phải là một Đấng chỉ để lạy lục, van
xin, kêu cầu… nhưng là Đấng để mỗi người có thể gặp gỡ ngang qua mỗi biến cố
trong cuộc sống hằng ngày. Đối diện với mỗi biến cố, điều quan trọng không phải
là tôi đang trào dâng cảm xúc gì để suy nghĩ và hành xử theo sự chi phối của cảm
xúc ấy, mà là Thiên Chúa nói gì với tôi về tôi ngang qua sự tôi đang đối diện hằng
ngày. Con đường ấy giúp tôi có kinh nghiệm biết Thiên Chúa duy nhất chân thật. Ý Cha được thể hiện.
5. Làm
sao để biết Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Thiên Chúa sai đến?
Câu hỏi
ấy gợi ý cho ta một câu hỏi ngược lại và quan trọng hơn: làm sao để Chúa Giêsu
biết ta?
Mt 7 21 “Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả
đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi. 22 Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng:
“Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên
tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23 Và
bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất
mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! 24 “Vậy
ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành,
thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. 25 Dù mưa sa,
nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.”
[Οὐ πᾶς ὁ λέγων μοι· κύριε κύριε, εἰσελεύσεται
εἰς τὴν βασιλείαν τῶν οὐρανῶν, ἀλλ᾽ ὁ ποιῶν τὸ θέλημα τοῦ πατρός μου τοῦ
ἐν τοῖς οὐρανοῖς (Matt. 7:21 BGT) - Πᾶς οὖν ὅστις
ἀκούει μου τοὺς λόγους τούτους καὶ ποιεῖ αὐτούς, ὁμοιωθήσεται ἀνδρὶ
φρονίμῳ, ὅστις ᾠκοδόμησεν αὐτοῦ τὴν οἰκίαν ἐπὶ τὴν πέτραν·
(Matt. 7:24 BGT)] – ‘Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà
đem ra thực hành.’ Lời
Thầy được thi hành.
6. Vài nhận
định
- Lối sống
đạo rước sách rầm rộ, cỗ bàn linh đình, nặng tính lễ hội tại Việt Nam hiện nay
không có gì đáng chê trách, tuy nhiên, thực tế ấy cho thấy mặt trái một cộng
đoàn tín hữu vẫn chưa thực sự cảm nhận được sự cần thiết của việc để cho “Ý
Cha được thể hiện” hay cho “Lời
Thầy được thực thi” trong đời sống hằng ngày.
- Việc phổ biến Lời Chúa tại Việt Nam hiện
nay, có lẽ, mới chỉ dừng lại ở mức độ giúp mọi người hiểu Lời
Chúa, nhưng chưa thực sự gợi lên nơi mỗi tín hữu một sự hứng khởi nhằm thay đổi bản thân theo như ý Chúa Cha muốn
hay như lời Chúa Con dạy.
- Nói
cách khác, việc phổ biến Lời Chúa là một tiến trình dài hơi: để có Lời
Chúa, để nghe Lời Chúa, để hiểu Lời Chúa qua việc học hỏi, mà nhất là để biết
Chúa, nghĩa là dám để Chúa thay đổi nghĩ suy, lối sống cùa mình theo ý Chúa Cha
muốn và theo Lời Chúa Con dạy.
- Cùng các Cha Dòng Chúa Cứu Thế, chúng
ta hăng say làm tiếp phần còn dở dang của sứ mạng phổ biến Lời Chúa cho anh chị
em Kitô hữu trên quê hương Việt Nam thân yêu: Khơi lên sự hứng khởi nơi mỗi
người nhằm biến đổi bản thân theo như ý Chúa Cha muốn qua lời Chúa Con dạy
trong cuộc sống hằng ngày.

Đề tài 2:
100 NĂM DCCT:
SỨ MẠNG LOAN TRUYỀN LỜI CHÚA TẠI VIỆT NAM
LM. Giuse Nguyễn Ngọc
Bích, C.Ss.R.
Phần
này xin trình bày sơ lược và tóm tắt việc các tu sĩ thừa sai DCCT góp phần vào
sứ mạng loan truyền Lời Chúa tại Việt Nam trong suốt dòng lịch sử trăm
năm. DCCT đã góp phần về mặt chuyên môn dịch thuật, chú giải cũng như mục vụ
loan báo Tin Mừng cho đến ngày hôm nay.
1. Lời Chúa trong bối cảnh
nước Việt Nam
Trước Công đồng Vatican II, một trong những rào cản đầu tiên với người Việt Nam là tình trạng mù chữ của dân chúng,
thêm vào đó, thái độ của thẩm quyền trong Giáo Hội không muốn cho người giáo
dân đọc Kinh Thánh! Thái độ này phát xuất từ phản ứng chống lại phong trào cải
cách của người Tin Lành. Như vậy, hàng ngũ giáo dân thời bấy giờ chắc chắn
không thể tiếp xúc với Kinh Thánh trong ngôn ngữ địa phương.
Sự
hạn chế việc dịch thuật Kinh Thánh sang ngôn ngữ địa phương của Giáo Hội đã là
một trở ngại đối với người Công giáo để có thể tiếp cận trực tiếp Lời Chúa.
Hoàn cảnh của người Công giáo Việt Nam ở trong một tình huống như vậy. Trong
khi Giáo Hội Tin Lành tìm cách phổ biến bản văn Kinh Thánh tiếng Việt đã có từ
đầu thế kỷ XX thì người Công giáo vẫn tìm cách loại trừ. Có khi bản Kinh Thánh
được gửi đến, được chuyền tay, và bị bỏ vào thùng rác hay ở những chỗ tồi tệ
hơn.
Giáo
dân Việt Nam biết đến Lời Chúa cách gián tiếp qua những câu chuyện kể lại, nhờ những suy gẫm về các mầu nhiệm Kitô
giáo, về cuộc đời của Ðức Kitô và của Ðức Trinh Nữ Maria, nhất là về mầu nhiệm Giáng Sinh và cuộc Thương Khó của Chúa, nhờ sách Sấm truyền Cũ / Mới.
Những
câu Lời Chúa mà giáo dân biết được là qua lời giảng của các cha xứ, được truyền
miệng hoặc qua kinh nguyện, ngắm nguyện, bài hát (“Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán:
lúa chín đầy đồng…”) và các
sáng tạo văn chương.
Tất
cả chỉ là sự thu góp cách vụn vặt chứ không có hệ thống hoặc được học hỏi cách
chuyên sâu như hiện nay.
Bản
dịch Kinh Thánh Công giáo đầu tiên là của Cố Chính Linh, một vị thừa sai thuộc
Hội Truyền giáo Paris (MEP), là người đầu tiên dịch toàn bộ Kinh Thánh ra tiếng
Việt. Bản dịch Kinh Thánh đầu tiên của Cố Chính Linh được in năm
1913-1916.

Bản
dịch Kinh Thánh Công giáo đầu tiên của Cố Chính Linh
Đối
với chúng ta ngày nay, lối văn này đã quá cổ, nhất là trong cách xưng hô “bay,
tao”. Ngay trang đầu có dẫn Ga 5,39: “Hãy lục xét Sách Thánh… Sách Thánh
làm chứng về tao.” Hay câu Đức Giêsu “lả lời” cho bà vợ ông Dêbêđê và hai con:
“Đức Chúa Jêsu bảo các chúng rằng: thật chén tao thì bay sẽ uống; còn sự ngồi
bên tả bên hữu tao, chẳng phải tự tao ban cho bay, bèn là những kẻ Cha tao sắm
để cho nó” (Mt 20,23).
Dầu
sao, chúng ta phải khâm phục công trình của một vị thừa sai ngoại quốc đã mở
đường cho việc dịch thuật và giải thích Kinh Thánh.
2. Bản dịch của cha Gérard Gagnon
Sau
bản dịch Kinh Thánh đầu tiên của Cố Chính Linh, phải đợi 50 năm sau mới có một
bản dịch Công giáo khác của một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế là cha Gérard Gagnon
(cha Nhân). Bản dịch này xuất bản tại Đà Lạt vào năm 1963 gồm 5 tập: Ngũ thư,
Lịch sử, Triết minh, Tiên tri và Tân Ước.
Bản dịch mỗi sách trong Kinh Thánh thường có phần nhập đề vắn tắt; sau bản dịch
có phần chú thích rất ngắn.

Bản
dịch Kinh Thánh của cha Gérard Gagnon (cha Nhân).
Bản
dịch này xuất bản tại Đà Lạt vào năm 1963 gồm 5 tập:
Cha
Gérard Gagnon khiêm tốn viết:
Đây chỉ là một
bản phiên dịch Thánh Kinh, với mục đích để giáo dân tiện dụng trong công cuộc
tìm hiểu và học hỏi Thánh Kinh. Chúng tôi không dám có tham vọng tự coi đây là
một bản dịch ‘sát chữ và bình luận’. Chúng tôi mong ước rồi đây sẽ có một bản
dịch chính thức do các nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh dịch thuật, chú
giải…
Xét
về mặt văn chương, bản dịch này khá xuôi và người đọc không có cảm tưởng rằng
bản dịch đã được thực hiện cách đây 60 năm.
Tuy
nhiên bản dịch Kinh Thánh này cũng không phổ biến rộng rãi đến giáo dân nên
nhiều người cũng không có cơ hội nhìn thấy sách này.
3. Bản văn trong Sách lễ
Việc
tiếp cận khá tốt Thánh Kinh là khi có bản dịch Sách lễ (NXB. Hiện tại) với
các bài đọc Thánh thư, Phúc Âm mà giáo dân được đọc vì trước đó các bài đọc đều
bằng tiếng Latin không mấy người hiểu được.

Với
việc cho đọc Thánh thư và Phúc Âm bằng tiếng bản xứ đã là một cánh cửa mở rộng
cho việc tiếp cận Lời Chúa cách gần gũi, dễ dàng và trực tiếp cho người Công
giáo Việt Nam, từ năm 1963.
Thời gian 1963 cũng là thời của Công đồng chung
Vatican II đang được tiến hành. Bầu khí của Giáo hội Việt Nam nói chung được
hâm nóng với những phong trào “canh tân phụng vụ”, “trở về nguồn” và nhất là
phong trào “Thánh Kinh”.
4. Bản
dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn
Quyển Tân Ước của cha Giuse Nguyễn Thế
Thuấn (ấn bản đầu tiên) đã ra đời năm 1965. Một bầu khí sôi động bùng lên
trong Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế. Các cha, các thầy hân hoan phấn khởi tiếp nhận
bản văn Tân Ước đầy đủ, không còn phải tìm đến những bản văn tiếng Pháp hay Latin
để truy tầm Lời Chúa nữa mà đã có một bản văn tiếng Việt thuần tuý. Việc phổ
biến sách Tân Ước cũng lan rộng qua công việc rao giảng của các vị thừa sai
DCCT khắp mọi nơi. Lời Chúa được trích dẫn nhiều hơn, được ứng dụng vào cuộc
sống cụ thể hơn. Những câu lời Chúa được ghi lại và truyền đạt cách đơn giản:
“Hãy xin thì sẽ được” (Lc 11,9); “Mọi điều các ngươi muốn người ta làm
cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt
7,12); “Hãy coi chim trời, chúng không gieo, không gặt… Các ngươi không hơn
chúng sao” (Mt 7,27); “Vì ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh ta,
thì có ta ở đó, giữa họ” (Mt 18,20); “ Còn ngươi bố thí. Thì tay trái
đừng biết việc tay phải làm” (Mt 6, 3)… Lời Chúa được đọc lên một cách
rõ ràng và lan toả cách sống động đến mọi tầng lớp.
Khác
với các bản dịch Kinh Thánh trước đó, cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn đã dịch Kinh
Thánh từ nguyên ngữ Hipri, Aram và Hy Lạp. Do đó, bản dịch vẫn tiện dụng cho những
ai muốn học hỏi Kinh Thánh.
Một điều phải nói về ảnh hưởng của cha Giuse Nguyễn
Thế Thuấn đó là ngài đã truyền cảm hứng cho cả một thế hệ trẻ của DCCT
yêu mến Lời Chúa, say mê Lời Chúa, hứng khởi với nguồn mạch Kinh Thánh, hăng
hái loan báo Tin Mừng cho mọi người. Ngài dạy, ngài giảng không
đậm chất hùng biện nhưng đầy lửa nhiệt thành và niềm xác tín làm cho các thính
giả cảm thấy được đốt nóng lên niềm phấn khởi và hăng hái thánh thiện. Diệu cảm
ấy được bừng lên trong bầu khí sau Công đồng Vatican II lại như được tiếp thêm
sức sống mới của ân sủng và đã được thổi bùng lên bằng ngọn lửa của Thần Khí
Chúa. Bài dạy Kinh Thánh của ngài còn được truyền đến nhiều thế hệ đi sau như
Kerygma, Kinh Lạy Cha và Bài giảng trên núi.
Trong Hội Dòng, tinh thần học hỏi, say mê Lời Chúa lan
toả đến cả những anh em Đệ tử viện. Có những người đã yêu mến Lời Chúa và bắt
đầu học tự học Hy Lạp để sau này nghiên cứu Kinh Thánh. Mỗi người trong Dòng đều
phải có quyển Tân Ước và được nhắc nhở đọc Lời Chúa mỗi ngày.
5. Việc loan truyền Lời Chúa sau Công đồng
Vatican II
Lời Chúa còn thấm nhập vào trong các hoạt động mục vụ
khác như âm nhạc. Các nhạc sĩ DCCT như cha Thành Tâm, cha Sĩ Tín, cha Hoàng
Đức, cha Tiến Lộc… cũng lấy cảm hứng từ Thánh Kinh. Ca từ cũng đậm chất liệu
của Lời Chúa. Các sách, các bài viết đều có những điểm nhấn mạnh đến Lời Chúa.
Những suy tư bắt nguồn từ những ý tưởng trong Thánh Kinh và được triển khai một
cách đa dạng, phong phú.
Năm 1969, quyển Tân Ước được tái bản 12.000 cuốn với
những sửa chữa bản dịch do chính cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn thực hiện (vì ấn
bản đầu tiên có những chỗ cần thay đổi cho dễ hiểu hơn và cần thích nghi với
ngôn ngữ đương thời). Bản văn mới cũng được hân hoan đón nhận và phổ biến càng
ngày càng rộng rãi hơn.
Một hoạt động khác nói lên sự góp
phần của DCCT trong những năm 70 để phổ biến Lời Chúa đến với các quân nhân và
gia đình binh sĩ Công giáo đó là phong trào “mỗi quân nhân một Tân Ước” do cha Rôcô
Nguyễn Tự Do khởi xướng,
bản văn Tân Ước được dùng lúc đó là bản dịch của cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn,
được cha Giuse Trần Hữu Thanh hiệu đính một số chỗ trong bản văn với sự đồng ý
của dịch giả. Sách khổ nhỏ và gọn nhẹ để người lính dễ dàng mang theo, được in
ở Hồng Kông với số lượng 300.000 bản, và đến năm 1975, đã phân phát hết. Khổ
sách rất vừa cho mọi người nên cũng được nhiều người sử dụng. Ðến nay, người Công
giáo Việt Nam đã dễ dàng và trực tiếp tiếp xúc với Kinh Thánh, nhờ đó, đời sống
thiêng liêng của họ được nuôi dưỡng thêm phong phú hơn.


Bản dịch Kinh Thánh của cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn
trong chương trình “mỗi quân nhân một Tân Ước”
Cha Giuse Nguyễn Thể Hiện sẽ trình bày đầy đủ hơn về cha
Giuse Nguyễn Thế Thuấn trong phần sau.
6. Việc loan truyền Lời Chúa sau 1975
Biến cố năm 1975 đã gây ra một sự xáo trộn lớn lao
trong đời sống người Công giáo. Họ đã sống những ngày tháng lo âu, sợ hãi. Họ
đã tìm đến Chúa để được bình an và được nâng đỡ trong những lúc bối rối, hoang
mang.
Lời Chúa quả là phương thuốc kỳ diệu đã giúp cho giáo
dân được bình tâm và can đảm đối diện với cuộc sống mà bão táp đang rình chờ
họ. Họ đã tìm đến với các sinh hoạt của Giáo Hội như Thánh Lễ, kinh nguyện, hội
đoàn, nhóm cầu nguyện... Trong thời gian này, tại DCCT Sài Gòn, đã có
những lớp học hỏi Lời Chúa, các nhóm cầu nguyện với Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa,
cầu nguyện Thánh Linh, bồi dưỡng đức tin, giáo lý cho người lớn, suy tôn Lời
Chúa… Tất cả đều tập trung vào Lời Chúa, và anh chị em giáo dân có thể dùng đến
bản văn Tân Ước đang có sẵn. Họ cảm thấy được nâng đỡ rất nhiều để vượt
qua khó khăn. Họ được thêm sức mạnh để sống đức tin trong một hoàn cảnh mới. Họ
hân hoan, hăng say và nhiệt thành với Lời Chúa vì từ đó họ đã tìm được sức sống
mới. Có lẽ trước đây, họ sống đạo cách hời hợt và thờ ơ, thì nay, nhờ tiếp cận
với Lời Chúa họ khám phá ra những nét đẹp của đạo, họ sống đạo sốt sắng hơn, họ
cảm thấy được no thỏa với Lời được ban cho. Họ còn lên đường đem Lời Chúa đi
vào các giáo xứ, các gia đình, các đoàn thể nơi họ sinh sống nữa. Bầu khí thấm
nhuần Lời Chúa được lan toả ngày càng đi sâu vào đời sống giáo dân. Các nhóm
còn đem Lời Chúa đến những vùng sâu, vùng xa. Việc dạy giáo lý cũng dựa trên
bài Tin Mừng vì lúc đó không có nhiều sách vở, tài liệu đầy đủ.
Cha Phaolô Đinh Khắc Tiệu, cha Giacôbê
Đào Hữu Thọ, cha Henri Bạch Văn Lộc, cha Anphongsô Phạm Gia Thuỵ, cha Mátthêu Vũ
Khởi Phụng… tích cực hướng dẫn, dạy dỗ và nối kết nhiều người đến với sinh hoạt
Lời Chúa tại Nhà Thờ DCCT Sài Gòn. Cả hoạt động thiếu nhi của cha Thành Tâm
cũng triển khai học hiểu Lời Chúa cách sâu xa. Điều này đã đem đến niềm hứng khởi
cho cả các vị phụ huynh. Những năm tháng sau 1975, chúng ta thấy nở rộ các hoạt
động cổ võ việc đọc Lời Chúa khắp nơi. Đã có nhiều người nhận được kết quả
thiêng liêng, được ơn hoán cải, ơn đổi đời để sống tốt lành hơn.
Như vậy, chúng ta thấy: việc có được bản văn Lời Chúa
quả là vô cùng hữu ích và có ý nghĩa quan trọng. Vào thời điểm này, bên Công
giáo, chỉ có bản dịch của cha Thuấn là được phổ biến và sử dụng rộng rãi.
Sau
khi cha Thuấn qua đời vào 01 tháng Tư năm 1975 (theo nhật ký của cha xứ Di
Linh), việc xuất bản cuốn Thánh Kinh trọn bộ là một việc làm cấp thiết. Một số
anh em trong Dòng hăng say lao vào làm việc, dịch cho xong những phần cha Thuấn
chưa hoàn tất. Sau đó anh em liền xúc tiến việc ấn hành bản dịch của ngài để lại,
sửa chữa đôi chút, bổ túc những chương cuối cùng, rồi cho xuất bản. Sở dĩ, Dòng
Chúa Cứu Thế Sài Gòn hoàn tất được công việc vĩ đại này giữa một nghịch cảnh hầu
như vô vọng, là vì, như đã nói trên, mọi sự đã được chuẩn bị trước. Giấy in thì
nhà sách Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn đã đặt mua sẵn từ ngoại quốc để chuẩn bị
việc xuất bản
Mùa Giáng sinh năm 1976, người Công
giáo Việt Nam đã có thể có thêm một bản dịch Thánh Kinh trọn bộ mới, dày khoảng
3.014 trang khổ 20 x 14cm, được in trên giấy bible, tức loại giấy vàng, mỏng và dai,
thường được dùng để in sách Thánh Kinh. Cuốn
Kinh Thánh trọn bộ này đã được in ra lần thứ nhất 10.000 cuốn trên giấy lụa và
đóng bìa cứng rất đẹp. Sách đã tiêu thụ hết
cách rất mau chóng.







Sau
thời gian khó khăn ban đầu của giai đoạn 1975 đến một thời điểm thuận lợi hơn,
Tỉnh Dòng cũng gửi những anh em trẻ đi học chuyên sâu về Kinh Thánh tại trường
Pontificium Institutum Biblicum (Viện Giáo hoàng về Kinh Thánh) ở Rôma
để có tiếp nối sứ mạng loan báo Lời Chúa và dạy học cho các Đại Chủng viện, các
Học viện tại Việt Nam.
Trong lãnh vực hoạt động có tính chuyên môn, Tỉnh
Dòng không chỉ giới hạn vào một bản dịch của người trong Dòng mà còn cộng tác với
việc phổ biến và loan truyền Lời Chúa với các nhóm hay Ủy ban Kinh Thánh khác.
Trong nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ có cha Giuse Trần Ngọc Thao, cha
Micaen Nguyễn Hữu Phú làm việc với nhóm cho đến khi qua đời. Các cha Giuse Nguyễn
Thể Hiện, Vinh Sơn Phạm Cao Quý, Giuse Phạm Đình Trí,… làm việc trong Ủy ban Kinh
Thánh của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
7. Hiệu quả của mục vụ
loan truyền Lời Chúa
Trong
những bài giảng lễ hay giảng đại phúc, các linh mục DCCT dựa vào bản văn Thánh
Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin, các việc phải làm vì vinh quang Thiên
Chúa và phần rỗi của loài người. Việc loan truyền Lời Chúa đem lại những hoa
trái tốt lành.
Hoán cải và biến đổi
Nhờ
đón nhận Lời Chúa mà nhiều người đã hoán cải và canh tân đời sống cho phù hợp với
giáo huấn của Tin Mừng. Chính Lời Chúa đánh động tâm hồn làm cho người ta cảm
thấy được cần phải hoán cải và nhận được sức mạnh của Lời Hằng Sống, lời ban ơn
cứu rỗi. Họ đã được biến đổi để trở thành con người mới. Lời Chúa đã thánh hoá
những ai đón nghe Lời. “Anh em được thanh sạch rồi, nhờ lời Thầy đã nói với anh
em” (Ga 15,3).
Gặp Chúa
Qua
rao giảng Lời Chúa, nhiều người được ơn soi sáng để biết sống chân chính hơn và
biết ứng dụng Lời Chúa cách linh hoạt vào cuộc sống. Lời Chúa không chỉ là những
quy tắc luân lý phải tuân thủ nhưng họ gặp được chính Đức Giêsu và Lời của Ngài
tác động trực tiếp vào tâm hồn người ta. Lời ấy còn là sức mạnh nâng đỡ họ can
đảm làm chứng cho Đức Kitô.
Cần phải giúp cho giáo dân gặp được chính Ðức Giêsu,
Ngôi Lời Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, chứ không chỉ đọc Kinh Thánh như những
lời được ghi chép lại. Như vậy phải giúp họ cầu nguyện bằng Lời Chúa, giúp Dân Chúa gặp được Chúa Giêsu Ngôi Lời để đi đến những thay
đổi đời sống.
Lời Chúa là Ánh Sáng
Lời
Chúa là Ánh Sáng soi đường giúp người ta vượt qua tăm tối hay phong ba bão táp:
“Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27). Ơn ta là đủ cho
ngươi (2 Cr 12,9). Lời Chúa còn giúp người ta trong những cơn nguy khó.
Họ nhận được sự trợ giúp để trở nên can đảm hơn, họ thấy được bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa toan năng và sự bảo vệ trước những nỗi hiểm nguy như đã nói đến
trong những ngày tháng tăm tối, bất an, nguy hiểm.
Đem bình an
Những
ai lắng nghe lời Chúa cũng sẽ cảm nhận được sự bình an sau những xáo động từ
bên ngoài cũng như bên trong. Mỗi khi gặp khó khăn hay cám dỗ người ta mở Lời
Chúa ra đọc để được hướng dẫn qua những bước đường khó khăn hay tăm tối mù mịt.
Lời Chúa đem đến sự bình an nội tai làm biến tan những sóng gió, những chao đảo,
những bất hoà, những xáo trộn.
Lời Chúa và những điều kỳ diệu giữa đời thường
Nghe
Lời Chúa và sống Lời Chúa, người ta thấy được những điều kỳ diệu, những điều lạ
lùng giữa đời thường nhờ sự can thiệp của Chúa và Lời Chúa không còn là những
điều lý thuyết xa vời mà ứng nghiệm vào chính cuộc đời: Hãy tìm kiếm nước Thiên
Chúa trước còn các sự khác Ngài sẽ ban cho (Mt 6,33). Tin vào Lời ấy,
người ta có thể gặp được một sự trợ giúp bất ngờ do sự quan phòng, hay một sự
hiện diện đem đến bình an.
Lời Chúa với đời sống thiêng liêng
Lời
Chúa còn làm tăng trưởng đời sống thiêng liêng. Tâm hồn người ta khi thấm nhuần
Lời Chúa người ta sẽ được nuôi dưỡng bằng Lời ban sự sống. Lời Chúa ở lại với họ
thì họ sẽ nhận được sự ban phát dồi dào để mỗi ngày sẽ được thêm khôn ngoan,
thánh thiện, mỗi ngày được triển nở trong đời sống thiêng liêng.
Lời Chúa chữa lành
Giáo
dân cần những dấu chỉ để họ có thể đặt niềm tin vào Lời Chúa. Trong những nhóm
cầu nguyện, các thừa sai DCCT cũng đã giúp cho anh chị em thấy được dấu chứng của
việc Chúa làm khi loan truyền rằng: Lời Chúa có thể chữa lành bệnh tật tâm hồn
và cả thể xác nữa. Khi nghe Lời Chúa, khi đọc Lời Chúa, họ nhận được những ơn
huệ. Những điều này sẽ củng cố đức tin, gia tăng niềm cậy trông và yêu mến Lời
Chúa nhiều hơn.
Việc
cổ võ và loan truyền Lời Chúa có thể sẽ không tác động nhiều đến giáo dân vì
người kêu gọi không thực sự tin tưởng vào điều mình thực hiện hay không chắc chắn
Lời Chúa có thể đem lại được gì cho dân Chúa. Có một linh mục đã dùng tiền mừng
ngân khánh Linh mục để mua sách Tân Ước tặng cho toàn dân trong giáo xứ của
ngài nhưng đã đau lòng khi thấy sách mình gửi tặng đã không được rờ chạm đến mà
còn mới nguyên được bọc kỹ sau nhiều năm!
Các Ðức Giám mục Việt Nam đã nói trong Thư Mục vụ
2005:
Nhìn
chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Kinh Thánh. Có
thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc
đọc và suy niệm Lời Chúa. Kinh Thánh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh
hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình.
Người
loan truyền Lời Chúa không chỉ là người cổ võ hay khuyến khích mà phải là người
có kinh nghiệm sống Lời Chúa, xác tín vào quyền năng, uy lực của Lời Chúa, mạnh
mẽ tin vào hành động của Lời Chúa và khẳng định vững chắc cho những ai tin vào
Lời Chúa sẽ được sự an toàn tuyệt đối.
Uy quyền Lời Chúa: Giải thoát khỏi ma quỷ
Vì
thế, có xác tín về Lời quyền năng của Thiên Chúa mới thấy được uy lực thật sự của
Lời Chúa, uy quyền đánh bại các quyền lực tối tăm, sức mạnh tà thần sẽ bị đè bẹp.
Lời Chúa xua trừ được ma quỷ. Khi ta tin thật Chúa hành động qua Lời của Ngài
và ta bảo đảm cho dân Chúa biết Lời Chúa đem đến cho họ sự giải thoát, là quyền
lực dũng mãnh đánh bại tà thần ta có thể giúp cho dân đặt niềm tin tưởng vào Lời
Chúa họ sẽ vui sướng và mau chóng tiếp nhận Lời và hăng hái loan báo Lời Chúa.
Lời Chúa – Lời ban sự sống
Tuy
nhiên, nếu chỉ vì lợi mà đón nhận Lời thì việc đến với Lời Chúa còn được coi
như phương tiện hữu dụng chứ chưa ở một tầm mức cao trọng lắm. Dân Chúa cần yêu
mến và say mến Lời Chúa vì họ phải nội tâm hoá Lời Chúa, để Lời Chúa không chỉ
là phương thế mà là Thần Khí và là sự sống để họ sống nhờ Lời Chúa, sống gắn bó
Lời Chúa như là điều cần thiết không thể tách rời. Chúng con sẽ đến với ai vì
Thầy mới có lời ban sự sống đời đời (x. Ga 6,68). Lời là chính Chúa. Lời
là sự hiện thân của Đức Kitô.
8. Lời kết
Có một câu hỏi: Tại sao DCCT lại tha thiết với việc
loan báo Lời Chúa?
Đối
với anh em DCCT thì Lời Chúa được trình bày ngay trong số 1 của Hiến pháp DCCT,
nói về sứ mạng của Dòng. Điều này cũng đã được nói đến trong bản Hiến pháp đầu
tiên của Dòng: Người đã sai tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó (Lc
4,18)
Lời
Chúa còn được ghi khắc nhiều nơi trên tường nhà, trên cửa ra vào. Tại nhà Sài
Gòn, chúng ta còn thấy câu này: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh
em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,27).
Tại
nhà Đệ tử Vũng Tàu, từ ngoài đường, chúng ta nhìn ngay rõ một hàng chữ rất lớn
trên Nhà Khánh tiết: “Duc in altum – Hãy ra khơi thả lưới.” Điều
này lưu dấu ấn sâu đậm và lâu dài nơi anh em trong Dòng, để rồi, qua năm tháng
dài vẫn nhớ được câu Lời Chúa khi Chúa nói với Phêrô: “Chèo ra chỗ nước sâu mà
thả lưới bắt cá” (Lc 5,4).
Lời
Chúa còn đậm dấu trong khẩu hiệu của Dòng để bất cứ ai khi nhìn thấy đều nghĩ
ngay đến DCCT: “Ơn Cứu Chuộc chứa chan nơi Chúa – Copiosa apud eum redemptio
(Tv 129,7).
Tác
phẩm của thánh Anphongsô, được in lại nhiều lần nhất là sách Viếng Thánh Thể
mà các tu sĩ DCCT thường xuyên sử dụng cho việc viếng Chúa, đều có các trích dẫn
Lời Chúa. Điều này cũng giúp hiểu được tinh thần gắn bó và hăng hái loan truyền
Lời Chúa của anh em DCCT tại Việt Nam.
Như
vậy, DCCT được thấm nhuần Lời Chúa trong tinh thần của thánh Anphongsô, Đấng
Sáng Lập, trong suy tư, trong kinh nguyện và trong cuộc sống thường ngày.
Cùng
lúc ấy, tinh thần Công đồng Vatican II thổi bùng lên sức sống cho niềm say mê Lời
Chúa và bản dịch đem đến cho đông đảo giáo dân vừa kịp lúc như tiếp thêm sinh lực
cho nguồn sống đã khơi mào.
Một
con người là cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn được gửi đến đúng lúc cho DCCT thắp lên
ngọn đuốc nhiệt thành loan truyền Lời Chúa đã truyền cảm hứng cho rất nhiều tâm
hồn. Ngọn lửa ấy cứ tiếp tục lan rộng và bùng lên thành đám cháy lớn.
Hoàn
cảnh của xã hội Việt Nam vào một thời điểm nhiều xáo trộn lại là cơ hội cho
giáo dân hưởng được hoa trái bình an, hoan lạc, hy vọng và khám phá ra nhiều
chiều kích vô cùng kỳ diệu và hiệu quả của Lời Chúa.
Lời
Chúa còn lan toả và toả chiếu ánh sáng rạng ngời của lòng tin cách lạ lùng
trong công cuộc truyền giáo. Vào
năm 1988, người ta ghi nhận có một hiện tượng bất ngờ: một con số đông các dân
tộc thiểu số rải rác trên các vùng đồi núi của đất nước, đã hàng loạt trở lại
đạo Công giáo: người Mường, người H’mong... tại miền Bắc; người Bana, Sêđang,
Giarai... tại giáo phận Kontum; người K’Ho, người Churu trong giáo phận Ðà Lạt.
Bí mật của hiện tượng này, chính là sức thu hút phi thường của Lời Chúa.
Lời Chúa mở ra một con đường hy vọng cho các dân tộc thiểu số đang ở giữa những
dân tộc nghèo nhất của đất nước.
Cha
Giuse Trần sĩ Tín, một nhà truyền giáo lão thành, sẽ trình bày cho quý vị về việc
loan truyền Lời Chúa cho anh chị em người sắc tộc J’rai.
Công đồng Vatican II mở rộng kho tàng Lời Chúa cho mọi
sinh hoạt của Hội Thánh, cũng như cho mọi thành phần Dân Chúa trong Hội Thánh.
Với tựa đề “Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội”, ở số 21 của Dei verbum,
các Nghị phụ đã viết như sau: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân
thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự
sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho
các tín hữu. […] Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có
thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội,
là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho
con cái Giáo Hội.”
Chúng ta sẽ mãi mãi hiệp thông với mọi thành phần Dân Thiên Chúa
thuộc mọi thời đại trên toàn thế giới, để “thành kính lắng nghe Lời Thiên Chúa và
có thể tin tưởng công bố Lời của Ngài” (x. Dei verbum, số
1).
Xin cám ơn quý anh chị em đã lắng nghe.

CÁC NGUYÊN TẮC DỊCH
THUẬT
CỦA LINH MỤC NGUYỄN THẾ THUẤN
TRONG VIỆC PHIÊN DỊCH KINH THÁNH
SANG TIẾNG VIỆT:
MỘT TIẾP CẬN CHÚ GIẢI VÀ NGÔN NGỮ HỌC
LM. Giuse Nguyễn
Thể Hiện, C.Ss.R.
Tóm
tắt
Bài
trình bày này phân tích các nguyên tắc dịch thuật then chốt của linh mục Giuse
Nguyễn Thế Thuấn C.Ss.R., người Việt Nam đầu tiên đã thực hiện bản dịch toàn bộ
Kinh Thánh từ nguyên ngữ Hipri và Hy Lạp sang tiếng Việt. Dựa trên bài viết của
Ngài: “Ít lời thanh minh cùng độc giả quyển Tân Ước” trong dịp xuất bản lần đầu
bản dịch Tân Ước (1965),[10]
chúng tôi tái hiện và đánh giá các lựa chọn dịch thuật của ngài dưới ánh sáng
của phương pháp chú giải hiện đại, đồng thời suy tư về những đóng góp học thuật
của bản dịch Kinh Thánh trọn bộ này trong bối cảnh Việt Nam.
1. Dẫn
nhập
Việc chuyển ngữ Kinh Thánh sang tiếng Việt là một nỗ
lực thần học - ngôn ngữ phức tạp, đòi hỏi sự chính xác nguyên ngữ và chiều sâu
chú giải. Trong lịch sử Công giáo Việt Nam, linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn
(1922–1975), tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, nổi bật như một trong những dịch giả đầu
tiên thực hiện bản dịch Kinh Thánh hoàn toàn từ tiếng Hipri và tiếng Hy Lạp.
Không chỉ là một nhà dịch thuật, ngài còn là nhà chú giải nghiêm túc, chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ Thông điệp Divino Afflante Spiritu của Đức Piô XII (1943),
khởi đầu cho kỷ nguyên nghiên cứu Kinh Thánh hiện đại trong Giáo Hội.
Bài trình bày này khảo sát ngắn gọn các nguyên tắc
dịch thuật mà cha Nguyễn Thế Thuấn đã trình bày trong dịp xuất bản lần đầu bộ Tân
Ước của ngài (1965), nhằm xác định hướng tiếp cận, phương pháp ngôn ngữ, và lập
trường thần học của bản dịch.
2. Ưu
tiên tuyệt đối cho nguyên văn Hipri và Hy Lạp
Ngay từ đầu, cha Nguyễn Thế Thuấn xác lập một quan
điểm nền tảng:
Điều
dịch giả muốn là lấy chính bản Hy Lạp [và Hipri] mà dịch. Bản đó là bản duy
nhất thực sự là lời Kinh Thánh có thần hứng.
Lập trường này cho thấy sự đoạn tuyệt với truyền thống
dịch trung gian (qua bản Latin Vulgata hay tiếng Pháp), và đặt bản gốc
Hipri và Hy Lạp trong vị trí độc tôn về nguồn mạch mặc khải. Điều này phản ánh
tinh thần của Divino Afflante Spiritu, khi Đức Piô XII khuyến khích trở
lại với nguyên ngữ (Hipri, Aram, Hy Lạp).
Cha Nguyễn Thế Thuấn viết:
Dịch
giả hằng cố đi sát với văn bản xét là cựu trào của nguyên văn, hay được các nhà
bình luận coi là chính gốc. Công việc dựa trên những kết quả của môn bình luận
văn bản hiện đại.
3. Trung
thành với “tự nghĩa” và cấu trúc bản văn
Một trong những điểm cốt lõi là cha Nguyễn Thế Thuấn
không chỉ tìm ý, mà còn cố gắng khôi phục tự nghĩa của bản văn –
tức là nghĩa văn phạm, cú pháp, và mạch lạc trong văn hoá gốc. Ngài xác định:
Trong
khi thi hành công việc đó, nhà chú giải phải luôn luôn có trước mặt cái lớn lao
nhất giữa vạn sự phải lưu tâm, tức là nhận ra, vạch ra ý nghĩa của lời Kinh
Thánh mà người ta gọi là tự nghĩa.
[…]
Chiếu
theo nguyên tắc Hội Thánh đã ra, dịch giả chỉ nhằm mục đích là làm sao có một
bản dịch xác đáng, trung thành được chừng nào hay chừng ấy.
Ngài xác định rõ ràng:
Muốn
thế thì phải biết từ ngữ, mẹo luật, công thức, xã hội, văn hoá của thời xưa…
Rồi phải để ý đến những tiếng tác giả dùng một cách cố ý. Trong khi ấy, thì cho
dẫu muốn đổi tiếng khác cho dễ nghe cũng đành phải ép bụng mà lặp lại.
Cha Nguyễn Thế Thuấn cho rằng mỗi bản văn Thánh Kinh
không chỉ mang nội dung tư tưởng mà còn là một thực thể văn học. Ngài viết:
Ngoài
ý tưởng, một đoạn văn còn lắm điều khác để làm cho nó nên một đoạn văn có cá
tính: văn có thể dùng tiếng sang trọng hay tiếng bình dân; câu văn có lúc điêu
luyện có lúc xoàng xĩnh; khi cắt gọn, khi dài hơi; khi xuôi chảy, lúc theo nhịp
phách; có những kiểu người này dùng mà người khác không bao giờ dùng đến. Một
bản dịch khả quan nếu chỉ doãn lại đúng ý mà lại bỏ ngoài các yếu tố kia, ắt
phải nói là phóng tác, không thực là dịch nguyên văn. Lý tưởng – và cũng là
điều khó mà đạt đến được – là bản dịch phải làm sao gợi lên cho độc giả hiện
tại cái cảm tưởng mà độc giả tiên khởi đã có khi đọc nguyên văn. Họ phải cảm
thấy đâu là thường, đâu là sang, đâu là bình dân, đâu là học thức.
Do đó, ngài cố gắng giữ lại các yếu tố văn học đặc
trưng, kể cả những yếu tố “không hay” của nguyên văn:
Kiểu
nói có tiết điệu, cú pháp của tác giả, một bản dịch cũng phải cố gắng làm cho
lộ ra một phần nào như có thể nhận thấy trong nguyên văn. Vì thế, trong Lc,
dịch giả cũng cứ để nhiều nơi: “Và xảy ra là khi ấy…” Các tiếng ‘và xảy ra là’
chẳng thêm ý nghĩa gì, đã hẳn thế, nhưng dịch giả thiết nghĩ cũng nên duy trì
một phần nào, vì đó là dụng tâm của một tác giả đã cố ý bắt chước kiểu nói của Kinh
Thánh Cựu Ước trong bản dịch Hy Lạp gọi là Bản Bảy Mươi. Câu văn như thế, độc
giả tiên khởi Hy Lạp cũng đã lấy làm kỳ rồi, chứ không phải chúng ta mới cảm
thấy thế. Nhưng kiểu nói Kinh Thánh như vậy, dịch giả tưởng không có quyền loại
hẳn đi, nếu chỉ vì muốn có một bản tiếng Việt hoàn bị. Đó là một lập trường có
thể công kích, nhưng dù sao thì lập trường đó cũng dựa trên điều này là Thiên
Chúa mặc khải trong một lịch sử nhất định, ngang qua những người cụ thể một
thời, một văn hoá.
Chính những nỗ lực trung thành với “tự nghĩa” và cấu
trúc bản văn như vậy đã làm nên nét độc đáo, vẻ đẹp sâu sắc và giá trị khoa học
của bản dịch. Cha Nguyễn Thế Thuấn đã cố gắng hết sức để không chỉ chuyển tải
những “thông tin nội dung sự kiện” mà còn cố gắng truyền đạt những “thông tin
nội dung quan niệm” và những “thông tin tình thái” được chứa đựng trong nguyên
văn.
4. Tránh
các lối dịch không đúng
Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng nêu rõ ràng những phương
pháp dịch mà ngài phản đối.
4.1. Phóng dịch và dịch thích nghi
Ngài không ngần ngại bác bỏ mọi hình thức làm mềm bản
văn để “dễ hiểu” hoặc “đạo đức hoá”. Ngài viết:
Dịch
giả không muốn làm một bản dịch thích nghi cho độc giả ngày nay, cũng không
phải là phóng dịch để hội ra ý nghĩa đạo đức thần học.
Theo ngài, bản văn Kinh Thánh cần được tiếp cận bằng
trí tuệ và sự khiêm tốn, không phải bằng tâm lý tiện dụng hoặc nhu cầu mục vụ
ngắn hạn:
Nhiều
khi người ta theo nguyên tắc: giữ lấy ý đừng nghĩ đến chữ. Nguyên tắc đó là
nguyên tắc phóng tác chứ không còn là dịch văn nữa.
4.2. Dịch theo một hệ thống thần học hậu
kỳ
Dịch
giả thâm tín rằng: các sách Tân Ước chưa thành một hệ thống thần học; chưa có
một thuật ngữ thần học; tư tưởng đầy nhựa sống…
Từ chối cách đọc hậu kỳ, cha Nguyễn Thế Thuấn muốn giữ
cho bản văn trạng thái nguyên thuỷ: đầy những lớp nghĩa mở, chưa khép kín theo
một hệ thống thần học. Đây là quan điểm đồng thuận với các nhà chú giải hiện
đại.
Điều này đòi hỏi, trước hết, phải:
[…]
hiểu văn bản như những người đã soạn ra và độc giả tiên khởi đã hiểu. Nghĩa là
không được hiểu như người đời sau đã hiểu sau bao nhiêu phát triển về thần học,
đạo lý, cũng như đời sống thiêng liêng đạo đức.
4.3. Lược dịch và bỏ qua dị bản
Cha Nguyễn Thế Thuấn phản đối việc giản lược hay thay
đổi câu cú để cho văn mượt mà. Ngài viết:
Dịch
một đoạn văn bình dân, tiếng Hy Lạp có vẻ cục mịch tầm thường, thành một trang
tiếng Việt văn vẻ trau chuốt, ắt phải coi là không trung thành.
[…]
Nhịp
điệu không thay đổi ý tưởng. Nhiều khi có thể bỏ một phần câu đi, mà chẳng
thiệt hại gì về ý tưởng. Nhưng như thế gọi là tóm tắt chứ không còn là bản
dịch.
Cha Nguyễn Thế Thuấn cẩn thận ghi chú các dị bản: “có
bản thêm”, “có bản đổi”… Rồi, những chữ cần thêm vào nhưng không có trong
nguyên văn, ngài cẩn thận để trong dấu ngoặc. Đó là những dấu hiệu của tính
minh bạch học thuật.
5. Làm
việc nghiêm túc, khổ công và khiêm tốn
Cha Nguyễn Thế Thuấn bộc bạch:
Nói
tóm lại, dịch giả đã đặt tâm đến mọi chữ viết ra, để sao uốn giọng lựa lời để
đừng phản phúc với nguyên văn. Sự sơ suất vẫn còn nhiều. Dịch giả không dám nói
mình đã thực hiện tất cả nguyên tắc mình đã ra cho mình, huống hồ lại trông
mong bản dịch của mình sẽ làm hài lòng mọi hạng người. Chỉ xin thú thật rằng,
có những đoạn dịch giả đã dịch đi dịch lại không biết mấy lần mà lần nào cũng
chưa lấy làm thỏa mãn: xuôi thì mất ý, được ý thì kỳ dị. Nhưng nhiều khi dịch
giả đành chịu nhận là kỳ dị còn hơn là phản ý nghĩa. Dù sao, xin độc giả hiểu
cho rằng dịch giả đã cân nhắc từng chữ.
Những trang bản thảo viết tay còn lưu giữ cho thấy
cách làm việc hết sức nghiêm túc, cẩn trọng và khoa học của ngài.










Bản thảo viết tay của cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn
6. Tác
động học thuật và mục vụ của bản dịch
Công trình của linh mục Nguyễn Thế Thuấn đánh dấu một
bước ngoặc: lần đầu tiên, người Công giáo Việt Nam có một bản Kinh Thánh từ
nguyên ngữ với lối dịch sát văn, thấm đẫm chú giải, tôn trọng truyền thống mà
vẫn khai phóng tư duy.
Ngôn ngữ ngài dùng không bóng bẩy, nhưng sắc bén và
chính xác. Cách dịch đôi khi có vẻ khô, nhưng lại chất chứa chiều sâu thiêng
liêng của một người “để cho bản văn tự lên tiếng”. Đây là mẫu mực không chỉ cho
dịch Kinh Thánh, mà còn cho mọi công trình chuyển ngữ văn bản cổ.
7. Kết
luận
Bản dịch Kinh Thánh của cha Nguyễn Thế Thuấn không chỉ là sản phẩm ngôn ngữ, mà là kết quả của một đời chiêm niệm, học vấn và lòng trung thành với Kinh Thánh. Trong thời đại ngày nay – khi dịch thuật Kinh Thánh vẫn còn là thách thức lớn – những nguyên tắc ngài đặt ra tiếp tục gợi hứng cho thế hệ dịch giả trẻ. Chúng ta cần đọc lại lời “thanh minh” của ngài không như một lời biện hộ, mà như một bản tuyên ngôn dịch thuật: can đảm, khoa học, và đầy lòng kính sợ trước Lời Chúa.

Đề tài 4:
LỜI CHÚA VÀO ĐỜI JRAI:
PHIÊN DỊCH THÁNH KINH RA TIẾNG JRAI
LM. Giuse Trần Sĩ
Tín, C.Ss.R.
1. Nhóm
Plei Kly, gồm cha Antôn Vương Đình Tài (+ 2005), Tu sĩ Phêrô Lêônarđô Hồ Văn Quân (+ 2017), hai Phó Tế Giuse Trần Sĩ
Tín và Phêrô Nguyễn Đức Mầu (+ 2022), từ năm 1969, đến cùng sống, cùng làm, cùng ăn
với người Jrai, làm Jrai với Jrai, làm dân với dân. Được sống “thời Nazareth”
của Chúa Yêsu Cứu Thế. Đến tháng 03 năm 1971, anh em được chia sẻ kiếp ruồi
muỗi của dân đen trong cảnh “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”. Không bị chết
vì bom đạn như một số người dân và binh sĩ hai bê, tu sĩ Marcô Đàn, tân linh
mục Phêrô Nguyễn Đức Mầu, Phó tế Giuse Trần Sĩ Tín bị bắt
đi “cải tạo”. Thầy Marcô Đàn vì tuổi già sức yếu đã để xác lại nơi trại “cải
tạo”. Cha Phêrô Nguyễn Đức Mầu, Phó tế Giuse Trần Sĩ Tín thân tàn ma dại được
đưa về lại Plei Kly, nhà tan cửa nát, nên anh em di tản sang phía Cheoreo-Phú Bổn.
Và tại đây:
2. Tại đây, chúng tôi, lúc này có cha GB. Nguyễn Văn Phán (+ 2020) tăng cường, đã cùng với bà con Jrai Cheoreo, Pleikly, Pleiku dịch sách Tân Ước ra tiếng Jrai. Cuốn Tân Ước này được Nhà Sách Đức Mẹ xuất bản năm 1973. Cuốn sách được Đức cha P. Seitz cho phép in tại Nhà Sách Đức Mẹ, 38 Kỳ Đồng - Sài Gòn - ngày 19/3/1973. Trong lời cuối, chúng tôi có viết
bằng tiếng Jrai:
Hết lòng tin tưởng Lời
Chúa có quyền năng tác tạo và cứu độ chúng ta, vì thế chúng tôi đã cả gan dám dịch
cuốn sách Tân Ước này sang tiếng Jrai, để người Jrai có thể nghe được chính tiếng
Cha của mình, tiếng của Đấng đã yêu thương chúng ta từ trước khi tạo thành trời
đất (x. Ep 1,4-5), Đấng ở rất gần mỗi người chúng ta (x. Cv 17,28),
đã nhiều kiểu, nhiều cách, Người đã nói với cha ông chúng ta, nhưng vào thời cùng,
nghĩa là ngay bây giờ, Người nói với chúng ta qua chính Con của Người (x. Hr
1,1-2).
Việc dịch sách Tân Ước
này, chúng tôi tiếp nối và chỉnh sủa những gì cha Jacques Dournes đã khởi sự từ
năm 1960. Khi dịch, chúng tôi cũng sử dụng Thánh Kinh Tân Ước của cha Nguyễn
Thế Thuấn (Nhà Sách Đức Mẹ, 1969), La Sainte Bible de l’Ecole Biblique de
Jerusalem (Ed. Du Cerf, 1961), Holy Bible (Revised Standard Version,
American Bible Society 1952), Novum Testamentum Graece et Latine (D. Dr.
Erwin Nestle et Kurt Aland D. D., Stuttgart Privilegierte Wurttenbergische
Biblelanstalt, 1957).
Chúng tôi cố gắng dịch
sao cho đúng với Sách Thánh, và cũng sao cho phù hợp với tiếng Jrai nữa. Nhưng
chúng tôi cũng biết rằng lực bất tòng tâm. Chúng tôi không phải là những người
chuyên môn về Kinh Thánh. Chúng tôi chỉ làm việc theo khả năng nhỏ bé của chúng
tôi thôi. Cho nên nhất định sẽ có nhiều điều chúng tôi suy chưa thấu, hiểu chưa
tường. Chúng tôi xin tất cả những anh chị em cô dì chú bác, ai đọc sách này, thông
báo cho chúng tôi những sai sót đó. Chúng tôi hết lòng cám ơn. Chúng tôi mong rằng
trong mươi, mười lăm năm nữa sẽ có người dịch lại hay chỉnh sủa bản dịch này.
Xin Thiên Chúa Cha, nhân
danh Chúa Yêsu Kitô, thương cho dùng tạm cuốn sách này để nói với con cái Jrai
ta, và sai Thần Khí của Người cho ta được hiểu biết, lắng nghe, tin và vâng
theo Lời của Người.




Nói
mươi mười lăm năm sau xin dịch lại, mà từ 1973 đến mãi năm 2008 mới thực sự bắt
đầu một bản dịch khác. Bản dịch 1973 tuy bất toàn, nhưng từ những năm 1985, người
Jrai đã dùng bản dịch đó trong lòng tin để cầu nguyện, học hỏi theo Lời Chúa và
họ đã đón nhận được muôn vàn ân huệ của Chúa (1973).
Năm 1975, tưởng rằng cuốn Tân Ước này
không sinh ích gì cho dân Jrai, khi chúng tôi không được đi ra khỏi nơi cư trú, không được nói chuyện Đạo
ngoài Nhà Thờ, vì truyền Đạo ngoài Nhà Thờ là bất hợp pháp. Nhưng vào những năm
1985, Năm Thánh Đức Mẹ chuẩn bị cho Năm Đại Thánh 2000, và năm 1988, năm phong
thánh các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, các dân tộc khắp đất nước Việt Nam đều đi
tìm Chúa. Từ những năm đó dân Jrai chỉ sống đức tin bằng cách cầu nguyện theo
Lời Chúa qua cuốn Tân Ước của năm 1973, vì lúc đó chúng tôi không có tài liệu
nào khác. Tuy “không phải là đã thành toàn” (x. Pl 3,12), những ai tới
với cộng đồng Công giáo Jrai cũng công nhận đó là một cộng đồng đức tin và văn
hoá, một cộng đồng cầu nguyện và yêu mến Lời Chúa. Theo thống kê của
Giáo phận Kontum (2020), trong huyện Chư Sê, nơi chỉ có tôi là linh mục duy
nhất phục vụ cho đến năm 2005, cùng với các thừa sai giáo dân Jrai, có 19.138
người Công giáo Jrai, chưa kể người Công giáo Jrai từ các vùng Bon Treng, Ea
Hleo, Dlai Yang (Thuận Mẫn), Plei Sôp... là những làng hiện nay trực thuộc Giáo
phận Ban Mê Thuột. Trong khi toàn Giáo Phận Kontum, người Jrai có 89.458
người Công giáo; riêng trong tỉnh Gialai, có 69.636 người Công giáo Jrai (họ chỉ
có khoảng 1.000 người trước khi các nhà thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế đến vào năm
1969, và trước khi phong thánh cho các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam vào tháng
06/1988).
3. Không bản dịch nào là hoàn hảo. Không những đối với chúng tôi là những kẻ không chuyên. Mà còn kể cả đối với những bản dịch Bible Jérusalem, Traduction Oecuménique de la Bible, Louis Segond, New America Standard Bible, King James, Nova Vulgata... mà chúng tôi tham khảo cùng với bản dịch của cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, của Nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ, và bản dịch mới nhất của Tin Lành Jrai. Việc cập nhật là thường xuyên. Trong cuốn Tân Ước năm 1973, chúng tôi đã viết: “Biết được những hạn chế về hiểu biết Thánh Kinh, về ngôn ngữ bản địa, chúng tôi ao ước mươi mười lăm năm sau sẽ có người dịch lại”, thế mà mãi tới năm 2008, 35 năm sau chúng tôi mới có thể làm công việc duyệt lại cuốn Tân Ước này. Khi chúng tôi khởi sự duyệt lại cuốn Tân Ước Jrai, nhóm phiên dịch của chúng tôi gồm có:
- Pêtrô Siu Bloach (Wa H’Bem) - Plei
Hrăi Dong - Chư Pưh
- Yohan Nay Bip (Ama Tôna) - Plei Jut
- Ia Dêr
- Markô
Ksor Săk (Ama Sô) - Plei
Blang - Ia
Drai
- Ama Huôr - Krông Pa
- Yoseph
Rmah Ngôk - Plei
Ia Ba - Chư
Ti
- Rčom
Nuan (Ama Her) - Plei
Athai - Ia Pa
- Antôn
Rahlan Run (Ama Rut) - Plei
Chuêt - Pleiku
- Nay
Wañ (Ơi Vina) - Bon Ama Djơng - Cheoreo
- Plik
(Ơi Bư’) - Plei
Chuêt - Pleiku
- Ama Ly
- Plei Pa - Ia Pa
- Pâolô Nay Drok (Ama Phu)
- Stêphanô Nay Ber (Ama Thanh)
- Pâolô
Brang (Ama Nơ) - Ia Ly
- Anna
Têrêsa Nguyễn Thị Diễm Ly (Th.S.)
- Thầy
Đa Minh Hoàng Xuân Anh, CVK 2008
- Thầy
Đa Minh Hà Minh Thịnh, CVK 2010
- Thầy
Phêrô Nguyễn Trung Phát, O.F.M.
- Lm. Đa
Minh Phạm Mạnh Niệm, C.Ss.R. (+)
- Lm.
Phêrô Nguyễn Đức Mầu, C.Ss.R. (+)
- Lm.
Giuse Trần Sĩ Tín, C.Ss.R.
- Vincentê
Nguyễn Văn Dương, CVK
Hiện nay, chúng tôi cũng đã dịch xong Cựu Ước.



4. Chúng tôi chọn những người Jrai tương đối nắm vững tiếng
Jrai, hiểu biết tiếng Việt, đến từ nhiều địa phương khác nhau, cách nhau hằng
trăm cây số, cung giọng, ngôn từ khác nhau. Nay nhờ Thánh Kinh, họ thống nhất
được với nhau trong ngôn từ và chữ viết. Cũng như người
Việt Nam, có những người nói: “zô” hay “yô” thay cho “vô” có nghĩa là “vào”,
nhưng trong bản văn chính thức đều luôn luôn viết là “vào”; có người nói “cái
láp xe độp”, nhưng viết chính thức ra vẫn là “cái lốp xe đạp”; có những người
nói “đeo ké kẻng”, nhưng viết chính thức vẫn là “đau cái cẳng”; có người nói
“mô, tê, răng, rứa...”, nhưng chính thức vẫn là “đâu, kia, sao, thế...”; có
người nói “trốt củi” nhưng chính thức vẫn là “đầu gối”; có người nói “lồi lăm
cơm lếp lát”, nhưng viết ra chính thức vẫn là “nồi năm cơm nếp nát”.... người
Jrai cũng có những cung giọng, ngôn từ và chữ viết khác nhau như thế theo từng
địa phương.
5. Một trong những công việc truyền thống của người thừa sai
trong một dân tộc khác không những là học nói và hiểu nhuần nhuyễn ngôn ngữ của
họ, mà còn là tạo ra chữ viết, thống nhất chữ viết, đi đến thống nhất, bảo tồn
và phát huy ngôn ngữ bản địa. Gương của cha Alexandre
de Rhodes, cha Cadière, cha Jacques Dournes vẫn còn đó. Không có một lý do nào
miễn cho người thừa sai nhiệm vụ đó. Ơn Cứu Độ bao gồm toàn diện con người,
trong đó có chữ viết, ngôn ngữ và văn hoá bản địa. Nhìn về các vị thừa sai tiền
bối, chúng ta thấy chúng ta thiếu sót và xấu hổ biết chừng nào, vì món nợ ngôn
ngữ còn mắc với dân Jrai. Và bây giờ chúng ta, những kẻ rao giảng Lời Chúa,
chúng ta còn mắc nợ với Lời Chúa. Vì Lời Chúa không dành riêng cho một dân tộc
nào, một ngôn ngữ nào. Chúa muốn nói với dân Jrai, bằng ngôn ngữ Jrai, bằng chữ
viết Jrai, một ngôn ngữ và chữ viết thống nhất, chung cho mọi người Jrai: Jrai
Chor (vùng Cheoreo Phú Bổn), Jrai Hruai, Jrai Mơthur (Vùng Krông Pa), Jrai
Trung (Vùng Ia Hleo), Jrai Chơbuan (Vùng Đức Cơ), Jrai Hơdrung (Vùng Plei Ku),
Jrai Arap (Kontum). Khi Đạo tới Tây Nguyên Kontum năm 1848, thì năm 1853 đã có
những tài liệu viết bằng tiếng Bahnar và Jrai. Trải qua bao thời kỳ, các vị
thừa sai ở địa phương nào viết theo địa phương ấy. Nay, 2008, khi chúng tôi
phiên dịch Thánh Kinh sang tiếng Jrai, là thời cơ để thống nhất chữ viết và
thống nhất ngôn ngữ Jrai.
6. Trước tiên chúng tôi có hai buổi họp mặt với các mục sư
Tin Lành Jrai. Hai bên cùng thảo luận và nhất trí cách viết tiếng Jrai. Chỉ có Công
giáo và Tin Lành sử dụng thường xuyên ngôn ngữ và chữ viết Jrai. Tín hữu Công
giáo và Tin Lành mà thống nhất được chữ viết Jrai tức là đã có nhiều người viết
giống nhau, và nhiều người khác sẽ theo. Thoả thuận theo đa số. Vì vậy trước
kia có những người viết: RWĂ (đau), KWAL (vùng)... nay theo đa số mà viết RUĂ,
KUAL... Và sự thống nhất cũng mới ở cấp độ chữ viết, chứ chưa thống nhất được
một số từ. Mỗi từ cần ở trong môi trường văn hoá của nó để Lời Chúa có thể hội
nhập và thấm sâu vào tim gan máu thịt Jrai, thể hiện câu: “Lời đã thành xác
phàm và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Và hệ quả là người được sai đi để
chuyển Lời Chúa đến với dân Jrai cũng được kêu gọi đi theo con đường của Ngôi
Lời mà ở với dân Jrai, sống kiếp sống Jrai, trong văn hoá Jrai, trở thành Jrai
với Jrai. Không như thế thì rất khó chuyển dịch Lời Kinh Thánh vào lời Jrai.
7. Trong bản dịch Tân Ước Jrai cuối cùng, bắt đầu từ năm
2008, xuất bản năm 2012, chúng tôi được tham khảo cha Giuse Trần Ngọc Thao C.Ss.R.,
cha Giuse Nguyễn Thể Hiện, C.Ss.R. Và chúng tôi được khuyến cáo là không dịch
từ một bản dịch, và phải tham khảo bản gốc tiếng Hipri và Hy Lạp. Và chúng tôi được chỉ cho biết dùng
Bible Works. Bởi đó chúng tôi thấy có những từ trong Kinh Thánh khác với những
từ thường được dùng trong giới Công giáo Việt Nam. Một vài ví dụ như:
- từ
Hipri ) רוּחַruach), Hy Lạp πνεῦμα (pneuma); Latin spiritus; Pháp
Esprit; cha Jacques Dournes từ năm 1960 đã dịch ra tiếng Jrai là Jua
(Jua Adai, hơi thở, Thiên Khí) chứ không phải dịch như từ tiếng Việt là “Thánh
Thần”.
-
từ Hy Lạp βαπτίζω (baptizo)
[bap-tid'-zo]; Latin
baptizare; Pháp baptiser; cha Jacques Dournes từ năm 1960 đã dịch
ra tiếng Jrai là pơñŭ chứ không phải từ tiếng Việt là “rửa tội” (Bahnar đã dịch là “ñao kơl: rửa đầu!”).
- từ Hy Lạp κενόω (kenoo), tham khảo
tiếng Anh: to empty; tiếng Pháp: vider, dépouiller; tiếng Latin: exinanire;
chúng tôi dịch ra tiếng Jrai là pơsoh (xúc trút bỏ; pơsoh lui Ñu Pô:
trút bỏ chính mình), không theo bản tiếng Việt đọc hằng tuần: trút bỏ vinh
quang (x. Pl 2,7).
- Trong Kinh Lạy Cha (Mt 6,9), câu ἁγιασθήτω τὸ ὄνομά σου (hagiasthetô to onoma sou); chúng tôi theo Latin của
Vulgata: sanctificetur nomen tuum; Pháp: que ton nom soit sanctifié;
Anh: Sanctify your name; mà dịch ra tiếng Jrai: pơmơyang brơi anan Ih
Pô; chứ không dịch theo tiếng Việt thường đọc: nguyện Danh Cha cả sáng…
8. Trong
Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 174,
Đức Thánh Cha nhắc rằng: “Không chỉ có bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng Lời
Chúa. Tất cả việc Phúc Âm hoá (evangelisatio) được đặt nền tảng trên Lời được
lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm chứng. Thánh Kinh là
nguồn mạch của việc Phúc Âm hoá. Vì vậy, phải liên tục tự đào tạo lắng nghe Lời
Chúa. Hội Thánh không Phúc Âm hoá nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm Hoá.
Điều quan trọng là Lời Chúa “càng ngày càng trở nên trung tâm của mọi hoạt động
của Hội Thánh.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho thấy về tầm quan trọng của Lời
Chúa trong việc TẦM ĐẠO, TU ĐẠO, CHỨNG ĐẠO. Chính vì vậy mà cần một bản dịch Kinh
Thánh qua tiếng Jrai. Ngoài ra, như một anh em trong nhóm phiên dịch nói:
“Phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Jrai là tôn vinh tiếng Jrai vì được hội nhập
với Lời của Chúa, là hoàn thiện, là thống nhất, là bảo tồn, là phát huy ngôn
ngữ Jrai, chữ viết Jrai. Đây là một công việc đem lại lợi ích cho bản thân và
cho toàn thể dân Jrai.”
9. Lời cuối
tôi muốn nói là: Tôi đã được trực tiếp học với cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn,
không học với ai khác. Một học trò nhiều lần bị cha giáo mắng là dốt (vì trước
khi được ngài khai tâm Thánh Kinh, tôi là một người Công giáo trước công đồng
Vatican II, một người Kitô hữu không biết Thánh Kinh, mà ai không biết Thánh
Kinh là không biết Đức Kitô (thánh Hiêrônimô). Người học trò dốt mà lại phải
dịch Kinh Thánh cho cả một dân tộc. Xin cha cầu cho chúng con.
[1] Dịch giả có kê cứu Bible de Jérusalem, cũng như nhiều bản khác.
Nhưng không dịch một bản dịch. Về điều này nhà xuất bản nhiều khi sửa sai ý của
dịch giả vì chỉ dựa vào Bible de Jérusalem. Điều này độc giả thấy được
ngay khi so chiếu với bản đính chánh.
[2] Về uy tín bản Phổ thông (Vulgata), coi Enchiridion Biblicium, số
549.
[3] Thí dụ Yn 1:39 dịch giả đã cố ý lặp
lại hai lần tiếng “lưu lại”. Nhà xuất bản vì không rõ chỗ dụng ý nên đã sửa lại
khác cho dễ nghe. Hay Yn 3:16-29, tiếng “miêu duệ” dịch giả dùng suốt
chương đã bị sửa đổi vài nơi thành “dòng giống”. Đã hẳn “miêu duệ” ít dùng,
nhưng cần thiết cho lý luận của thánh Phaolô trong đoạn này.
[4] Cv 8:31, dịch giả viết “Tiện nhân làm sao hiểu nổi” đã bị sửa “Tôi làm sao
hiểu nổi” là vì không rõ dịch giả muốn giữ sắc thái câu văn điêu luyện của Luca
là một người ăn học hết sức lễ độ.
[5] Trong thư Ephêsô, dịch giả dùng tiếng “hoằng
thiên”. Nhà xuất bản sửa “trên trời”. Không ngờ đây có một tiếng sang trọng, và
ý nghĩa không hẳn là thuộc thiên đàng, vì có cả các thần hắc ám ở đó.
[6] Nên chú ý Mt 26:64 và những tuyên ngôn
của Chúa Yêsu trước các toà án. Dịch giả đã để mập mờ (coi bản đính chính). Nhà
xuất bản sửa “đúng thế”. Một điều không nhắm, vì lời giữ điệu thận trọng hơn.
[7] Dĩ nhiên khi dùng những bài Phúc Âm trong phụng vụ thì khác. Công bố Tin Mừng
trong phụng vụ là rao truyền Lời hiện tại của Chúa vinh hiển nói cùng cộng đoàn
những kẻ tin, tin cách đầy đủ. Nên lời Tin Mừng nên kèm thêm tiếng đệm: Đức
(Kitô), Chúa (Yêsu)…
[8] Về điều này, Yn đã bị nhà xuất bản cắt ngắn
kiểu nói của Yn: “Ngài đáp lại thì nói rằng…” Dĩ nhiên “Ngài đáp lại” cũng đã
đủ lắm rồi. Nhưng phương pháp dịch trung thành không cho phép như thế. Vì thế
dịch giả đã nói là phải có đính chính.
[9] Một thí dụ: Mc15:45, dịch giả
đã muốn trung thành hoàn toàn với một chữ khác thường, nhưng cục mịch của
nguyên văn Marcô mà viết “thây” của Ngài nghe rất bất xứng.
Sau đó, dịch giả còn tìm kiếm và nhận ra sắc thái luật pháp
của tiếng đó vào thời bấy giờ, nên mãi khi lên khuôn mới xin đổi lại là “tử thi”.
[10] x. Nguyễn
Thế Thuấn, “Ít lời thanh minh cùng độc giả quyển Tân Ước,” Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 4/1965, 488-491.506-507.
