Hướng dẫn phụng vụ dành cho các ứng viên Phó tế & Linh mục


VÀI LƯU Ý

 

1. Chắp tay: ngón phải đặt trên ngón trái theo hình Thánh Giá. Các vị đồng tế và các thừa tác viên khi đi đứng cũng phải chắp tay, trừ khi phải mang vật gì bằng hai tay. Khi làm dấu trên mình, khi cầm bình hương… thì để tay trái trên ngực (x. Sách Lễ nghi Giám mục [LNGM], số 107-108).

2. Ngồi: để hai lòng bàn tay úp trên đầu gối (x. LNGM, số 109).

3. Cúi đầu và cúi mình:

 Cúi đầu: mỗi khi đọc kinh Ba Ngôi Thiên Chúa một trật, khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria đồng trinh và tên vị thánh được kính trong lễ hôm ấy, và đọc phụng vụ giờ kinh.

 Cúi mình hoặc cúi sâu: đối với bàn thờ nếu không có nhà tạm với Mình Thánh ở trong, với Giám mục, trước và sau khi xông hương, và mỗi khi sách phụng vụ dạy rõ, khi đọc các kinh “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy…,” và kinh “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận…,” khi đọc câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần…” trong Kinh Tin kính, câu: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa…” trong Lễ Quy Rôma. Phó tế cũng cúi mình khi xin chúc lành trước khi đi đọc bài Tin Mừng. Ngoài ra, Linh mục cũng hơi cúi mình khi đọc lời truyền phép (x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma 2002 [QCSL], số 275; LNGM, số 68).

4. Xông hương, xin tóm tắt như sau:

 Việc xông hương bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện, theo ý nghĩa trong Sách Thánh (x. Tv 140,2; Kh 8,3) (x. QCSL, số 276).

 Có thể xông hương lễ vật đặt trên bàn thờ, rồi xông hương Thánh Giá và chính bàn thờ, để nói lên rằng lễ vật và lời cầu nguyện của Hội Thánh cũng ví như hương trầm bay lên trước thánh nhan Chúa. Sau đó, Phó tế hoặc thừa tác viên nào khác có thể xông hương cho Linh mục, vì ngài đã được lãnh chức thánh, và xông hương cho cộng đoàn, vì phẩm giá do bí tích Thánh Tẩy ban tặng (x. QCSL, số 75). Khi xông hương cho chủ tế thì cộng đoàn đứng.

 Có thể tuỳ nghi dùng hương trong bất cứ hình thức Thánh Lễ nào (x. QCSL, số 276):

§  Khi đi rước ra bàn thờ;

§ Đầu lễ, xông hương Thánh Giá và bàn thờ;

§ Khi rước Sách Tin Mừng và trước khi công bố bài Tin Mừng;

§ Sau khi đặt bánh và chén trên bàn thờ, xông hương lễ vật, Thánh Giá và bàn thờ, rồi cũng xông hương Linh mục và cộng đoàn;

§  Khi nâng Bánh thánh và Chén thánh sau truyền phép

 Khi bỏ hương vào bình, chủ tế thinh lặng và làm phép bằng một dấu Thánh Giá trên bình hương (x. QCSL, số 277; LNGM, số 90).

 Chỉ có Giám mục mới ngồi khi bỏ hương (x. LNGM, số 140; QCSL, số 131-132 và 212; Edward McNamara, Khi bỏ hương vào bình hương, Linh mục ngồi hay đứng?). Khi bỏ hương vào bình, nếu Giám mục ở tại tòa hoặc ở một ghế khác thì ngài ngồi, bằng không, Ngài đứng mà bỏ hương, thầy Phó tế cầm tàu hương. Giám mục làm phép hương bằng dấu Thánh Giá và không đọc gì cả. Sau đó, Phó tế cầm lấy bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho Giám mục (x. LNGM, số 90).

 Trước và sau khi xông hương, cúi mình chào người hoặc vật được xông hương, trừ bàn thờ và lễ vật dùng cho Thánh Lễ (x. QCSL, số 277; LNGM, số 91).

 Phải quỳ khi xông hương Mình Thánh Chúa (x. LNGM, số 94).

 Tất cả những ai tiếp nhận việc xông hương đều phải đứng (x. LNGM, số 96).

 Số lần, số cú:

§  QCSL, số 277: “Tribus ductibus thuribuli incensantur: Ss.mum Sacramentum, reliquia sanctae Crucis et imagines Domini publicae venerationi expositae, oblata pro Missae sacrificio, crux altaris, Evangeliarium, cereus paschalis, sacerdos et populus. Duobus ductibus incensantur reliquiae et imagines Sanctorum publicae venerationi expositae, et quidem initio tantum celebrationis, cum incensatur altare/The following are incensed with three swings of the thurible: the Most Blessed Sacrament, a relic of the Holy Cross and images of the Lord exposed for public veneration, the offerings for the sacrifice of the Mass, the altar cross, the Book of the Gospels, the Paschal Candle, the priest, and the people. The following are incensed with two swings of the thurible: relics and images of the Saints exposed for public veneration, which should be done, however, only at the beginning of the celebration, after the incensation of the altar/Xông hương ba lần: trước Thánh Thể, gỗ Thánh Giá, các ảnh Chúa được trưng bày cho người ta cung kính, Thánh Giá của bàn thờ, sách Tin Mừng, nến Phục sinh, Linh mục và cộng đoàn. Xông hương hai lần: trước xương và ảnh các Thánh được trưng bày cho người ta tôn kính, và chỉ làm lúc đầu lễ khi xông hương bàn thờ.”

§ Mỗi “LẦN” gồm hai “CÚ” là tập tục phổ quát trong thực tế, trong đó, mỗi “LẦN” (ductus) gồm có hai “CÚ” (ictus, swings). Vì vậy, bình hương được nâng lên, lắc hai cú về vật hoặc người được xông hương, rồi hạ xuống.

§ Ví dụ, sự mô tả sau đây về “hai lần, hai cú” được tìm thấy trong sách nghi thức trước Công đồng Vatican II của Fortescue-O'Connell: “Hai lần, hai cú (“ductus duplex”) được thực hiện bằng cách nâng bình hương lên ngang mặt, sau đó lắc về phía vật hoặc người được xông hương, và lắc thêm lần nữa, sau đó hạ thấp bình hương.” Sự mô tả về HAI LẦN, HAI CÚ (double swing) dựa trên các sắc lệnh của Thánh bộ Nghi lễ năm 1862 và 1899 (các Sắc lệnh số 3110 và 4048).

§ Xông hương BA lần, mỗi lần HAI cú: trước Thánh Thể, gỗ Thánh Giá, các ảnh Chúa được trưng bày cho người ta tôn kính, lễ vật của Thánh Lễ, Thánh Giá của bàn thờ, Sách Tin Mừng, Nến Phục Sinh, chủ tế, đồng tế, và cộng đoàn, thi hài người quá cố (nếu lối đi không đủ rộng để có thể xông hương xung quanh).

§ Xông hương HAI lần, mỗi lần HAI cú: trước xương và ảnh các thánh được trưng bày cho người ta tôn kính, và chỉ làm lúc đầu lễ khi xông hương bàn thờ (x. QCSL, số 277; LNGM, số 92).

§ Xông hương BA lần, mỗi lần BA cú đối với Mình Thánh Chúa: phải có phép riêng của Toà Thánh (x. Edward McNamara, Nói thêm về các cú và lắc khi xông hương).

 Cách xông:

§ Xông thẳng (ba lần, mỗi lần hai cú): Mình Thánh, Máu Thánh, Thánh Giá, Nến Phục Sinh, chủ tế, sách có bài Exsultet (cách nhớ: một đối tượng thì xông thẳng).

§ Xông giữa – trái – phải (mỗi vị trí xông hai cú): Sách Thánh, đồng tế, lễ vật của Thánh Lễ (cách nhớ: một nhóm đối tượng thì xông giữa – trái – phải).

§ Xông từng cú một (“tạt” vào đối tượng từng cú một): bàn thờ, quan tài (nếu có thể đi xung quanh được).

 Linh mục xông hương ba lần trên lễ vật (xông giữa – trái – phải) trước khi xông Thánh Giá và bàn thờ, hoặc dùng bình hương vẽ hình Thánh Giá trên lễ vật (x. QCSL, số 277), tức là Linh mục chọn một trong hai hình thức xông chứ không phải thực hiện cả hai hình thức.

 Thứ tự xông hương trong Thánh Lễ là chủ tế trước, rồi đến đồng tế (xông hương chung cho các vị), sau cùng đến dân chúng (x. LNGM, số 96). Các Đức Giám mục và các kinh sĩ tham dự Thánh Lễ nhưng không đồng tế sẽ được xông hương cùng với dân chúng (x. LNGM, số 96). Nếu chỉ có một vị Giám mục hiện diện mà không chủ sự Thánh Lễ, ngài sẽ được xông hương sau chủ tế hoặc sau các vị đồng tế (x. LNGM, số 97).

 Vị chủ tế không nên đọc kinh nào hoặc nói lời nào cho đến khi việc xông hương đã hoàn tất (x. LNGM, số 98).

 Lưu ý: không có quy định nào nói rằng người được xông hương (tư tế/dân chúng) phải cúi xuống để đáp lại cử chỉ cúi xuống của người xông hương vì cử chỉ này (cúi chào) dành để thể hiện sự tôn kính đối với những người/đối tượng được xông hương, mà không [cần] áp dụng ngược lại cho người tiến hành xông hương.[1]

5. Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, trong Sắc lệnh về việc luôn sử dụng dấu Thánh Giá trong các phép lành ban hành ngày 14/09/2002 (AAS 94 [2002] 684), nói rằng: “Trong truyền thống phụng vụ, đã có thói quen sử dụng dấu Thánh Giá trong các nghi thức ban phép lành, việc này được thực hiện bằng tay phải của vị chủ tế vẽ trên người hoặc vật thể mà lòng thương xót được cầu xin. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, để giải quyết các nghi vấn, quyết định rằng, ngay cả khi phần văn bản trong nghi thức Rôma có tiêu đề Về các Phép lành không đề cập đến hoặc im lặng bỏ qua việc thực hiện dấu này, hoặc không nêu rõ thời điểm thích hợp để thực hiện hành động đó, thì dấu Thánh Giá trên vẫn phải được các thừa tác viên thi hành trong bất kỳ phép lành nào như một yếu tố cần thiết. Khi văn bản không đề cập, thời điểm thích hợp sẽ được hiểu là lúc phần văn bản của phép lành có các từ như phép lành, chúc lành, hoặc từ tương tự, hoặc nếu không có các từ này thì thực hiện dấu Thánh Giá khi phép lành kết thúc.” Ngoài ra, Sách Lễ nghi Giám mục số 67 chỉ rằng: khi làm dấu trên mình hoặc khi làm phép, thì Giám mục để tay trái trên ngực, trừ khi đang cầm vật gì. Vì thế, khi ban phép lành/làm phép, Linh mục/Phó tế:

 Tay trái đặt trên ngực, tay phải vẽ dấu Thánh Giá;

 Kết thúc mọi phép lành với dấu Thánh Giá trên người và vật được chúc lành, thậm chí nếu điều này không được đề cập trong nghi thức.

6. Nếu Giám mục không cử hành Thánh Lễ và để cho người khác cử hành, chính ngài nên mặc áo trắng dài, đeo Thánh Giá ngực, dây các phép và khoác áo choàng, chủ toạ phần phụng vụ Lời Chúa và ban phép lành cuối lễ (x. QCSL, số 92; LNGM, số 175-186).

7. Đồng tế 1 đứng bên PHẢI chủ tế. Đồng tế 2 đứng bên TRÁI chủ tế (x. Nghi thức phong chức, số 55).

8. Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 124: Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách lễ Rôma cho quyền các Linh mục đồng tế trong Thánh Lễ “khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola trên áo alba,” trước một lý do chính đáng, ví dụ như số các vị đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng mà, nếu người ta có thể tiên liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng nữa. Về phần còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của những sách phụng vụ.


BẢNG GHI NGÀY PHỤNG VỤ

xếp theo thư tự ưu tiên

 

I

 

1. Tam Nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc thương khó và phục sinh của Chúa.

2. Lễ Giáng Sinh, Hiển Linh, Thăng Thiên và Hiện Xuống.

Các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh.

Thánh Lễ an táng (QCSL, số 380, cấm cử hành cả sáng và chiều thứ Năm Tuần Thánh).

Thứ Tư lễ Tro.

Các ngày trong Tuần Thánh, từ thứ Hai đến hết thứ Năm.

Các ngày trong tuần bát nhật Phục Sinh.

3. Các lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.

Lễ cầu cho mọi tín hữu đã qua đời.

4. Các lễ trọng riêng, tức là:

a) Lễ trọng kính thánh bổn mạng của chính của địa phương, thành phố hoặc quốc gia,

b) Lễ trọng cung hiến thánh đường, hoặc ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường đó,

c) Lễ trọng mừng tước hiệu của nhà thờ,

d) Lễ trọng của Dòng Tu hoặc Tu Hội mừng tước hiệu, hoặc Đấng Sáng Lập Dòng, hoặc bổn mạng chính của Dòng.


II

 

Thánh Lễ có nghi thức riêng (QCSL, số 372).

Thánh Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch do lệnh của Đấng Bản Quyền địa phương (QCSL, số 374).

5. Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.

6. Các Chúa Nhật mùa Giáng Sinh và mùa Thường Niên.

7. Các lễ kính Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.

8. Các lễ kính riêng, tức là:

a) Lễ bổn mạng chính của giáo phận.

b) Lễ kỷ niệm ngày cung hiến nhà thờ chính toà.

c) Lễ kính bổn mạng chính của một miền, tỉnh, quốc gia hoặc một vùng rộng lớn.

d) Lễ kính của Dòng Tu hoặc Tu Hội, và Tỉnh Dòng mừng tước hiệu, Đấng Sáng Lập, thánh bổn mạng, trừ những điểm đã nói trong số 4.

e) Các lễ kính riêng khác của một vài nhà thờ.

f) Các lễ kính khác có ghi trong lịch của một giáo phận, một Hội Dòng hoặc Tu Hội.

Thánh Lễ cầu cho tín hữu vừa mới qua đời hoặc trong ngày giỗ đầu (QCSL, số 381).

9. Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ 17 đến hết 24 tháng Mười Hai.

Các ngày trong tuần bát nhật Giáng Sinh.

Các ngày thường trong mùa Chay.


III

 

Thánh Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch theo sự xét đoán của vị phụ trách thánh đường hoặc của chính Linh mục chủ tế (QCSL, số 376).

10. Các lễ nhớ bắt buộc có ghi trong lịch chung.

11. Các lễ nhớ bắt buộc riêng, tức là:

a) Các lễ nhớ bổn mạng phụ của địa phương, giáo phận, miền hoặc tỉnh, quốc gia, một vùng rộng lớn, của Dòng Tu hoặc Tu Hội và Tỉnh Dòng.

b) Ít nhiều lễ nhớ bắt buộc riêng của một vài nhà thờ.

c) Các lễ nhớ bắt buộc khác có ghi trong lịch giáo phận, Dòng Tu hoặc Tu Hội.

12. Các lễ nhớ không bắt buộc đã được nói tới cách đặc biệt trong Quy Chế Tổng Quát về Thánh Lễ và Các Giờ Kinh Phụng Vụ, thì có thể xảy ra vào cả những ngày đã nói ở số 9. Cũng vì lý do đó, khi những lễ nhớ bắt buộc trùng với những ngày thường trong mùa Chay, thì có thể được cử hành như lễ nhớ không bắt buộc.

13. Các ngày trong tuần, từ đầu mùa Vọng cho đến hết ngày 16 tháng Mười Hai.

Các ngày trong tuần thuộc mùa Giáng Sinh, từ ngày 02 tháng Giêng đến ngày thứ Bảy sau lễ Hiển Linh.

Các ngày trong tuần thuộc mùa Phục Sinh, từ thứ Hai sau bát nhật Phục Sinh, cho đến hết thứ Bảy trước lễ Hiện Xuống.

Thánh Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch theo lòng đạo đức của giáo dân (QCSL, số 375).

Thánh Lễ cầu cho tín hữu qua đời hằng ngày (QCSL, số 377).

Các lễ nhớ không bắt buộc (QCSL, số 377).

Các ngày trong tuần thuộc mùa Thường Niên.

 

TRƯỜNG HỢP CÁC LỄ TRÙNG NHAU

60. Nếu gặp nhiều lễ phải kính trong cùng một ngày, thì cử hành lễ nào có bậc cao hơn trong bảng ghi ngày phụng vụ. Nhưng khi một lễ trọng bị ngăn trở vì gặp một ngày phụng vụ ưu tiên, thì lễ trọng ấy được dời sang một ngày gần nhất không vướng trùng vào những ngày quy định trong bảng thứ tự ưu tiên, từ số 1 đến số 8, tuy nhiên vẫn phải giữ những điều đã quy định tại số 5 ở trên. Còn lễ Truyền Tin của Chúa, khi nào rơi vào những ngày Tuần Thánh, thì luôn được dời lại mừng vào thứ Hai sau Chúa Nhật II Phục sinh.

Những lễ khác trong năm ấy được bỏ qua luôn.

61. Còn nếu trong cùng một ngày mà phải cử hành cả kinh Chiều II của lễ đang mừng cả kinh Chiều I của lễ hôm sau, thì phải cử hành kinh Chiều có địa vị ưu tiên trong bảng ghi ngày phụng vụ; trường hợp hai lễ ngang nhau, thì đọc kinh Chiều II của lễ đang mừng.

 


CỬ HÀNH THÁNH LỄ

 

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

UỶ BAN PHỤNG TỰ

liturgy@cbc-vietnam.org


NHIỆM VỤ CỦA PHÓ TẾ

 

TRONG THÁNH LỄ

(trích Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma 2002)

 

171. Khi hiện diện trong cuộc cử hành, Phó tế mặc phẩm phục thánh và thi hành phận vụ của mình. Thầy sẽ:

 a) Giúp Linh mục và đi bên cạnh ngài;

 b) Tại bàn thờ, thầy sẽ phụ giúp trong những việc liên hệ đến chén thánh và Sách Lễ;

 c) Thầy đọc Tin Mừng và, khi được chủ tế yêu cầu, thầy có thể giảng (x. số 66);

 d) Thầy hướng dẫn cộng đoàn tín hữu bằng những lời dẫn thích hợp và xướng các ý nguyện lời nguyện chung;

 e) Thầy giúp Linh mục chủ tế trao Mình Thánh, tráng chén và thu dọn;

 f) Nếu không có thừa tác viên nào khác, thì khi cần, chính thầy sẽ thi hành các phận vụ của họ.

Nghi thức đầu lễ

172. Thầy Phó tế cầm Sách Tin Mừng, giơ cao lên một chút, đi trước Linh mục khi tiến ra bàn thờ; nếu không cầm sách, thì đi bên cạnh Linh mục.

173. Khi tới bàn thờ, nếu cầm Sách Tin Mừng, thì thầy tiến lên bàn thờ mà không cúi chào. Rồi, sau khi đặt Sách Tin Mừng lên bàn thờ, thầy cùng với Linh mục hôn kính bàn thờ.

Nếu không cầm Sách Tin Mừng, thầy cùng với Linh mục cúi mình trước bàn thờ như thường lệ, rồi cùng Linh mục lên hôn kính bàn thờ.

Cuối cùng, nếu có xông hương, thầy sẽ giúp Linh mục bỏ hương và xông hương Thánh Giá và bàn thờ.

174. Xông hương xong, thầy cùng với Linh mục tới chỗ ngồi, tại đó thầy ngồi bên cạnh và giúp ngài khi cần.

Phụng vụ Lời Chúa

175. Đang khi hát Alleluia hoặc ca khúc nào khác, nếu có xông hương, thầy Phó tế giúp Linh mục bỏ hương, rồi cúi mình trước mặt Linh mục, xin ngài chúc lành, đọc nhỏ tiếng: “Xin cha chúc lành cho con.” Linh mục chúc lành cho thầy: “Xin Chúa ngự nơi tâm hồn và môi miệng Thầy, để Thầy xứng đáng và đủ tư cách công bố Tin Mừng của Chúa.” Thầy Phó tế làm dấu Thánh Giá trên mình và thưa: “Amen.” Sau khi cúi chào bàn thờ, thầy lấy Sách Tin Mừng giơ sách lên cao một chút, tiến tới giảng đài, có người cầm bình hương đang toả khói cùng với những thừa tác viên cầm nến sáng đi trước. Tại đây, thầy chắp tay chào cộng đoàn và nói: “Chúa ở cùng anh chị em.” Rồi khi đọc: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh…,” thì lấy ngón tay cái làm dấu Thánh Giá trên sách, rồi trên trán, trên miệng và trên ngực mình. Thầy xông hương trên sách và công bố bài Tin Mừng. Đọc xong, thầy xướng: “Đó là Lời Chúa,” mọi người đáp: “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.” Đoạn thầy hôn kính Sách Tin Mừng, đọc thầm: “Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con,” và trở lại bên cạnh Linh mục.

Khi Phó tế giúp Giám mục, thầy đem sách cho Giám mục hôn kính hoặc chính thầy hôn kính đang khi đọc thầm: “Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con.” Trong những cử hành long trọng hơn, Giám mục có thể tuỳ nghi cầm Sách Tin Mừng mà chúc lành cho cộng đoàn.

Sau hết, đặt Sách Tin Mừng trên bàn phụ hoặc một nơi nào khác thích hợp và xứng đáng.

176. Nếu không có người đọc Sách Thánh xứng hợp khác, thì chính thầy Phó tế đọc các bài đọc khác.

177. Sau lời mở đầu của Linh mục, Phó tế sẽ xướng các ý nguyện của lời nguyện chung ở giảng đài như thường lệ.

Phụng vụ Thánh Thể

178. Dứt lời nguyện chung, đang khi Linh mục ở tại ghế, Phó tế dọn bàn thờ, có thừa tác viên giúp lễ phụ, nhưng chính Phó tế phải sửa soạn các bình, chén thánh. Thầy cũng giúp Linh mục tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến. Rồi thầy trao đĩa thánh có bánh lễ cho Linh mục. Thầy vừa rót rượu và chút nước vào chén thánh, vừa đọc thầm: “Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con.” Rồi trao chén thánh cho Linh mục. Có thể sửa soạn chén thánh tại bàn phụ. Nếu có xông hương, thầy giúp Linh mục xông hương lễ vật và bàn thờ, sau đó, thầy hoặc một thừa tác viên khác, sẽ xông hương Linh mục và cộng đoàn.

179. Trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể, thầy Phó tế đứng gần Linh mục, phía sau một chút, để khi cần, giúp ngài trong những gì liên quan đến chén thánh hoặc Sách Lễ.

Sau đó, thầy Phó tế quỳ gối như thường lệ từ lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần (Epiclesis) cho đến khi nâng chén thánh. Nếu có nhiều Phó tế, thì một vị có thể bỏ hương vào bình và xông hương đang khi Linh mục nâng Mình và Máu Thánh.

180. Đến vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể (Kinh Tạ Ơn), thầy Phó tế đứng cạnh Linh mục, nâng chén thánh lên, đang khi Linh mục nâng đĩa có Mình Thánh, cho đến khi cộng đoàn đã tung hô: “Amen.”

181. Sau khi Linh mục đọc kinh cầu bình an: “Lạy Chúa Giêsu Kitô…” và câu: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em,” và cộng đoàn đáp: “Và ở cùng cha,” thì thầy Phó tế tuỳ nghi mời gọi chúc bình an, thầy chắp tay, hướng về cộng đoàn và nói: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.” Chính thầy nhận lời chúc bình an của Linh mục, và có thể trao bình an cho những thừa tác viên đứng gần mình hơn cả.

182. Sau khi Linh mục rước lễ, thầy rước lễ dưới hai hình từ tay Linh mục, rồi giúp Linh mục cho cộng đoàn rước lễ. Nếu cho rước lễ dưới hai hình, chính thầy cầm chén cho rước Máu Thánh; và, sau khi cho rước lễ xong, nếu còn Máu Thánh, thì thầy đến tại bàn thờ, cung kính rước hết; nếu cần, thì các Phó tế và các Linh mục khác uống giúp.

183. Cho rước lễ xong, cùng với Linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và sắp xếp như thường lệ;[2] đang khi đó, Linh mục trở về ghế chủ toạ. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn thánh ở bàn phụ, phủ lại cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán dân chúng.

Nghi thức kết thúc

184. Khi Linh mục đã đọc lời nguyện hiệp lễ, nếu cần loan báo điều gì cho cộng đoàn, thầy Phó tế sẽ vắn tắt loan báo, trừ khi chính Linh mục muốn loan báo.

185. Nếu dùng công thức chúc lành long trọng hoặc lời nguyện trên dân chúng, thầy Phó tế nói: “Anh chị em hãy cúi mình nhận phép lành.” Sau khi Linh mục chúc lành, thầy Phó tế giải tán cộng đoàn, thầy chắp tay hướng về cộng đoàn mà nói: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.”

186. Sau đó, cùng với Linh mục, thầy hôn kính bàn thờ, và sau khi cúi mình chào bàn thờ, thầy ra về cùng một cách như lúc tiến ra bàn thờ.


CÁC BÍ TÍCH, Á BÍ TÍCH,

CÁC BUỔI CỬ HÀNH PHỤNG VỤ[3]

 

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Thánh Tẩy

1. Cử hành long trọng bí tích Thánh Tẩy cho người lớn và trẻ em, với sự đồng ý của người có trách nhiệm (x. GL 861, §.1; 530, 10).

2. Làm phép nước thánh ngoài Thánh Lễ.[4] Nước thánh này được dùng để cử hành bí tích Thánh Tẩy hoặc dùng trong đời sống tôn giáo của người Kitô hữu.

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Thêm Sức

3. Giới thiệu các ứng viên sắp lãnh nhận bí tích Thêm Sức cho Giám mục.

4. Xướng các ý nguyện trong lời nguyện chung của nghi thức Thêm Sức.

5. Cầm bình dầu giúp Giám mục khi ngài xức dầu cho các ứng viên.

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Thánh Thể

6. Giúp Giám mục và Linh mục trong cử hành Thánh Lễ (x. QCSL 127-141).

7. Chủ toạ các buổi cử hành phụng vụ Lời Chúa và cho giáo dân rước lễ (x. GL 910, §.1).

8. Đặt và ban phép lành Mình Thánh Chúa cách trọng thể cho giáo dân (x. GL 943).[5]

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và An Táng

9. Làm phép bình đựng dầu thánh.

10. Thăm viếng và cầu nguyện cho bệnh nhân.

11. Đưa Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân hay của ăn đàng cho người hấp hối (x. PC 174).

12. Chủ toạ lễ nghi an táng [trừ Thánh Lễ] (x. PC 174).

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Hôn Phối

13. Chứng hôn và chúc lành cho đôi tân hôn với sự đồng ý của người có trách nhiệm (x. PC 174; GL 1108).

14. Làm phép và chúc lành cho đôi bạn ngoài Thánh Lễ nhân dịp kỷ niệm ngày thành hôn của họ.

15. Làm phép cho các gia đình tại nhà riêng.

16. Làm phép và chúc lành cho trẻ em.

17. Chúc lành cho các bà mẹ trước và sau khi sinh con.

§ Các việc cử hành liên quan đến bí tích Truyền Chức Thánh

18. Xướng tên các ứng viên sắp chịu chức thánh (x. PC 121; 197).

19. Giúp Giám mục những khi cần thiết (x. PC 82; 135; 208).

20. Giải thích và hướng dẫn cộng đoàn trong các nghi thức bí tích (x. PC 127).

§ Các việc cử hành liên quan đến việc ca ngợi Thiên Chúa

21. Đọc Giờ Kinh Phụng Vụ theo thời khắc mỗi ngày.[6]

22. Chủ toạ các buổi cầu nguyện ngoài Thánh Lễ cho dân chúng (x. PC 174).

23. Giáo huấn và giảng dạy dân chúng trong các buổi cử hành phụng vụ như Thánh Lễ, các bí tích và việc đạo đức (x. PC 174).

§ Các việc cử hành liên quan đến các phép lành hay á bí tích.

§  Phó tế được ban một số phép lành theo luật phụng vụ quy định (x. GL 1169, §.3)

Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích ban hành ngày 14/09/2002 nói rằng theo một tập tục lâu đời trong Hội Thánh thì Linh mục và Phó tế phải kết thúc mọi phép lành với dấu Thánh Giá trên người và vật được chúc lành, thậm chí nếu điều này không được đề cập trong nghi thức (AAS 94 [2002] 684). 

24. Chúc lành cho người hoạt động mục vụ (x. PL 1810).

25. Chúc lành cho người giúp cử hành phụng vụ (x. PL 1851).

26. Chúc lành cho thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa - với sự đồng ý của cha xứ (x. PL 1873).

27. Chúc lành cho các thành viên của các hiệp hội trong giáo xứ - với sự đồng ý của cha xứ (x. PL 1917)

28. Chúc lành cho các giáo lý viên (x. PL 492).

29. Chúc lành cho các lớp giáo lý (x. PL 512).

30. Chúc lành cho các giáo sư và sinh viên (x. PL 525).

31. Chúc lành cho các hiệp hội thăng tiến công ích chung (x. PL 576).

32. Chúc lành cho những người lữ khách (x. PL 594).

33. Chúc lành cho khách du lịch (x. PL 619).

34. Chúc lành chung trong những hoàn cảnh khác nhau (x. PL 1986).

35. Làm phép nhà mới (x. PL 475).

36. Làm phép chung cư mới (x. PL 643).

37. Làm phép trường học hay đại học (x. PL 726).

38. Làm phép thư viện (x. PL 751).

39. Làm phép bệnh viện (x. PL 784).

40. Làm phép văn phòng, cửa hàng, xí nghiệp (x. PL 801).

41. Làm phép trung tâm sinh hoạt văn hóa (x. PL 819).

42. Làm phép trung tâm thể thao (x. PL 836).

43. Làm phép các đồ dùng trong phụng vụ - cử hành nghi thức ngoài Thánh Lễ (x. PL 1703/HK 1346).

44. Làm phép đàng thánh giá, nếu Phó tế phụ trách thánh đường (x. PL 1097/HK 1400).

45. Làm phép chuỗi mân côi (x. PL 1185/HK 1465).

46. Làm phép các đồ vật do lòng sùng kính riêng. Ví dụ: dây đeo, mẫu ảnh, áo Đức Bà,… (x. PL 1164/HK 1444).

47. Làm phép và xức tro (x. PL 1659).

48. Chúc lành khi đi viếng nghĩa trang (x. PL 1737).

§ Một số lưu ý

Được ban các phép lành trước tiên cho người Công Giáo, cũng được ban cho cả người dự tòng; và được ban ngay cho cả người ngoài Công Giáo, trừ khi Hội Thánh ngăn cấm cách rõ ràng.

Các đồ vật một khi đã được làm phép hoặc cung hiến phải được sử dụng cách kính cẩn, tránh dung vào việc phàm tục hoặc bất xứng.

Không ai được phép trừ tà nếu không do Đấng Bản Quyền uỷ nhiệm cách đặc biệt và rõ ràng.

 

PHÓ TẾ THỰC TẬP GIÚP LỄ

 

1. “Trong Thánh lễ, Phó tế giữ một phận vụ riêng biệt như: công bố Tin Mừng, và đôi khi, cả trong việc giảng Lời Chúa [khi được uỷ thác], xướng các ý nguyện của lời nguyện tín hữu cho cộng đoàn, phụ giúp Linh mục, chuẩn bị bàn thờ và giúp cử hành hy lễ, cho cộng đoàn rước lễ, nhất là dưới hình rượu, và thỉnh thoảng hướng dẫn các cử chỉ và điệu bộ của toàn thể cộng đoàn.”[7] Quy chế Sách lễ Rôma cũng cho phép Phó tế hướng dẫn cộng đoàn bằng những lời dẫn thích hợp.[8]

2. Phó tế được cử hành long trọng bí tích Thánh tẩy cho người lớn và trẻ em, với sự đồng ý của người có trách nhiệm; chứng hôn và chúc lành cho đôi tân hôn với sự đồng ý của người có trách nhiệm. Phó tế cũng có thể chủ sự các buổi cử hành phụng vụ, đặc biệt là các Giờ kinh Phụng vụ; các lễ nghi trong nghi thức an táng [trừ Thánh Lễ]; các buổi cử hành Lời Chúa; ban các phép lành;[9] và chủ sự giờ Chầu Thánh Thể.

3. Trong các buổi cử hành phụng vụ, Phó tế mặc áo trắng dài trắng (áo alba), trên áo này mang một dây stola chéo từ vai trái xuống đến hông bên phải và áo Phó tế (dalmatica): trong các buổi cử hành ngày thường hoặc ít long trọng thì có thể bỏ qua việc mặc áo Phó tế.[10] Khi chủ sự giờ Chầu Thánh Thể, Phó tế có thể mặc áo Phó tế hoặc áo choàng (piviale). Theo LNGM việc chọn lựa tương tự giữa áo choàng và áo Phó tế tùy thuộc hoàn toàn ở Phó tế, người trợ giúp Giám mục chủ sự các Giờ kinh Phụng vụ.[11]

4. Vị trí của các Phó tế trong đoàn rước nhập lễ được sắp xếp theo thứ tự:

- Người cầm bình hương và tàu hương [người cầm tàu hương có thể đi sau người cầm Thánh Giá];

- Người cầm Thánh giá [có tượng chịu nạn] và 2 thừa tác viên giúp lễ cầm nến cháy;[12]

- Các hội đoàn [nữ trước - nam sau, không đồng phục trước - có đồng phụ sau];

- Tu sĩ, chủng sinh [nữ trước - nam sau];

- Lễ sinh;

- Các thừa tác viên có tác vụ đọc sách;

- Các thừa tác viên có tác vụ giúp lễ;

- Phó tế cầm Sách Tin Mừng (nếu không có Phó tế thì thừa tác viên có tác vụ đọc sách hoặc một Linh mục đồng tế cầm) [quy tắc nhớ: TRƯỚC Sách Tin Mừng là các thừa tác viên KHÔNG CÓ CHỨC THÁNH, SAU Sách Tin Mừng là các thừa tác viên CÓ CHỨC THÁNH];

- Các Phó tế khác;

- Các Linh mục đồng tế;

- Chủ tế;

- Phó tế giúp lễ [nếu một Phó tế giúp lễ thì Phó tế đó đi bên phải và bên cạnh chủ tế, hơi lùi một chút so với chủ tế];

- Các thừa tác viên có/không có tác vụ viên giúp lễ cầm mũ mitra và gậy mục tử [nếu Giám mục chủ tế];

- Thừa tác viên cầm Sách lễ.

5. Trong trường hợp có nhiều Phó tế thì tốt nhất tất cả các việc phục vụ dành cho thừa tác vụ Phó tế được chia đều giữa các Phó tế hiện diện.[13]

6. Phó tế cầm Sách Tin Mừng, giơ cao lên một chút, sao cho sách vuông góc với mặt đất.[14]

7. Trong đoàn rước nhập lễ, Phó tế giúp lễ đi bên cạnh Linh mục chủ tế,[15] điều này cho phép thầy luôn sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu. Khi đoàn rước buộc phải đi theo hàng một vì không gian chật hẹp thì Phó tế hoặc các Phó tế giúp lễ nên đi phía sau chủ tế. Thật vậy, với vị trí này thật dễ dàng để vị chủ tế quay sang phía các Phó tế khi cần trợ giúp điều gì đó; trong khi đó, nếu các Phó tế đi trước thì vị chủ tế phải gọi lớn tiếng thì các Phó tế mới có thể nghe được. “Trong đoàn rước, vị Giám mục chủ tế mặc phẩm phục của buổi cử hành phụng vụ luôn đi một mình phía sau các Linh mục, nhưng phía trước những người trợ giúp ngài [các Phó tế] và những người đi theo ngài thì giữ khoảng cách sau ngài một chút.”[16]

8. Khi đến trước bàn thờ, Phó tế cúi mình chào bàn thờ, sau đó tiến lên hôn bàn thờ cùng với vị chủ tế Thánh Lễ.[17] Nếu có một vài Phó tế khác cũng đang thi hành thừa tác vụ thì họ có thể đứng chờ phía sau bàn thờ cho đến khi vị chủ tế đến rồi tất cả cùng nhau hôn bàn thờ. Nếu có nhiều Phó tế thì tốt nhất là ngay khi đến bàn thờ họ tiến lên hôn bàn thờ luôn, chỉ có hai Phó tế giúp lễ chính mới hôn bàn thờ chung với vị chủ tế.[18]

9. Sách Tin Mừng được Phó tế cầm khi đi rước được đặt trên bàn thờ từ phía sau [VIỆT NAM CHƯA THỰC HIỆN ĐƯỢC].[19] Phó tế cầm Sách Tin Mừng không cúi chào bàn thờ khi đến trước bàn thờ, nhưng ngay lập tức mang Sách Tin Mừng lên đặt trên bàn thờ, rồi thầy hôn bàn thờ cùng với vị chủ tế.[20]

10. Nếu Thánh Lễ có sử dụng hương thì [sau khi hôn bàn thờ cùng với chủ tế] các Phó tế giúp vị chủ tế bỏ hương vào bình hương và xông hương Thánh giá và bàn thờ, cùng đi xung quanh bàn thờ với ngài.[21]

11. Thông thường, Phó tế ngồi bên phải vị chủ tế, nhưng có thể ngồi bên trái nếu thuận tiện hơn cho việc thi hành thừa tác vụ của mình.[22] Khi có hai Phó tế thì họ sẽ ngồi một bên phải và một bên trái vị chủ tế. Nếu có nhiều Phó tế khác nữa thì những người này ngồi cạnh nhau ở một vị trí thích hợp, sao cho họ có thể dễ dàng di chuyển để thi hành công việc phục vụ của mình. Việc bố trí các Phó tế ngay bên cạnh vị chủ tế là hợp lý vì họ là những người cộng tác viên đầu tiên, phải sẵn sàng đáp ứng ngay lập tức cho bất kỳ nhu cầu nào và họ là những người thích hợp hơn ngay cả khi có các Linh mục đồng tế.[23] Thay vào đó, nếu các vị đồng tế chính [tức đồng tế 1 và đồng tế 2] là các Giám mục, thì vị trí danh dự bên cạnh vị chủ tế được ưu tiên dành cho các ngài:[24] trong trường hợp này, hai Phó tế giúp lễ sẽ ngồi trên hai ghế đẩu đặt phía trước ghế chủ toạ của chủ tế, sao cho vị chủ tế và hai vị đồng tế chính không bị che khất, và từ vị trí này họ có thể tiến đến ghế chủ toạ để thi hành bất cứ nhiệm vụ nào mà không bị cản trở.

12. Công bố hay hát các câu xướng ngắn[25] (tropi) của Kinh Thương Xót (Kyrie eleison) thuộc về Phó tế.

13. Nếu không có thừa tác viên đọc sách có đủ khả năng, thì chính Phó tế đọc tất cả các bài đọc.[26]

14. Trong khi hát Alleluia, nếu có sử dụng bình hương, thì Phó tế “giúp Linh mục bỏ hương, sau đó, cúi mình sâu trước mặt Linh mục để xin ngài chúc lành, rồi đọc nhỏ tiếng: “Xin cha chúc lành cho con”. Linh mục chúc lành cho thầy và đọc […]. Phó tế làm dấu Thánh giá trên mình và thưa: “Amen”.[27] Sau đó, nếu sử dụng Sách Tin Mừng, thì thầy đi tới phía sau bàn thờ, cúi mình sâu, rồi cầm Sách Tin Mừng và không cúi mình khi đi qua bàn thờ nữa. Cầm Sách Tin Mừng hơi cao một chút rồi rước tới giảng đài.[28] “Đi trước Phó tế là người cầm bình hương nghi ngút khói và hai thừa tác viên cầm nến cháy.”[29] “Tại giảng đài, Phó tế quay mặt về phía cộng đoàn, chắp tay, chào cộng đoàn xong, sau đó thầy lấy ngón cái của bàn tay phải ghi dấu Thánh giá vào sách ở chỗ đầu bài Tin Mừng mà thầy sắp công bố, rồi ghi dấu Thánh giá trên mình: ở trán, ở miệng và ở ngực, đang khi đó miệng đọc: “Tin Mừng Chúa Kitô theo thánh...” Sau đó, thầy xông hương 3 lần trên sách theo cách thức: xông ở giữa, ở bên trái và ở bên phải”,[30] rồi thầy công bố Tin Mừng. “Công bố Tin Mừng xong, thầy xướng: “Đó là Lời Chúa”; mọi người đáp: “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”. Đoạn thầy hôn kính Sách Tin Mừng đang khi đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con và trở về bên cạnh Linh mục. Khi Phó tế giúp lễ cho Giám mục, thì thầy đưa sách cho Giám mục hôn kính hoặc chính Phó tế hôn kính Sách Tin Mừng, đang khi đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con. Trong những buổi cử hành long trọng hơn, Giám mục có thể tuỳ nghi cầm Sách Tin Mừng mà chúc lành cho cộng đoàn.[31] Nếu chỉ sử dụng Sách Bài đọc, thì sách này không bao giờ được mang tới cho Giám mục hôn kính.[32] “Sau cùng, đặt Sách Tin Mừng trên bàn phụ hoặc một nơi nào khác thích hợp và xứng đáng”:[33] theo ý kiến của các nhà phụng vụ khác nhau, nơi thích hợp nhất cho phẩm giá và ý nghĩa của phụng vụ luôn là bàn thờ, nơi Sách Tin Mừng được lấy đi và nơi có thể được mang trở lại trong cuộc rước, nhưng lần này đặt sách phía trước bàn thờ, để không làm chiếm chỗ không gian sẽ được sử dụng ngay sau đó. Lúc này, có thể Sách Tin Mừng ở trạng thái đang mở.

15. Phó tế “có thể giảng lễ nếu được Linh mục uỷ thác.”[34]

16. Việc xướng các ý nguyện của lời nguyện tín hữu thuộc về Phó tế, thông thường thầy đứng ở giảng đài để xướng.[35] Không ảnh hưởng đến quy tắc chung này, có lẽ sẽ thuận tiện hơn nếu duy trì thói quen phổ biến hiện nay là giao việc đọc các ý chỉ của lời nguyện tín hữu cho một số tín hữu, những người này hoàn toàn thích hợp để lên giảng đài vì mục đích này.

17. “Kết thúc lời nguyện tín hữu, trong khi Linh mục còn ở tại ghế chủ toạ, thì Phó tế chuẩn bị bàn thờ với sự giúp đỡ của thừa tác viên giúp lễ; nhưng việc sửa soạn các bình thánh thuộc về Phó tế.[36] Thầy đứng bên cạnh Linh mục để giúp ngài tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến. Rồi thầy trao đĩa thánh với bánh lễ để truyền phép cho Linh mục; thầy vừa rót rượu vào chén thánh và thêm một chút nước, vừa đọc thầm: “Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con,” đoạn trao chén thánh cho Linh mục. Việc chuẩn bị chén thánh này có thể được thực hiện ở bàn phụ. Nếu có xông hương, Phó tế hoặc một thừa tác viên khác, sẽ xông hương cho Linh mục chủ tế (xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú), các vị đồng tế, và sau cùng là cộng đoàn (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú).[37] Khi xông hương cho chủ tế thì cộng đoàn ĐỨNG. Việc rót nước vào rượu phải được thực hiện một cách cẩn thận, đặc biệt nếu không sử dụng bình đựng nước có vòi nhỏ, để tránh rót quá nhiều nước vào rượu, khiến rượu có nguy cơ không thể sử dụng cho việc truyền phép. Nếu có nhiều chén thánh, Phó tế có 2 chọn lựa: hòa nước vào rượu theo từng chén thánh hoặc chỉ hoà nước vào rượu cho chén chính.[38] Khi Phó tế giúp đỡ Giám mục, bình hương được trao cho Giám mục luôn qua tay Phó tế.[39] Cũng thật tốt khi áp dụng cách thức này cả khi giúp lễ cho Linh mục.

18. Khi Giám mục chủ tế, “[sau lời nguyện trên lễ vật] Phó tế lấy mũ sọ (zucchetto) của Giám mục đưa cho thừa tác viên khác cất nơi xứng đáng.”[40]

19. “Trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể, Phó tế đứng gần Linh mục, nhưng phía sau một chút, chú ý đến chén thánh và Sách lễ để giúp ngài khi cần thiết.”[41] Phó tế đứng bên trái chủ tế sẽ phụ trách Sách lễ. Nếu chỉ có một Phó tế thì có thể đứng bên phải chủ tế, nhưng từ thời điểm cử hành này trở đi, thầy sẽ di chuyển sang bên trái để phụ trách Sách lễ và quay trở về bên phải khi mở, đậy và nâng chén thánh [KHÔNG THỰC HÀNH Ở VIỆT NAM ĐƯỢC]. Cần phải đặc biệt chú ý đến Sách lễ, vì thật đáng tiếc, chúng ta thường thấy các Phó tế chỉ đứng chắp tay, trong khi vị chủ tế một mình lật các trang sách: sự thiếu sót này càng đáng hổ thẹn hơn vì đó là một thừa tác vụ dành riêng cho Phó tế, vốn đòi hỏi về phần mình một sự hiểu biết sâu sắc và sự thông thạo đáng kể về Sách lễ.[42] Khi các vị đồng tế đến gần bàn thờ, họ phải đứng ở vị trí sao cho không cản trở việc thực hiện nghi thức, và cho phép “Phó tế dễ dàng đến gần bàn thờ để thi hành thừa tác vụ của mình. […] Tuy nhiên, trong chừng mực có thể, Phó tế đứng hơi lùi về phía sau các Linh mục đồng tế đang đứng xung quanh vị chủ tế.”[43] LNGM nói rõ hơn: “Các Phó tế đứng đằng sau các vị đồng tế, để khi cần, một trong số họ có thể phục vụ chén thánh hoặc Sách lễ. Tuy nhiên, không ai được đứng ở giữa Giám mục và các vị đồng tế, hoặc giữa các vị đồng tế và bàn thờ.”[44]

20. “Nếu chén thánh và bình đựng bánh đang đậy, thì trước Kinh nguyện Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis), Phó tế mở tấm đậy ra.”[45]

21. “Từ Kinh nguyện Khẩn cầu Chúa Thánh Thần cho đến khi nâng chén thánh xong, như thường lệ thì Phó tế quỳ gối.”[46] Trạng từ “như thường lệ[47] trong tiếng Latinh được dịch cách tương ứng là “de more”, cụm từ này chúng ta tìm thấy ở trong Editio typica[48] của Sách lễ, nhưng cách diễn đạt này cũng có thể có nghĩa là “tuỳ nghi sử dụng” (secondo l’uso). Vì lý do này, một cách cá nhân, tôi nghĩ rằng ở đây có thể dành ưu tiên cho yêu cầu của thừa tác vụ, như đã nói ở trên, người ở trong tư thế quỳ gối không thể “chú ý đến chén thánh và Sách lễ khi cần thiết” được. Và vì thế, tôi khuyên một cách chân thành, lúc này, Phó tế ở trong tư thế đứng thì thích hợp hơn là quỳ gối.

22. “Nếu có sự hiện diện của nhiều Phó tế, thì một trong số các thầy, vào lúc truyền phép, có thể bỏ hương vào bình và xông hương mỗi khi chủ tế dâng Mình và Máu Thánh Chúa.”[49] Trong các buổi cử hành trọng thể, 4 thừa tác viên bao gồm 2 người cầm nến cháy, người cầm bình hương và tàu hương có thể đi cùng với Phó tế thành một cuộc rước ra trước bàn thờ, quỳ gối trước bàn thờ từ Kinh nguyện Khẩn cầu Chúa Thánh Thần đến khi nâng Máu Thánh xong, sau đó đứng lên đi về chỗ của mình. Chúng ta lưu ý rằng việc xông hương cho Mình và Máu Thánh Chúa được thực hiện 3 lần đơn (3 lần mỗi lần một cú) hoặc 3 lần đôi (3 lần mỗi lần 2 cú), không bao giờ xông ba lần ba (3 lần mỗi lần 3 cú) như chẳng may ở nhiều nơi người ta vẫn làm theo phát kiến này.

23. Đến Vinh Tụng ca (dossologia) kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, Phó tế đứng bên phải vị chủ tế, nâng chén thánh bằng tay phải, trong khi tay trái để trên ngực [Ở VIỆT NAM NÊN CẦM HAI TAY]. Chén thánh được nâng lên sao cho cao bằng với đĩa thánh của vị chủ tế và giữ nguyên như vậy cho đến khi cộng đoàn đã tung hô: “Amen”.[50]

24. Việc mời gọi trao ban bình an là nhiệm vụ của Phó tế.[51] Thầy có thể tuân theo các công thức đã được Sách lễ tiên liệu hoặc sử những lời khác nhưng phải đảm bảo lời mời gọi được diễn tả với những lời ngắn gọn và được gợi hứng từ các bản văn phụng vụ, không được giảng bài giảng thứ 2, không dùng những tư tưởng kỳ quái nhằm thu hút sự chú ý và khơi dậy sự ngạc nhiên làm xao lãng buổi cử hành.

25. Đang khi đọc Lạy Chiên Thiên Chúa, các Phó Tế hoặc một vài vị đồng tế có thể giúp chủ tế chính bẻ bánh cho các vị đồng tế và cộng đoàn rước lễ.[52]

26. Phó tế rước lễ dưới hai hình từ tay vị chủ tế ngay sau khi ngài và các vị đồng tế đã rước lễ.[53] Tuy nhiên, có thể đề xuất một ngoại lệ đối với quy tắc này, bằng cách cho Phó tế rước lễ ngay sau khi vị chủ tế đã rước lễ để thầy ngay lập tức có thể cho cộng đoàn rước lễ.[54] Đặc biệt, trong buổi cử hành có đông giáo dân tham dự, nếu có nhiều Phó tế thì có thể đề nghị rằng, vị chủ tế, ngay sau khi rước lễ xong, ngài bước một bước về phía sau và cho tất cả các Phó tế rước lễ, trong khi các Linh mục đồng tế khác lần lượt tiến tới bàn thờ để rước lễ. Làm như vậy, để các Phó tế có thể sẵn sàng cho cộng đoàn rước lễ. Nếu rước lễ dưới hai hình thì Phó tế cầm chén thánh đứng bên cạnh [bên trái] Linh mục, trong trường hợp này thầy nên mang theo một khăn lau chén.

27. Cho rước lễ xong Phó tế rước Máu Thánh còn dư, nếu cần thiết thì các Phó tế hay các Linh mục khác giúp đỡ thầy rước hết Máu Thánh. Phó tế lo việc kiệu Mình Thánh tới Nhà Tạm, sau đó tráng và lau các bình thánh.[55]

28. “Khi Linh mục đọc lời nguyện hiệp lễ xong, nếu cần, Phó tế sẽ vắn tắt một vài thông báo, trừ khi chính Linh mục muốn tự mình làm điều đó.”[56]

29. “Nếu dùng công thức chúc lành trọng thể hoặc lời nguyện trên dân chúng, Phó tế nói: “Anh chị em hãy cúi mình nhận phép lành,”[57] sau khi vị chủ tế đã chào cộng đoàn với công thức: “Chúa ở cùng anh chị em.”

30. Vào cuối buổi cử hành, Phó tế giải tán cộng đoàn: trong trường hợp này những lưu ý được đề cập ở phần mời gọi trao chúc bình an ở phía trên cũng có thể thực hiện cách tương tự cho lúc giản tán cộng đoàn.

31. Các Phó tế [giúp lễ chính] cùng với Linh mục hôn kính bàn thờ, tiến xuống phía trước bàn thờ rồi cúi mình chào bàn thờ.[58] Trong đoàn rước kết lễ, các Phó tế đi theo vị trí như lúc rước nhập lễ, ngoại trừ Phó tế đã mang Sách Tin Mừng thì đi bên cạnh các Phó tế khác.

32. “Nếu trong Thánh Lễ không có Phó tế, thì một vài Linh mục đồng tế thi hành phần việc của Phó tế.”[59] Đặc biệt, “khi Giám mục chủ tế Thánh Lễ mà không có Phó tế thì các Linh mục thay thế một số thừa tác vụ của Phó tế nhưng không bao giờ được mặc áo Phó tế.”[60] Trong trường hợp này một Linh mục sẽ công bố Tin Mừng, nhưng trước khi tiến tới giảng đài, cũng như Phó tế, vị Linh mục đó đến trước Giám mục chủ tế để xin chúc lành. Nếu chủ tế là một Linh mục thì vị Linh mục công bố Tin Mừng sẽ đi thẳng tới giảng đài luôn.[61] Các Linh mục đồng tế cũng mời gọi trao chúc bình an và giải tán cộng đoàn khi kết thúc Thánh Lễ, đặc biệt khi có Giám mục chủ tế.[62]

33. “Trong Thánh Lễ có Giám mục chủ tế, thì cần ít nhất ba Phó tế: một thầy phục vụ Tin Mừng và bàn thờ, hai thầy giúp lễ cho Giám mục. Nếu có nhiều hơn, thì phân chia tác vụ cho nhau, và ít là phải để một thầy giúp giáo dân tham dự phụng vụ một cách chủ động.”[63]

34. Giúp Giám mục về những gì liên quan đến mũ mitra, gậy mục tử và mũ sọ[64] khi cử hành Thánh Thể

35. Giúp Giám mục về những gì liên quan đến mũ mitra, gậy mục tử và mũ sọ trong Thánh lễ ban Bí tích Thêm sức


THỰC TẬP DÂNG THÁNH LỄ

 

NGHI THỨC ĐẦU LỄ

Khi cộng đoàn đã tụ họp, Linh mục và các thừa tác viên mặc phẩm phục tiến tới bàn thờ theo thứ tự sau đây:[65]

 Người cầm bình hương có bỏ hương sẵn [lắc nhẹ bình hương qua lại hoặc lên xuống để khói bay lên, tuỳ lối đi rộng hẹp], nếu có xông hương;

 Các thừa tác viên cầm nến sáng, có thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác cầm Thánh Giá có tượng chịu nạn đi giữa họ;[66]

 [Người cầm tàu hương];

 [Các hội đoàn (nữ đi trước – nam đi sau, không đồng phục đi trước – có đồng phục đi sau)];

 Các thừa tác viên giúp lễ và các thừa tác viên khác;

 Phó tế hoặc thầy đã lãnh tác vụ Đọc sách cầm Sách Tin Mừng [chứ không phải Sách Bài Đọc, giơ cao lên một chút. Cách nhớ: trước người cầm sách Tin Mừng là những người không có chức thánh, sau người cầm sách Tin Mừng là những người có chức thánh. Nếu Phó tế không cầm sách thì đi bên cạnh Linh mục chủ tế];

 Các Phó tế (nếu có, từng hai người một);

 Các Linh mục đồng tế (từng hai người một);

  Linh mục chủ tế đi một mình;

 Phó tế giúp lễ (nếu có, đi bên cạnh, bên phải và sau Linh mục chủ tế một chút).[67]

Khi tới bàn thờ, nếu Phó tế cầm Sách Tin Mừng, thì thầy tiến lên bàn thờ mà không cúi chào. Rồi sau khi đặt Sách Tin Mừng lên bàn thờ, thầy cùng với Linh mục hôn kính bàn thờ. Còn thừa tác viên không có chức thánh thì đặt sách Tin Mừng lên bàn thờ nhưng không hôn bàn thờ.

Nếu không cầm Sách Tin Mừng, Phó tế cùng với Linh mục chủ tế cúi mình trước bàn thờ như thường lệ, rồi cùng Linh mục chủ tế tiến lên hôn kính bàn thờ.[68]

Thánh Giá có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh đã cầm đi rước, có thể dựng bên cạnh bàn thờ để làm Thánh Giá tại bàn thờ hoặc cất đi và đặt vào nơi xứng đáng vì bàn thờ chỉ được có một Thánh Giá. Còn nến sáng thì đặt trên bàn thờ hoặc cạnh bàn thờ. Sách Tin Mừng, thì đặt trên bàn thờ.

Cuối cùng, nếu có xông hương, Phó tế cầm tàu hương, Linh mục chủ tế bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu Thánh Giá. Sau đó, Phó tế cầm bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho Linh mục chủ tế, rồi tháp tùng[69] với Linh mục chủ tế khi xông hương Thánh Giá và bàn thờ.

Trước và sau khi xông hương, cúi sâu chào những người hoặc những vật được xông hương, ngoại trừ bàn thờ và lễ phẩm dùng cho hy tế Thánh Lễ.

Linh mục chủ tế xông hương bàn thờ từng nhịp một[70] (vừa đi chung quanh vừa “tạt” bình hương vào bàn thờ) theo cách thức sau đây:

a) Nếu bàn thờ cách biệt vách tường, Linh mục vừa đi chung quanh bàn thờ vừa xông hương;

b) Nếu bàn thờ không cách biệt vách tường, Linh mục vừa đi qua vừa xông hương phía tay phải bàn thờ, rồi vừa đi qua vừa xông hương phía tay trái.

c) Nếu Thánh Giá đặt phía trên bàn thờ hoặc tại bàn thờ, thì xông hương Thánh Giá trước khi xông bàn thờ; nếu không thì xông hương khi Linh mục đi ngang qua trước Thánh Giá.

Khi xông hương Thánh Giá thì xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú.

Xông hương xong, Phó tế cùng với Linh mục chủ tế tới chỗ ngồi, tại đó, Phó tế ngồi bên cạnh và giúp Linh mục chủ tế khi cần.[71]

Linh mục chủ tế và cộng đoàn đứng làm dấu Thánh Giá, Linh mục chủ tế quay về phía cộng đoàn đọc:

Nhân danh Cha và Con + và Thánh Thần.

Cộng đoàn thưa:

Amen.

Linh mục chủ tế DANG TAY[72] chào cộng đoàn:

Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em. (CHẮP TAY)

Cộng đoàn thưa:

Và ở cùng cha.

Linh mục chủ tế hoặc Phó tế hoặc thừa tác viên khác có thể nói ít lời hết sức vắn tắt hướng lòng cộng đoàn về Thánh Lễ hôm đó.

HÀNH ĐỘNG THỐNG HỐI

Tiếp đến là hành động thống hối. Linh mục kêu mời các tín hữu làm việc thống hối và nói:

Anh chị em, chúng ta hãy nhìn nhận những tội lỗi của chúng ta, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

Thinh lặng giây lát rồi mọi người cùng đọc kinh thú tội chung.

Linh mục chủ tế CHẮP TAY.

Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng,…

Tiếp theo là lời xá giải của Linh mục (CHẮP TAY):

Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

Cộng đoàn thưa:

Amen.

Tiếp theo là Kinh Xin Chúa thương xót.

Đoạn hát hoặc đọc Kinh Vinh danh.[73]

Dứt Kinh Vinh danh, Linh mục chủ tế CHẮP TAY nói:

Chúng ta dâng lời cầu nguyện.

Mọi người cùng Linh mục thinh lặng cầu nguyện trong giây lát.

Sau đó Linh mục DANG TAY[74] đọc lời nguyện Nhập lễ:[75]

[…]. (CHẮP TAY) Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.

Cuối lời nguyện, cộng đoàn tung hô:

Amen.

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc 1

Đáp ca

Bài đọc 2

Tung hô Tin Mừng

Đang khi hát Halleluia hoặc ca khúc nào khác, nếu có xông hương thì Linh mục chủ tế đứng lên, bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu Thánh Giá. Phó tế cầm tàu hương giúp Linh mục bỏ hương. Rồi Phó tế cúi mình trước mặt Linh mục chủ tế, xin ngài chúc lành, đọc nhỏ tiếng: “Xin cha chúc lành cho con.” Linh mục chủ tế chúc lành cho thầy: “Xin Chúa ngự nơi tâm hồn và môi miệng thầy, để thầy xứng đáng và đủ tư cách công bố Tin Mừng của Chúa. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Phó tế làm dấu Thánh Giá và thưa: “Amen.” Sau khi cúi chào bàn thờ, Phó tế lấy Sách Tin Mừng, giơ sách lên cao một chút, tiến tới giảng đài, có người cầm bình hương đang toả khói cùng với những thừa tác viên cầm nến sáng đi trước. Tại đây, Phó tế CHẮP TAY chào cộng đoàn và nói: “Chúa ở cùng anh chị em.” Rồi khi đọc: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh…,” thì lấy ngón tay cái làm dấu Thánh Giá trên sách Tin Mừng, rồi trên trán, trên miệng và trên ngực. Phó tế xông hương trên sách Tin Mừng (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú) và công bố bài Tin Mừng. Đọc xong, thầy xướng: “Đó là Lời Chúa,” mọi người đáp: “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.” Đoạn thầy hôn kính Sách Tin Mừng [Phó tế hôn sách Tin Mừng chứ không đưa cho Linh mục chủ tế] và đọc thầm: “Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con,” và trở lại bên cạnh Linh mục chủ tế.[76]

Tin Mừng[77]

Sau bài giảng, đọc Kinh Tin kính[78] và lời nguyện tín hữu.

Linh mục chủ tế điều khiển lời nguyện tín hữu tại ghế chủ toạ, còn ý nguyện được đọc từ giảng đài hoặc một nơi khác thích hợp, do Phó tế, hoặc do một ca xướng viên, hoặc một độc viên, hoặc một tín hữu giáo dân.

Còn cộng đoàn thì đứng và biểu lộ lời nguyện của mình, hoặc bằng lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng cách cầu nguyện trong thinh lặng.[79]

Chủ tế [Lời mời gọi] (CHẮP TAY):

[...]

Chủ tế [Lời nguyện] (DANG TAY):

Cộng đoàn:

Amen.

PHỤNG VỤ THÁNH THỂ

Dứt lời nguyện tín hữu, đang khi Linh mục chủ tế ở tại ghế chủ toạ thì Phó tế dọn bàn thờ, có thừa tác viên giúp lễ phụ, nhưng chính Phó tế phải sửa soạn các bình, chén thánh. Phó tế cũng giúp Linh mục chủ tế tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến.[80]

Phó tế trao đĩa thánh có bánh lễ cho Linh mục chủ tế. Linh mục chủ tế đứng ở bàn thờ, nhận đĩa thánh có bánh, hai tay nâng đĩa thánh lên khỏi bàn thờ một chút và đọc nhỏ tiếng:

Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này, là hoa màu ruộng đất và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh cho chúng con.

Đoạn Linh mục chủ tế đặt đĩa thánh có bánh trên khăn thánh.

Phó tế vừa rót rượu và chút nước vào chén thánh,[81] vừa đọc thầm:

Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con.

Phó tế trao chén thánh cho Linh mục chủ tế. Linh mục chủ tế hai tay cầm chén thánh, nâng lên khỏi bàn thờ một chút và đọc nhỏ tiếng:

Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con rượu này, là sản phẩm từ cây nho và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa, để trở nên của uống thiêng liêng cho chúng con.

Rồi đặt chén thánh trên khăn thánh.

Linh mục cúi mình sâu và đọc thầm:

Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con đang hết lòng khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ chúng con dâng trước Tôn Nhan Chúa hôm nay, được đẹp lòng Chúa.

Nếu có xông hương, Phó tế cầm tàu hương, Linh mục bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu Thánh Giá. Phó tế cầm bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho Linh mục.

Trước khi xông bàn thờ Thánh Giá (xông như đầu lễ), Linh mục xông hương lễ phẩm (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú hoặc xông theo hình Thánh Giá trên các lễ phẩm). Phó tế tháp tùng với Linh mục xông hương bàn thờ và Thánh Giá.

Sau đó, Phó tế hoặc một thừa tác viên khác, sẽ xông hương cho Linh mục chủ tế (xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú), các vị đồng tế, và sau cùng là cộng đoàn (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú).[82] Khi xông hương cho chủ tế thì cộng đoàn ĐỨNG.

Linh mục chủ tế rửa tay ở góc bàn thờ và đọc thầm:

Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm, xin Ngài thanh tẩy.

Linh mục chủ tế trở lại bàn thờ, quay mặt về phía cộng đoàn, DANG TAY rồi CHẮP LẠI và nói:

Anh chị em hãy cầu nguyện, để hy lễ của tôi[83] cũng là của anh chị em, được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.

Cộng đoàn đứng lên và thưa:

Xin Chúa nhận hy lễ bởi tay cha, để ca tụng tôn vinh danh Chúa, và mưu ích cho chúng ta cùng toàn thể Hội Thánh Người.

Lời nguyện tiến lễ

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc lời nguyện tiến lễ:[84]

[…]. (CHẮP TAY) Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.[85]

Cộng đoàn thưa:

Amen.

Sau khi Linh mục chủ tế đọc lời nguyện tiến lễ, các vị đồng tế lên đứng chung quanh bàn thờ, nhưng phải sắp xếp thế nào để không gây cản trở khi cử hành các nghi thức và để cộng đoàn thấy rõ nghi lễ, và cũng không cản trở Phó tế, khi thầy phải lui tới thi hành phận vụ nơi bàn thờ.

Khi có các Linh mục đồng tế, thì Phó tế vẫn phải thi hành phận vụ riêng của mình nơi bàn thờ, khi cần giúp trong những gì liên quan đến chén thánh và Sách Lễ. Nhưng trong mức có thể được, Phó tế đứng sau các vị đồng tế một chút, đang khi các ngài đứng bao quanh vị chủ tế chính.

Sau đó, Phó tế quỳ như thường lệ từ lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần (Epiclesis) cho đến khi nâng chén thánh. Nếu có nhiều Phó tế, thì một vị có thể bỏ hương vào bình và xông hương (xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú) đang khi Linh mục nâng Mình và Máu Thánh.

KINH TIỀN TỤNG CHUNG IV[86]

Được ca ngợi Chúa là một hồng ân

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:[87]

Chúa ở cùng anh chị em. (KHÔNG CHẮP TAY)

Cộng đoàn thưa:

Và ở cùng cha.

Linh mục NÂNG HAI TAY LÊN, đọc:

Hãy nâng tâm hồn lên.

Cộng đoàn thưa:

Chúng con đang hướng về Chúa.

Linh mục [vẫn] DANG TAY, đọc:

Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta.

Cộng đoàn thưa:

Thật là chính đáng.

Linh mục [vẫn] DANG TAY đọc kinh tiền tụng:

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.

Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên Thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng: (CHẮP TAY)

Thánh! Thánh! Thánh!

KINH NGUYỆN THÁNH THỂ II[88]

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:

Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng Thánh, là nguồn mọi sự thánh thiện.

Linh mục chủ tế SÁP HAI BÀN TAY LẠI, ĐẶT TRÊN LỄ VẬT và đọc. Các vị đồng tế hai tay giơ ra phía trước, hướng về lễ vật, lòng bàn tay hướng xuống, cùng đọc với chủ tế nhưng đọc nhỏ tiếng hơn:[89]

Vì thế, chúng con nài xin Chúa, dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa những của lễ này,

CHẮP TAY rồi LÀM MỘT DẤU THÁNH GIÁ trên cả bánh và chén thánh khi đọc:

để trở nên cho chúng con, Mình và + Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. (các vị đồng tế CHẮP TAY)

CHẮP TAY.

Trong những công thức sau đây, các lời của Chúa phải được đọc rõ ràng, dõng dạc theo đặc tính từng lời.

(các vị đồng tế CHẮP TAY) Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ hình,

Linh mục cầm lấy bánh, nâng lên khỏi bàn thờ một chút và đọc tiếp:

Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói:

Hơi cúi mình:

Các vị đồng tế đưa tay phải, lòng bàn tay quay ngang, mang ý nghĩa chỉ định, chỉ về phía Bánh.[90]

TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN, VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY, SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON.[91]

Linh mục chủ tế cầm bánh đã truyền phép, nâng lên cho cộng đoàn thấy, rồi lại đặt xuống trên đĩa thánh và cúi mình sâu thờ lạy.

Rồi đọc tiếp:

(các vị đồng tế CHẮP TAY) Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối,

Linh mục cầm chén thánh, nâng lên khỏi bàn thờ một chút và đọc tiếp:

Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ mà nói:

Hơi cúi mình.

Các vị đồng tế đưa tay phải, lòng bàn tay quay ngang, mang ý nghĩa chỉ định, chỉ về phía Rượu.

TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ UỐNG:

VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI.

CÁC CON HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ NHỚ ĐẾN THẦY.

Linh mục chủ tế nâng chén lên cho cộng đoàn thấy, rồi lại đặt xuống khăn thánh và cúi mình sâu thờ lạy

Rồi xướng:

Ðây là mầu nhiệm đức tin.

Cộng đoàn tung hô theo:[92]

Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến. 

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:

Vì vậy, lạy Chúa,

khi kính nhớ Con Chúa chịu chết và sống lại,

chúng con dâng lên Chúa bánh trường sinh

và chén cứu độ để tạ ơn Chúa,

vì Chúa đã thương cho chúng con

được xứng đáng hầu cận trước Tôn Nhan và phụng sự Chúa. Chúng con tha thiết nài xin Chúa

cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Ðức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần.

Ðồng tế 1 (DANG TAY, đọc một mình và lớn tiếng):

Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu, để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Ðức Giáo Hoàng T.,[93] Ðức Giám mục T. chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ.

Ðồng tế 2 (DANG TAY, đọc một mình và lớn tiếng):[94]

Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con, đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.

Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con, cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Ðồ và toàn thể các Thánh,[95] đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng con được ca ngợi và tôn vinh Chúa,

(CHẮP TAY) nhờ Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa. 

Linh mục chủ tế (nếu có Phó tế thì Phó tế giúp Linh mục chủ tế nâng cao chén thánh)[96] cầm đĩa thánh có bánh thánh và chén thánh, nâng cả hai lên và đọc:

Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.[97]

Cộng đoàn tung hô:

Amen. 

NGHI THỨC HIỆP LỄ

Ðặt chén thánh và đĩa thánh xuống, Linh mục chủ tế CHẮP TAY đọc:

Vâng lệnh Chúa Cứu Thế, và theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng:

Linh mục chủ tế, các vị đồng tế DANG TAY và cùng với cộng đoàn đọc tiếp:

Lạy Cha chúng con ở trên trời...

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc một mình:

Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn, đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng con.

CHẮP TAY.

Cộng đoàn tung hô kết thúc lời nguyện:

Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời. 

Linh mục chủ tế DANG TAY đọc rõ tiếng:

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các Tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa.

CHẮP TAY.

Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Cộng đoàn thưa:

Amen. 

Linh mục chủ tế quay về phía cộng đoàn, và nói đang khi DANG TAY RỒI CHẮP TAY LẠI:

Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.

Cộng đoàn thưa:

Và ở cùng cha. 

Tuỳ nghi, Linh mục hoặc Phó tế hoặc một vị đồng tế[98] nói:

Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.[99]

Tại Việt Nam, để chúc bình an cho cộng đoàn, chủ tế dang hai tay, quay về phía cộng đoàn và nói: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.” Cộng đoàn đáp lại “Và ở cùng cha,” và không làm cử chỉ gì khác nữa. Những ai ở gần Linh mục chủ tế hơn, thì nhận bình an của ngài trước Phó tế. Chủ tế THINH LẶNG chào chúc bình an cho các vị đồng tế, Phó tế, hoặc thừa tác viên đứng gần; các vị đồng tế hay thừa tác viên khác đứng gần nhau cũng làm như thế. Linh mục chủ tế không được ra khỏi cung thánh, cũng không đi xuống giáo dân bắt tay người nọ người kia. Giáo dân hai bên lòng nhà thờ cũng quay vào nhau cúi mình để chúc bình an cho nhau mà không cần nói gì, và không cần cúi đầu chào Linh mục chủ tế.[100]

Rồi Linh mục chủ tế cầm lấy bánh thánh, bẻ ra trên đĩa thánh, và nếu cần thì có Phó tế hoặc một vị đồng tế phụ giúp.[101] Linh mục chủ tế lấy một miếng nhỏ bỏ vào chén thánh và đọc thầm:

Xin cho việc hoà Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, mà chúng con sắp lãnh nhận, đem lại cho chúng con sự sống muôn đời. 

Trong khi đó đọc hoặc hát:[102]

Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin thương xót chúng con.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin thương xót chúng con.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin ban bình an cho chúng con.

Linh mục chủ tế CHẮP TAY đọc thầm:

Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa, xin đừng để con vì thế mà bị xét xử và luận phạt, nhưng nhờ lòng Chúa nhân từ, xin che chở và cứu chữa hồn xác con.

Linh mục chủ tế cúi mình, cầm bánh thánh nâng lên trên đĩa thánh hoặc chén thánh, quay về phía cộng đoàn đọc rõ tiếng:

Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Linh mục chủ tế đọc chung với cộng đoàn một lần:

Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.

Linh mục chủ tế quay lên bàn thờ, đọc thầm:

Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời. 

Linh mục chủ tế cung kính rước Mình Thánh. Rồi cầm chén thánh và đọc thầm:

Xin Máu Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời. 

Linh mục chủ tế cung kính rước Máu Thánh.

Trong lúc Linh mục chủ tế rước lễ thì bắt đầu hát Ca Hiệp lễ.

Cho rước lễ xong, Linh mục hoặc Phó tế hoặc thầy đã lãnh tác vụ Giúp lễ lau đĩa thánh gạt vào chén thánh rồi tráng chén thánh.[103] Trong lúc tráng chén, Linh mục đọc thầm:

Lạy Chúa, miệng chúng con vừa rước Mình và Máu Chúa, xin cho chúng con tiếp nhận với tâm hồn trong sạch, và xin cho ân huệ đời này trở nên linh dược cho chúng con được sống muôn đời. 

Linh mục chủ tế có thể trở về ghế. Tuỳ nghi giữ thinh lặng thánh trong ít phút, cũng có thể hát hoặc đọc thánh vịnh hoặc thánh ca tạ ơn hoặc thánh thi.

Linh mục chủ tế đứng tại ghế hoặc tại bàn thờ hướng về cộng đoàn, CHẮP TAY và nói:

Chúng ta dâng lời cầu nguyện.

Mọi người cùng với Linh mục thinh lặng giây lát, trừ khi đã giữ thinh lặng trước rồi. Đoạn, Linh mục đọc lời nguyện Hiệp Lễ.[104]

[…] (CHẮP TAY) Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Cộng đoàn tung hô:

Amen.

Phó tế, hoặc khi không có Phó tế thì chính Linh mục chủ tế mời gọi cộng đoàn: “Anh chị em hãy cúi mình đón nhận phép lành.” Rồi Linh mục chủ tế ĐẶT HAI TAY (lòng bàn tay úp) trên cộng đoàn, đọc công thức ban phép lành trọng thể.[105]

Linh mục chủ tế quay về phía cộng đoàn, DANG TAY chào:

Chúa ở cùng anh chị em. (CHẮP TAY)

Cộng đoàn:

Và ở cùng cha.

Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):[106]

Xin Thiên Chúa là nguồn mọi niềm an ủi an bài chuỗi ngày đời anh chị em trong bình an của Ngài, và ban cho anh chị em ơn phúc lành của Ngài. (CHẮP TAY)

Cộng đoàn:

Amen.

Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):

Xin Thiên Chúa luôn giải thoát anh chị em khỏi mọi biến loạn, và củng cố tâm hồn anh chị em trong tình yêu của Ngài. (CHẮP TAY)

Cộng đoàn:

Amen.

Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):

Ước gì, nhờ được sung mãn các ơn tin cậy mến, anh chị em trải qua cuộc đời này với nhiều thành quả trong công việc, và đời sau có thể đạt được hạnh phúc. (CHẮP TAY)

Cộng đoàn:

Amen.

Linh mục ĐẶT TAY TRÁI TRÊN NGỰC, và ĐƯA TAY PHẢI LÊN,[107] nói tiếp:

Và xin phúc lành của Thiên Chúa toàn năng là Cha và + Con và Thánh Thần, xuống trên anh chị em và ở lại cùng anh chị em luôn mãi.[108]

Cộng đoàn:

Amen.[109]

Rồi Phó tế hoặc một vị đồng tế hoặc chính Linh mục chủ tế CHẮP TAY quay về phía cộng đoàn tuyên bố:

Lễ xong chúc anh chị em đi bình an.

Cộng đoàn thưa:

Tạ ơn Chúa.

Cuối cùng, Linh mục chủ tế và Phó tế hôn kính bàn thờ, và sau khi cúi mình chào bàn thờ, thì ra về cùng một cách như lúc tiến ra bàn thờ. Còn các vị đồng tế không hôn bàn thờ nhưng cúi mình trước bàn thờ.[110]


CÁCH THỨC LINH MỤC DÂNG THÁNH LỄ MỘT MÌNH

 

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Gần đây con đã nói chuyện với một số anh em Linh mục về việc cử hành Thánh Lễ một mình, khi không có người giúp lễ và không có cộng đoàn, mà chỉ một mình Linh mục cử hành Thánh Lễ. Dường như không có sự thống nhất về cách thức cử hành Thánh Lễ như thế, và điều duy nhất là anh em Linh mục chúng con tìm thấy trong Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma là một vài dòng được tìm thấy trong Số 254. Số này nói: “Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, thì không được cử hành Thánh Lễ mà không có người giúp, hoặc ít là một tín hữu nào đó. Trong trường hợp này, thì bỏ các lời chào, lời bảo và phép lành cuối lễ” (Bản dịch Việt ngữ của Ủy ban Phụng tự thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam). Con biết vấn đề này thực sự không được hầu hết mọi người quan tâm, nhưng con nghĩ nhiều Linh mục (ít nhất là các vị mà con đã nói chuyện) muốn có một số hướng dẫn cụ thể về chủ đề này. Xin cha giúp. – D. C., Sioux Falls, South Dakota, Hoa Kỳ.

Đáp: Bạn đọc này cũng đưa ra một lược đồ về những gì có thể bỏ qua khi cử hành Thánh Lễ một mình. Tôi sẽ sử dụng lược đồ này và sửa đổi một số chi tiết.

Mặc dù điều này có vẻ là một điểm khá mơ hồ, nhưng không có gì tối nghĩa trong phụng vụ đến nỗi các chuyên viên phụng vụ không thể tìm thấy các điểm không đồng ý – và điều này cũng là không ngoại lệ. Do đó, một số điều tôi nói ở đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi, dựa trên những gì tôi tin là một sự giải thích đầy đủ về luật.

Khía cạnh khó diễn giải nhất liên quan đến những gì được bao hàm trong thuật ngữ “Monitionis” trong tiếng Latinh. Bản dịch tiếng Anh của thuật ngữ này là “monitions, lời bảo, lời nhắn nhủ” có thể dẫn đến một sự giải thích rất rộng.

Các ngôn ngữ khác thường ưu tiên giữ thuật ngữ “lời bảo”, vốn có thể là hạn chế hơn. Dù bằng cách nào, cả bản gốc tiếng Latinh lẫn bản dịch đều không thực sự hữu ích trong việc giải quyết câu hỏi của chúng ta. Theo như tôi biết, không có lời giải thích chính thức nào từ phía Toà Thánh.

Trước khi đi vào chi tiết, tôi muốn đề cập đến việc một số Linh mục tin rằng hình thức Thánh Lễ mà không có tín hữu tham dự là hiện giờ bị cấm. Không phải. Thật vậy, Bộ Giáo luật hiện tại, bằng cách yêu cầu có lý do chính đáng để cử hành Thánh Lễ một mình, và không còn đòi hỏi lý do nghiêm trọng như Bộ Giáo luật năm 1917, đã thực sự tạo sự dễ dàng hơn cho việc cử hành Thánh Lễ một mình, mặc dù việc này luôn được coi là một ngoại lệ, và nên tránh bất cứ khi nào có thể được.

Tất cả đều giống nhau, nhiều Linh mục đôi khi phải đối mặt với sự lựa chọn cử hành Thánh Lễ một mình, hoặc không cử hành. Cả giáo luật và luật ân sủng đều khuyên Linh mục nên cử hành Thánh Lễ, vốn là điều tốt hơn.

Mô hình cơ bản được tuân theo sẽ là nghi thức Thánh Lễ với một Linh mục có mặt, bỏ qua bất cứ điều gì sẽ được hướng tới Linh mục này, cũng như các cử chỉ hướng về Linh mục cho các lời chào.

Vì vậy, khi một Linh mục cử hành Thánh Lễ một mình, ngài làm như sau:

– Sau khi hôn bàn thờ, ngài đọc bài ca nhập lễ, và làm dấu Thánh Giá.

– Ngài bỏ qua lời chào đầu Thánh Lễ (“Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum”), và lời mời bắt đầu nghi thức thống hối (“Anh chị em, chúng ta hãy nhìn nhận… Fratres, agnoscamus…, “). Phần còn lại của nghi thức thống hối là như bình thường.

– Ngài đọc lời mời cầu nguyện (“Chúng ta hãy cầu nguyện, Oremus”), vì đây không chỉ là lời mời hướng đến mọi người, mà còn bao gồm cả ngài nữa. Tiêu chí tương tự được tuân giữ cho phần giới thiệu Kinh Lạy Cha, vốn không được bỏ qua.

– Ngài đọc phần giới thiệu các bài đọc và Tin Mừng (“Trích thư thánh… Lectio sancti…”), nhưng bỏ qua lời chào mọi người đầu Tin Mừng (“Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum”). Ngài đọc lời kết thúc các bài đọc và Tin Mừng (“Đó là Lời Chúa, Verbum Domini”). Đây cũng là vì lợi ích của ngài, và không chỉ là lời chào đến mọi người.

– Trong phần dâng lễ vật, ngài đọc các lời nguyện dâng bánh và rượu, nhưng bỏ qua câu đáp “Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời, Benedíctus Deus in Saécula….” Ngài cũng bỏ qua “Anh chị em hãy cầu nguyện, Orate, fratres”), cùng với câu đáp “Xin Chúa nhận hy lễ, Suscípiat Dóminus sacrifícium….”

– Không giống như “Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum” khác, tôi tin rằng ngài phải đọc câu này, vốn tạo thành một phần của giao thức ban đầu của đối thoại cho kinh Tiền tụng. Các quy chế nói rõ ràng rằng Kinh nguyện Thánh Thể phải luôn được đọc một cách toàn diện, và rằng Kinh này vẫn giữ hình thức số nhiều, ngay cả khi Linh mục cử hành Thánh Lễ một mình. Vì lời đối thoại này không thể tách rời khỏi Kinh nguyện Thánh Thể, nên nó luôn được đọc.

Để hỗ trợ cho việc giải thích tính cách đặc biệt của “Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum” này, là sự việc rằng ngay cả khi Thánh Lễ thường được cử hành hướng về phía đông, chữ đỏ không yêu cầu Linh mục quay về phía mọi người vào lúc này, như đã xảy ra gần như trong mọi trường hợp khác, nhưng hãy nhìn vào Thánh Giá bàn thờ.

– Mặc dù Kinh nguyện Thánh Thể phải được đọc trọn bộ, nhưng lời tung hô tưởng niệm (“Đây là mầu nhiệm đức tin, Mysterium fidei”) không phải là một phần của Kinh nguyện này. Do đó, cả lời giới thiệu và câu tung hô đều được bỏ qua. Chữ đỏ này được nói cách minh nhiên trong một số quy định cho việc đồng tế, khi chỉ có các Linh mục có mặt trong Thánh Lễ.

– Việc trao chúc bình an (“Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em, Pax Domini sit semper …”) được bỏ qua.

– Khoảnh khắc giơ Mình thánh lên là dễ nhầm lẫn. Trong thực tế, chúng ta có hai lời nguyện được đặt bên cạnh nhau.

Ở đây, số 268 của Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma được tuân giữ: “…Nếu thừa tác viên không rước lễ, [hoặc nếu không có thừa tác viên] Linh mục cúi mình, cầm Mình Thánh quay mặt về bàn thờ đọc thầm một lần: ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng, Domine non sum dignus’ và ‘Xin Mình Thánh Chúa Kitô, Corpus Christi custodiat…’, rồi rước Mình Thánh Chúa. Đoạn ngài cầm lấy chén thánh và đọc thầm: ‘Xin Máu Thánh Chúa Kitô, Sanguis Christi custodiat…’ rồi rước Máu Thánh.” (Bản dịch Việt ngữ, như trên).

– Sau khi rước lễ, Linh mục đọc bài ca Hiệp lễ trước khi tráng chén.

– Sau một khoảnh khắc tạ ơn trong thinh lặng, Linh mục nói “Chúng ta hãy cầu nguyện, Oremus” và đọc lời nguyện sau Hiệp lễ.

– Cả phép lành cuối cùng và câu “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an, Ite missa est” đều được bỏ qua. Thánh Lễ kết thúc với câu “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta. Amen; Per Christum, Dóminum nostrum. Amen” của lời nguyện kết lễ, sau đó Linh mục hôn bàn thờ, và hoặc cúi đầu trước bàn thờ hoặc bái gối trước Nhà Tạm, tuỳ theo trường hợp, trước khi rút lui.

Các cử chỉ này được xem là hình thức kết luận đầy đủ. Không cần phải thêm các cử chỉ khác, vốn là không được lường trước trong sách nghi thức, chẳng hạn làm dấu Thánh Giá.

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có cách nào loại trừ lời đề nghị rằng, ngay sau Thánh Lễ, Linh mục nên dành một thời gian để tạ ơn riêng tư, vì bao ân sủng và đặc ân được cử hành Thánh Lễ.

Trên đây là một bài tham khảo có giá trị. Các Linh mục nên lưu giữ lại, để sử dụng khi cần.

 

CÁCH THỨC ĐỌC KINH NGUYỆN THÁNH THỂ

(trích Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma 2002)

 

216. Một mình vị chủ tế chính đọc hoặc hát Kinh Tiền Tụng; nhưng hết mọi Linh mục cùng với cộng đoàn hát hoặc đọc lời tung hô: “Thánh! Thánh! Thánh!.”

217. Sau lời tung hô “Thánh! Thánh! Thánh!,” các vị đồng tế tiếp tục theo cách được mô tả dưới đây. Một mình vị chủ tế chính làm các cử chỉ, trừ khi ghi chú cách khác.

218. Các phần mà tất cả các vị đồng tế cùng đọc, thì các vị đồng tế phải đọc nhỏ tiếng để tiếng của chủ tế chính được nghe rõ. Như vậy, cộng đoàn sẽ dễ nghe hơn.

 Thật là đáng khen nếu hát những phần tất cả các đồng tế cùng đọc và Sách Lễ có ghi dấu nhạc.

Kinh Nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Quy Rôma

219. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Quy Rôma, một mình chủ tế dang tay đọc phần: “Lạy Cha rất nhân từ….”

220. “Lạy Chúa, xin nhớ đến…” và “Hiệp thông cùng Hội Thánh…” có thể để một hoặc hai vị đồng tế luân phiên đọc. Ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

221. “Vì vậy, lạy Chúa”: lại một mình vị chủ tế chính dang tay đọc.

222. Từ “Lạy Chúa, xin thương ban phúc…” cho đến “Lạy Chúa toàn năng…”: chủ tế chính làm các cử chỉ, còn tất cả các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) “Lạy Chúa, xin thương ban phúc…”: giơ hai tay về phía lễ vật;

b) “Hôm trước ngày chịu khổ hình…” và “Cùng một thể thức ấy…” chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh Thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) “Vì vậy, lạy Chúa…” và “Xin Chúa ghé mắt nhân từ…” dang tay;

e) “Lạy Chúa toàn năng…” cúi mình và chắp hai tay lại, cho tới lời “là khi rước Mình và Máu Thánh Con Chúa…” thì đứng thẳng lên và làm dấu Thánh Giá trên mình khi đọc câu “chúng con được tràn đầy ơn phúc bởi trời.”

223. Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến…” và “Xin cũng cho chúng con là tôi tớ tội lỗi,” có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

224. Đến câu “Xin cũng cho chúng con là tôi tớ tội lỗi” các vị đồng tế cùng đấm ngực.

225. “Lạy Chúa, nhờ Người, Chúa hằng sáng tạo…” mình chủ tế chính đọc.

Kinh Nguyện Thánh Thể II

226. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, một mình chủ tế chính dang tay đọc: “Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng Thánh….”

227. Từ “Vì thế, chúng con nài xin Chúa…” cho đến “Chúng con cúi xin Chúa…,” các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) “Vì thế, chúng con nài xin Chúa”: giơ hai tay về phía lễ vật;

b) “Khi tự nguyện nộp mình” và “Cùng một thể thức ấy”: chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) “Vì vậy, lạy Chúa” và “Chúng con tha thiết nài xin Chúa”: dang tay.

228. Cầu cho người còn sống: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa,” và cầu cho người đã ly trần: “Xin Chúa cũng nhớ đến”: có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

Kinh Nguyện Thánh Thể III

229. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể III, một mình chủ tế chính dang tay đọc: “Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng Thánh....”

230. Từ “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con tha thiết nài xin Chúa…” cho đến “Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn…”: các vị đồng tế cùng đọc chung, theo cách thức sau đây:

a) “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin”: giơ hai tay hướng về lễ vật;

b) “Trong đêm bị trao nộp…” và “Cùng một thể thức ấy…”: chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình.

d) “Vì vậy, lạy Chúa…” và “Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn…”: dang tay.

231. Lời chuyển cầu: “Nguyện xin Chúa Thánh Thần” và “Lạy Chúa, chúng con nguyện xin của lễ hoà giải này”: có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

Kinh Nguyện Thánh Thể IV

232. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể IV, một mình chủ tế chính dang tay đọc “Lạy Cha chí Thánh…” cho đến “và hoàn tất công việc thánh hoá.”

233. Từ “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa” cho đến “Lạy Chúa, xin đoái nhìn hiến lễ…”: các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho Chúa Thánh Thần”: giơ hai tay hướng về lễ vật;

b) “Vậy, lạy Cha chí Thánh và cùng một thể thức ấy…” chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) “Vì vậy, lạy Chúa, giờ đây” và “Lạy Chúa, xin đoái nhìn”: dang tay.

234. Lời chuyển cầu: “Vậy, giờ đây, lạy Chúa, xin nhớ đến mọi người” có thể để một hai vị đồng tế đọc và ngài dang tay đọc lớn tiếng kinh này.

235. Còn về các Kinh Nguyện Thánh Thể khác đã được Toà Thánh phê chuẩn, thì hãy giữ những quy luật đã ấn định cho từng kinh.

236. Vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể chỉ được đọc bởi vị chủ tế chính, và nếu muốn, các vị đồng tế có thể cùng đọc với ngài, còn tín hữu thì không được đọc theo.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma 2002. Uỷ ban Phụng tự - HĐGM.VN chuyển ngữ. Lưu hành nội bộ.

Hội đồng Giám mục Việt Nam. “Cử hành Thánh Thể.” Truy cập ngày 20-5-2025, https://hdgmvietnam.com/tag?tagId=cu-hanh-thanh-the.

Giuseppe Carlo Cassaro. Guida pratica alla Liturgia. Padova: NXB. Àncora, 2021.

Một số tài liệu khác.



[1] x. Paul Turner, Ars celebrandi, 99-100.

[2] Quy chế Sách lễ có sự khác biệt: Thánh Lễ KHÔNG CÓ PHÓ TẾ: Linh mục trở lại bàn thờ, gom những mụn bánh, nếu có; rồi đứng tại bàn thờ hoặc tới bàn phụ mà gạt các mụn bánh trên đĩa thánh và trong bình thánh vào chén thánh; đoạn vừa tráng chén, vừa đọc thầm: “Lạy Chúa, miệng chúng con...” và dùng khăn lau chén mà lau. Nếu tráng chén trên bàn thờ, thì sau đó thừa tác viên sẽ đem bình và chén xuống bàn phụ. Cũng có thể để chén bình chưa tráng trên một khăn thánh ở bàn thờ hoặc bàn phụ, nhất là khi có nhiều, rồi phủ lại cách xứng hợp, để sau lễ, khi giải tán dân chúng rồi, sẽ tráng chén ngay (số 163). Thánh Lễ CÓ PHÓ TẾ: Cho rước lễ xong, cùng với Linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và sắp xếp như thường lệ; đang khi đó, Linh mục trở về ghế chủ toạ. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn thánh ở bàn phụ, phủ lại cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán dân chúng (số 183). Thánh Lễ ĐỒNG TẾ: Phần Máu Thánh còn lại, Phó tế cung kính rước hết tại bàn thờ; nếu cần thì nhờ vài vị đồng tế uống giúp, rồi đem chén xuống bàn phụ; tại đó, chính thầy hoặc thầy đã lãnh tác vụ Giúp Lễ tráng, lau và dọn dẹp chén như thường lệ (x. số 183) (số 247).

[3] x. Nguyễn Thế Thủ, “Hướng dẫn cử hành phụng vụ,” (Lưu hành nội bộ), 12-16.

[4] Trường hợp nhà thờ hết nước phép, để đáp ứng nhu cầu của giáo dân, thì cần làm phép nước thánh mới theo nghi thức quy định trong sách phụng vụ. Tuyệt đối không đổ nước mới vào một ít nước thánh cũ còn lại để tiếp tục sử dụng như kiểu “ma thuật” mà phụng vụ và Sách các phép thường xuyên nhắc nhở phải loại trừ (x. Thánh Bộ Phụng tự, Sách các phép Rôma (31.5.1984), Những điều cần biết trước, số 19.23.24b.27.1083-1084).

[5] Theo truyền thống được ghi lại trong LNGM (Caer. Ep. C. 33, n. 27seq) trước đây (trước năm 1984) và cuốn Handbook of Ceremonies for Priests and Seminarians của John Baptist Muller, SJ [trans. Andrew P. Ganss, SJ, 3rd edition (Freiburg: B. Herder, 1916), 132, 134-137], so với phụng vụ hiện nay, có thể có nhiều điều đã thay đổi nhưng vài điều sau đây vẫn còn giữ lại:

CHẦU THÁNH THỂ:

-  Đang khi cộng đoàn hát bài “Tantum ergo” thì mọi người cúi đầu/mình ở chỗ “Veneremur cernui”;

-  Chủ sự lấy hương bỏ vào bình hương ngay lập tức sau câu này hoặc thông thường là khi hát câu “Genitori, Genitoque”.

RẢY NƯỚC THÁNH

Đối tượng được chúc lành bằng cách rảy nước thánh thì (1) trước hết Linh mục rảy trực tiếp phía trước ngài, (2) rồi rảy ở bên trái ngài, và (3) rồi rảy bên phải ngài – như thế là theo dấu của hình thánh giá rộng (The object which is being blessed is sprinkled first directly in front of the priest, then to his left, and then to his right – tracing thus the form of a large cross) (John Baptist Muller, SJ, Handbook of Ceremonies for Priests and Seminariansi, 235). Từ đây chúng ta phải hiểu là (1) chỉ rẩy 3 lần chứ không phải 4 lần, (2) theo hình thánh giá nhưng chỉ có phía đầu và hai bên thôi thì mới thành 3 lần. Nói theo hình học thì rảy về phía đối tượng theo 3 góc của hình tam giác cân.

[6] x. Văn kiện trình bày và quy định Các giờ kinh phụng vụ, số 23; Giáo luật, điều 276, §,2, 30; 1175).

[7] QCSL, số 94.

[8] x. QCSL, số 171, d.

[9] Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, trong Sắc lệnh về việc luôn sử dụng dấu Thánh Giá trong các phép lành ban hành ngày 14/09/2002 (AAS 94 [2002] 684), nói rằng: “Trong truyền thống phụng vụ, đã có thói quen sử dụng dấu Thánh Giá trong các nghi thức ban phép lành, việc này được thực hiện bằng tay phải của vị chủ tế vẽ trên người hoặc vật thể mà lòng thương xót được cầu xin. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, để giải quyết các nghi vấn, quyết định rằng, ngay cả khi phần văn bản trong nghi thức Rôma có tiêu đề Về các Phép lành không đề cập đến hoặc im lặng bỏ qua việc thực hiện dấu này, hoặc không nêu rõ thời điểm thích hợp để thực hiện hành động đó, thì dấu Thánh Giá trên vẫn phải được các thừa tác viên thi hành trong bất kỳ phép lành nào như một yếu tố cần thiết. Khi văn bản không đề cập, thời điểm thích hợp sẽ được hiểu là lúc phần văn bản của phép lành có các từ như phép lành, chúc lành, hoặc từ tương tự, hoặc nếu không có các từ này thì thực hiện dấu Thánh Giá khi phép lành kết thúc.” Ngoài ra, LNGM số 67 chỉ rằng: khi làm dấu trên mình hoặc khi làm phép, thì Giám mục để tay trái trên ngực, trừ khi đang cầm vật gì. Vì thế, khi ban phép lành/làm phép, Linh mục/phó tế:

-  Tay trái đặt trên ngực, tay phải vẽ dấu Thánh Giá;

-  Kết thúc mọi phép lành với dấu Thánh Giá trên người và vật được chúc lành, thậm chí nếu điều này không được đề cập trong nghi thức.

[10] x. LNGM, số 67.

[11] x. LNGM, số 192.

[12] Những thừa tác viên cầm Thánh Giá - nến cao (đèn hầu) đi rước, thì cúi đầu thay vì cúi mình (x. QCSL, số 274).

[13] x. QCSL, số 109.

[14] x. QCSL, số 172.

[15] x. QCSL, số 172.

[16] x. LNGM, số 80.

[17] x. QCSL, số 173.

[18] x. LNGM, số 130.

[19] x. QCSL, số 117.

[20] x. QCSL, số 173.

[21] x. QCSL, số 173.

Nếu có một Phó tế thì thực hành “giúp chủ tế bỏ hương” sẽ như sau: thầy Phó tế cầm tàu hương; chủ tế làm phép hương bằng dấu Thánh Giá và không đọc gì cả. Sau đó, Phó tế cầm lấy bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho chủ tế (x. LNGM, số 90, 127).

Khi giúp bỏ hương, người cầm bình hương đứng đối diện TAY TRÁI của chủ tế, người cầm tàu hương đứng đối diện TAY PHẢI của chủ tế. Nếu chủ tế bỏ hương trước bàn thờ thì người cầm bình hương và tàu hương cùng di chuyển qua BÊN PHẢI của chủ tế, và đứng theo cách như vừa nói. Cách nhớ khi đưa bình hương: nếu đứng bên TRÁI chủ tế thì đưa bình hương hướng ra phía TRƯỚC, nếu đứng bên PHẢI thì đưa bình hương hướng ra phía SAU.

Phó tế [giúp lễ chính] tháp tùng cùng Giám mục/Linh mục khi xông hương bàn thờ (x. LNGM, số 131, 149; Edward McNamara, Vai trò tháp tùng của thầy Phó tế lúc xông hương là như thế nào?; Nguyễn Thế Thủ, Huấn luyện giúp lễ, 46-47, 54)

Phó tế [giúp lễ chính] sẽ cùng hôn bàn thờ với chủ tế (x. QCSL, số 173). Khi hôn bàn thờ, theo luật phụng vụ hiện hành, không có sự phân biệt về tư thế của thầy Phó tế và Linh mục/Giám mục liên quan đến việc chạm tay vào bàn thờ (x. Edward McNamara, Phó tế vĩnh viễn được chạm tay vào bàn thờ ở đầu lễ không?).

[22] x. QCSL, số 174; 310.

[23] x. QCSL, số 171, a.

[24] Những gì được thực hiện trong trường hợp truyền chức Giám mục liên quan đến vị trí ghế của những vị đồng tế, việc sử dụng cũng có thể được mở rộng cho tất cả các buổi cử hành tương tự (x. LNGM, số 490).

[25] Các câu xướng hay câu chuyển nghĩa (số nhiều tropi, số ít là tropus) trong phụng vụ là các đoạn văn hoặc từ ngữ được thêm vào trong các bài thánh thi cố định của Thánh lễ, đặc biệt là trong Kinh Vinh Danh (Gloria) và Kinh Thánh Thánh Thánh (Santus). Tropi được sử dụng phổ biến trong thời kỳ Trung cổ để làm phong phú thêm hoặc diễn giải ý nghĩa của các phần cố định trong phụng vụ. Các tropi thường có tính chất thi ca và được xen vào giữa các câu hoặc cụm từ của những bài ca đã có sẵn. Mục đích của chúng là làm tăng thêm vẻ trang trọng, tính biểu cảm, và đôi khi giúp làm rõ hơn nội dung của bài hát trong bối cảnh phụng vụ. Ví dụ, trong Kinh Kyrie (Kinh Thương Xót), những lời cầu nguyện hoặc lời kêu gọi khác có thể được thêm vào giữa các câu của Kinh, tạo thành một câu xướng (tropus). Tuy nhiên, việc sử dụng tropi đã giảm bớt sau Công đồng Trento và đặc biệt là sau cải cách phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, để duy trì sự đơn giản và thống nhất trong phụng vụ. (Chú thích của người dịch)

[26] x. QCSL, số 176. Dù người dẫn lễ có đọc lời dẫn trước các bài đọc nhưng người đọc sách vẫn luôn phải đọc “Bài trích sách…” hoặc “Bài trích thư…” hoặc “Tin Mừng Chúa Giêsu…” (x. Mục lục các bài đọc trong Thánh Lễ (1981), số 121). Tiêu đề duy nhất được đọc lên là câu chỉ ra tên của cuốn Sách Thánh/Thánh Thư được công bố, hoặc, tác giả của bản văn/tác phẩm đó. Ví dụ: “Bài trích thư thánh Phaolô tông đồ gởi Timôthê”; “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh…” (x. Notitiae 14 [1978] 303, no. 5). Không có lời dẫn lễ trước bài Tin Mừng.

Nên hát lời chào, câu xướng “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô...” và “Đó là Lời Chúa” để cộng đoàn cũng đáp lại bằng cách hát như vậy, mặc dầu chỉ đọc bài Tin Mừng. Bằng cách này, tầm quan trọng của bài Tin Mừng được đề cao hầu khơi dậy đức tin các tín hữu (x. Mục lục các bài đọc trong Thánh Lễ (1981), số 17; Uỷ Ban Thánh Nhạc – HĐGM.VN, Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc 2022, số 158). Linh mục/Phó tế xướng câu “Đó là Lời Chúa” (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 16; QCSL, số 134, 175) nhưng không giơ cao Sách Thánh lên, vì câu “Đó là Lời Chúa” trước tiên quy chiếu đến bản văn vừa được công bố chứ không phải đến cuốn sách chứa đựng bản văn.

[27] QCSL, số 175.

[28] x. LNGM, số 140.

[29] QCSL, số 175; x. LNGM, số, 140.

[30] LNGM, số 74; x. QCSL, số 175.

[31] QCSL, số 175; LNGM, số 141.

[32] x. LNGM, số 74.

[33] QCSL, số 175; x. LNGM, số 141.

[34] QCSL, số 171, c; x. QCSL, số 66.

[35] x. QCSL, số 171, d; 177.

[36] Chủ tế [cùng với thầy Phó tế/người giúp lễ hỗ trợ ngài] nhận lễ phẩm tại một nơi thuận tiện, và đưa lên bàn thờ. Nghi thức trước đây (năm 1965) cho phép Linh mục đồng tế nhận lễ vật cùng với chủ tế, nhưng quy định hiện nay chỉ đề cập đến vị chủ tế nhận lễ phẩm với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác (x. QCSL, số 140, 178; LNGM, số 145). Thông thường, nơi thuận tiện cho chủ tế đứng tiếp nhận lễ phẩm là ở trước bàn thờ (chân bàn thờ)/lối vào cung thánh (x. QCSL, số 73-74, 178, 190, 140, 105; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, số 1350).

Theo Đức ông (nay là Giám mục) Peter J. Elliott, trong cẩm nang nghi lễ thực hành của ngài, ĐỂ TRẢI KHĂN THÁNH:

  Hãy cầm khăn thánh (lấy ra từ túi đựng khăn thánh, nếu có) bằng bàn tay phải, và đặt nó bằng phẳng ở trung tâm bàn thờ, vẫn còn gấp, cách mép của bàn thờ khoảng 15 cm (5 inch), hoặc hơn nữa nếu mở khăn thánh lớn.

  Mở nó ra, đầu tiên bên trái của bạn, sau đó bên phải của bạn, do đó nhìn thấy ba ô vuông.

  Mở ra phần xa nhất kể từ bạn, mở xa khỏi chính bạn, do đó nhìn thấy sáu ô vuông.

  Cuối cùng, mở ra phần gần nhất kể từ bạn, mở ra về phía chính bạn, do đó nhìn thấy tất cả chín ô vuông. Sau đó, hãy điều chỉnh khăn thánh để nó cách mép của bàn thờ khoảng 3 cm (1 inch) là vừa. CÔNG THỨC: TRÁI trước – PHẢI sau – XA ra – GẦN cuối.

Nếu có một hình thánh giá thêu trên một trong các ô vuông trung tâm bên ngoài, hãy xoay khăn thánh sao cho hình thánh giá là gần bạn nhất.

ĐỂ GẤP KHĂN THÁNH, hãy làm ngược lại các bước trên. Do đó, hãy gấp ba ô vuông phía trước bạn ra xa bạn, sau đó gấp ba ô vuông ở xa về phía bạn và cuối cùng mang ô vuông bên phải vào và ô vuông bên trái vào ô vuông trung tâm còn lại, để hoàn tất quá trình. CÔNG THỨC: GẦN xuống – XA lên – PHẢI qua – TRÁI lại.

Lúc chuẩn bị lễ vật, thứ tự dọn như sau:

  Bình đựng bánh thánh: Phó tế bên tay trái Linh mục chủ tế lo dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ giữa cho chén chủ tế.

  Chén đồng tế: Phó tế bên tay phải Linh mục chủ tế dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ giữa cho chén chủ tế. Vị trí trang trọng luôn phải được dành cho chén thánh và đĩa thánh của chủ tế, được đặt trực tiếp ngay trước mặt ngài (x. Edward McNamara, Cách xếp đặt nhiều Chén Thánh và Bình Thánh trên bàn thờ). Lưu ý: không để sẵn chén chủ tế ở giữa, mà phải trao cho Linh mục chủ tế sau khi ngài đã dâng bánh xong (x. QCSL, số 178).

 Sơ đồ:

Để thuận lợi cho việc dọn bàn thờ, nên mang ra theo thứ tự sau:

 Khăn thánh;

 Khay bình đựng bánh thánh;

‒ Khay chén đồng tế [đã rót rượu trong phòng thánh];

 Khay đĩa và chén chủ tế;

 Nước rửa tay (bên phải của người giúp lễ) và khăn lau tay (bên trái của người giúp lễ).

[37] x. QCSL, số 178, 277; LNGM, số 96, 149.

[38] QCSL, số 178. Chủ tế chỉ thêm một chút nước vào trong chén rượu [được làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ Giáo luật, điều 924). Theo nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu (x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House, 1986), 67). Nước chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa. Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art. “Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ. Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa” (x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical - Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).

Theo giáo sư phụng vụ Antonio Sorrentino: “Nước phải được hoà vào rượu trong mỗi chén thánh” (Antonio Sorrentino, Liturgia in Frammenti, Risposte a 500 quesiti liturgici (Salerno: NXB. Dottrinari 2022), 93). Trong khi đó, theo giáo sư McNamara và một vài người khác thì cho rằng: việc chỉ hoà nước vào chén thánh chính hay vào tất cả các chén đều không sai (x. McNamara, “Water and Multiple Chalices”, trong https://www.scribd.com/document/158365992/CBCP-Monitor-Vol-17-No-13). Ở chỗ khác, Đức Tổng Giám mục J. Augustine Di Noia, O.P., Tổng Thư ký của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, trong một văn bản gửi cho Đức Tổng Giám mục Gregory Aymond, Chủ tịch Ủy ban Phụng tự HĐGM Hoa Kỳ, khẳng định rằng: “Chỉ cần hoà nước vào chén thánh chính là đủ” (x. https://www.usccb.org/resources/newsletter-2012-05-and-06.pdf). Ngài cũng nói thêm rằng: tất nhiên, sẽ không bị coi là sự lạm dụng phụng vụ nếu đổ nước vào tất cả các chén rượu khác. Giáo luật điều 924, khoản 1, quy định: “Hiến Tế Thánh Thể phải được tiến dâng với bánh và rượu nho có pha một chút nước lã.” Vì thế, trong phòng thánh, Ban Phụng vụ rót sẵn rượu vào các chén đồng tế. Khi dọn ra bàn thờ, Phó tế không cần rót thêm nước.

Chủ tế chỉ thêm một chút nước vào trong chén rượu [được làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ Giáo luật, điều 924). Theo nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu (x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House, 1986), 67). Nước chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa. Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art. “Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ. Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa” (x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical - Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).

[39] x. LNGM, số 149.

Trong Thánh Lễ đồng tế do Đức Giám mục chủ tế, đến phần chuẩn bị lễ vật, Phó tế sẽ xông hương Đức Giám mục, tiếp đến xông hương các vị đồng tế, rồi sau đó đến dân chúng (x. LNGM, số 96, 149). Nếu chủ tế là một Linh mục thì cũng làm như vậy, tức là xông hương Linh mục chủ tế trước, tiếp đó là các vị đồng tế và sau cùng là dân chúng. KHI XÔNG HƯƠNG CHO CHỦ TẾ THÌ CỘNG ĐOÀN ĐỨNG.

[40] QCSL, số 153. Trước lúc truyền phép một chút, thừa tác viên có thể tuỳ nghi rung chuông để nhắc nhở tín hữu. Cũng rung chuông khi nâng Mình Thánh, và khi nâng Máu Thánh lên, tuỳ theo thói quen mỗi địa phương (x. QCSL, số 150). Ngoài các thời điểm này, không rung chuông.

[41] QCSL, số 179.

[42] x. QCSL, số 171, b.

[43] QCSL, số 215.

[44] LNGM, số 153.

[45] Ibid., 155.

[46] QCSL, số 179; LNGM, số 155.

[47] Abitualmente trong tiếng Ý hay usually trong tiếng Anh. (Chú thích của người dịch)

[48] Editio typica là một phiên bản của Sách lễ Rôma được xuất bản bằng tiếng Latinh năm 1970 và bằng tiếng Ý năm 1973. (Chú thích của người dịch)

[49] QCSL, số 179; x. LNGM, số 155.

[50] x. QCSL, số 180.

[51] x. QCSL, số 181. KHÔNG NÓI:Anh chị em chúng ta hãy chúc bình an cho nhau” (x. Thông cáo tháng 04/1991 của HĐGM.VN).

[52] x. QCSL, số 240.

[53] x. QCSL, số 182; 244.

Nếu Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa ĐẶT TRONG CUNG THÁNH, thì Linh mục, Phó tế và các thừa tác viên cúi mình khi đến bàn thờ hoặc khi rời bàn thờ, nhưng không cúi mình trước Nhà Tạm đang khi cử hành Thánh Lễ (x. QCSL, số 274).

Vào các Thánh Lễ đông Linh mục đồng tế, không nhất thiết phải phân phát Mình Thánh cho từng Linh mục ngay lúc bẻ bánh, có thể đưa Mình và Máu Thánh cho các Linh mục đồng tế sau khi chủ tế rước lễ xong (x. QCSL, số 248-249). Linh mục chủ tế rước lễ trước tiên, sau đó đến các vị đồng tế. Các Phó tế sẽ nhận Mình Thánh Chúa từ tay chủ tế khi ngài đã rước lễ xong (x. QCSL, số 182, 244, 249). Khi Linh mục hoặc Phó tế trao Mình Thánh hoặc Máu Thánh cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô” (x. QCSL, số 242, Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 98). Sau khi chủ tế rước lễ, Phó tế và một số Linh mục đồng tế cho giáo dân rước lễ. Khi không đủ số Phó tế và Linh mục thì mới nhờ đến các thừa tác viên ngoại lệ. Trong số các thừa tác viên ngoại lệ, thầy đã lãnh tác vụ Giúp lễ đứng hàng đầu. Thừa tác viên ngoại lệ chỉ tiến tới bàn thờ sau khi Linh mục chủ tế rước lễ xong, và người này luôn nhận Bình đựng Mình Thánh từ tay chủ tế (x. QCSL, số 162).

Khi Thánh Lễ được cử hành cho một đám đông quần chúng, ví dụ, như trong các thành phố lớn, phải chăm chú đừng để những người không Công Giáo hay cả những người không phải là Kitô hữu, vì không biết, đi rước lễ, mà không kể đến Huấn Quyền của Giáo Hội về mặt tín lý cũng như về mặt kỷ luật. Quyền của các mục tử là phải báo trước, đúng lúc, cho các người hiện diện nơi cử hành biết chân lý và kỷ luật phải được tuân thủ chặt chẽ (Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 84).

[54] x. QCSL, số 171, e.

[55] x. QCSL, số 171, e; 182-183; 247; 279. Sau khi truyền phép, phải TUYỆT ĐỐI TRÁNH sang Máu Thánh Chúa Kitô từ chén này qua chén khác, để tránh xúc phạm đến mầu nhiệm cực đại dường ấy (x. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 106). Cho rước lễ xong, nếu còn lại rượu đã được truyền phép, thì Linh mục hoặc Phó tế uống hết ngay tại bàn thờ. Nếu còn bánh đã truyền phép, thì hoặc rước hết tại bàn thờ, hoặc đem đến nơi cất Mình Thánh (x. QCSL, số 163, 182, 279).

Việc tráng chén, Quy chế Sách lễ có sự khác biệt: Thánh Lễ KHÔNG CÓ PHÓ TẾ: Linh Mục trở lại bàn thờ, gom những mụn bánh, nếu có; rồi đứng tại bàn thờ hoặc tới bàn phụ mà gạt các mụn bánh trên đĩa thánh và trong bình thánh vào chén thánh; đoạn vừa tráng chén, vừa đọc thầm: “Lạy Chúa, miệng chúng con...” và dùng khăn lau chén mà lau. Nếu tráng chén trên bàn thờ, thì sau đó thừa tác viên sẽ đem bình và chén xuống bàn phụ. Cũng có thể để chén bình chưa tráng trên một khăn thánh ở bàn thờ hoặc bàn phụ, nhất là khi có nhiều, rồi phủ lại cách xứng hợp, để sau lễ, khi giải tán dân chúng rồi, sẽ tráng chén ngay (số 163). Thánh Lễ CÓ PHÓ TẾ: Cho rước lễ xong, cùng với Linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và sắp xếp như thường lệ;[55] đang khi đó, Linh mục trở về ghế chủ toạ. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn thánh ở bàn phụ, phủ lại cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán dân chúng (số 183). Thánh Lễ ĐỒNG TẾ: Phần Máu Thánh còn lại, Phó Tế cung kính rước hết tại bàn thờ; nếu cần thì nhờ vài vị đồng tế uống giúp, rồi đem chén xuống bàn phụ; tại đó, chính thầy hoặc thầy đã lãnh tác vụ Giúp Lễ tráng, lau và dọn dẹp chén như thường lệ (x. số 183) (số 247). Có thể tráng chén sau khi rước lễ hoặc sau Thánh Lễ. Tráng chén bằng rượu và nước, hoặc bằng nước thôi, rồi người tráng chén đó uống nước tráng ấy. Đĩa Thánh thường được lau bằng khăn lau chén thánh.

[56] QCSL, số 184.

[57] QCSL, số 185.

[58] x. QCSL, số 186; 251.

[59] QCSL, số 208.

[60] LNGM, số 22; x. QCSL, số 122.

[61] x. QCSL, số 212; LNGM, số 74; 173.

[62] x. QCSL, số 239.

[63] LNGM, số 26; x. QCSL, số 122.

[64] Gậy mục tử: Giám mục dùng trong địa giới của mình. Tuy nhiên, Giám mục nào cũng có thể dùng khi cử hành long trọng nếu Giám mục địa phương đồng ý. Nhưng khi có nhiều Giám mục hiện diện trong một cử hành thì chỉ Giám mục chủ sự cầm gậy mà thôi. Thường thì Giám mục cầm gậy, đầu cong quay về phía dân chúng cũng là về phía trước mình: khi đi kiệu, khi nghe đọc Phúc Âm, khi giảng lễ, khi nhận lời khấn, lời hứa hoặc lời tuyên xưng đức tin, và sau cùng khi chúc lành cho người ta, trừ khi phải đặt tay (x. LNGM, số 59).

Mũ mitra: thường thì Giám mục dùng mũ khi ngồi, khi giảng lễ, khi chào, khi huấn dụ, khi dẫn nhủ, trừ khi ngay sau đó phải bỏ mũ ra, khi ban phép lành trọng thể cho dân chúng, khi làm những cử chỉ bí tích, khi đi kiệu. Nhưng Giám mục KHÔNG dùng mũ khi đọc các kinh nguyện dẫn nhập, khi đọc các lời nguyện, khi đọc lời nguyện chung, khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể, khi đọc Phúc Âm, khi đứng hát các thánh thi, khi đi kiệu trong đó có mang Mình Thánh hoặc gỗ Thánh Giá Chúa Giêsu, trước Mình Thánh được trưng bày ra. Giám mục được phép không dùng mũ và gậy khi đi từ nơi này sang nơi kia mà quãng cách ngắn hẹp (x. LNGM, số 60).

Nếu có Phó tế thì thầy giúp lễ đưa mũ, gậy cho Phó tế để trao cho Đức Giám mục.

[65] x. QCSL, số 120, 188, 194; LNGM, số 128 [linh động, tuỳ hoàn cảnh].

[66] Những thừa tác viên cầm Thánh Giá - nến cao (đèn hầu) đi rước, thì cúi đầu thay vì cúi mình (x. QCSL, số 274).

[67] Trong đoàn rước, trừ một số thừa tác viên đặc biệt sẽ đi một mình, còn các thừa tác viên khác thì đi theo hàng đôi chứ không phải hàng một (x. LNGM, số 128).

[68] Hai Phó tế giúp lễ chính cho Giám mục/Linh mục sẽ cùng hôn bàn thờ với ngài (x. QCSL, số 173). Khi hôn bàn thờ, theo luật phụng vụ hiện hành, không có sự phân biệt về tư thế của thầy Phó tế và Linh mục/Giám mục liên quan đến việc chạm tay vào bàn thờ (x. Edward McNamara, Phó tế vĩnh viễn được chạm tay vào bàn thờ ở đầu lễ không?).

QCSL, số 211: Khi tới bàn thờ, các vị đồng tế và chủ tế chính cúi mình và lên hôn kính bàn thờ rồi về chỗ của mình. Còn chủ tế chính tuỳ nghi xông hương Thánh Giá và bàn thờ, rồi cũng về ghế của mình.

[69] x. LNGM, số 131, 149; Edward McNamara, Vai trò tháp tùng của thầy Phó tế lúc xông hương là như thế nào?; Nguyễn Thế Thủ, Huấn luyện giúp lễ, 46-47, 54.

[70] Linh mục xông hương liên tục khi đi quanh bàn thờ, không phân biệt giữa bàn thờ và chân bàn thờ (x. Notitiae 14 [1978] 301-302, no. 2).

[71] x. QCSL, số 120-123, 172-174, 188, 194, 277; LNGM, số 90, 128.

[72] Nghi thức Thánh Lễ, số 2: “Linh mục dang tay chào cộng đoàn”; LNGM, số 132: “Với hai tang dang ra, Đức Giám mục chào chúc dân chúng...” Vì thế, chủ tế dang tay ra ngay khi bắt đầu câu chào chúc rồi từ từ khép tay lại ở cuối lời chào chúc. Cử chỉ dang tay này khác với cử chỉ dang tay cầu nguyện (x. LNGM, 104).

[73] Kinh Vinh Danh được hát hoặc đọc trong các Chúa Nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, trong các lễ trọng và lễ kính, và trong các cử hành đặc biệt khá long trọng (x. QCSL, số 53). “Một dịp cử hành đặc biệt có phần long trọng” là dịp cử hành được xét là diễn ra cách trọng thể hoặc với một số lượng lớn người tham dự (Notitiae 6 [1970] 263, no. 33).

[74] Đây là cử điệu của người đang cầu nguyện/van nài được thực hiện trong tư thế đứng, khuỷu tay sát vào hai bên thân thể và hai tay dang ra, còn lòng bàn tay thì ngửa hướng lên trên như chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước (2 Mcb 14,34;15,12.21; G 11,13-15; Tv 68,32…) (x. Charles Herbermann, ed., “Orans,” Catholic Encyclopedia (New York: Robert Appleton Company, 1913).

[75] QCSL, số 54: Lời nguyện Nhập lễ thường hướng về Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và kết bằng câu kết dài có tính Ba Ngôi, như sau:

- Nếu hướng về Chúa Cha: “Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa (Cha), là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa (Cha) trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”

- Nếu lời nguyện hướng về Chúa Cha, nhưng cuối lời nguyện đã nhắc tới Chúa Con, thì: “Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa (Cha), trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”

- Nếu hướng về Chúa Con, thì: “Chúa là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”

Cộng đoàn kết hợp với lời nguyện và thưa lời tung hô “Amen” để nhận lời nguyện làm của mình. Trong Thánh Lễ, luôn CHỈ ĐỌC MỘT LỜI NGUYỆN NHẬP LỄ DUY NHẤT.

[76] x. QCSL, số 131-132, 175; LNGM, số 84-98.

[77] Nên hát lời chào, câu xướng “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô...” và “Đó là Lời Chúa” để cộng đoàn cũng đáp lại bằng cách hát như vậy, mặc dầu chỉ đọc bài Tin Mừng. Bằng cách này, tầm quan trọng của bài Tin Mừng được đề cao hầu khơi dậy đức tin các tín hữu (x. Mục lục các bài đọc trong Thánh Lễ (1981), số 17; Uỷ Ban Thánh Nhạc – HĐGM.VN, Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc 2022, số 158). Linh mục/Phó tế xướng câu “Đó là Lời Chúa” (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 16; QCSL, số 134, 175) nhưng không giơ cao Sách Thánh lên, vì câu “Đó là Lời Chúa” trước tiên quy chiếu đến bản văn vừa được công bố chứ không phải đến cuốn sách chứa đựng bản văn.

[78] Kinh Tin Kính phải do Linh mục hát hoặc đọc chung với cộng đoàn vào các Chúa Nhật và lễ trọng; cũng có thể đọc trong những cử hành đặc biệt khá long trọng (x. QCSL, số 68). “Một dịp cử hành đặc biệt có phần long trọng” là dịp cử hành được xét là diễn ra cách trọng thể hoặc với một số lượng lớn người tham dự (Notitiae 6 [1970] 263, no. 33).

[79] QCSL, số 71.

[80] Chủ tế [cùng với thầy Phó tế/người giúp lễ hỗ trợ ngài] nhận lễ phẩm tại một nơi thuận tiện, và đưa lên bàn thờ. Nghi thức trước đây (năm 1965) cho phép Linh mục đồng tế nhận lễ vật cùng với chủ tế, nhưng quy định hiện nay chỉ đề cập đến vị chủ tế nhận lễ phẩm với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác (x. QCSL, số 140, 178; LNGM, số 145). Thông thường, nơi thuận tiện cho chủ tế đứng tiếp nhận lễ phẩm là ở trước bàn thờ (chân bàn thờ)/lối vào cung thánh (x. QCSL, số 73-74, 178, 190, 140, 105; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, số 1350)

Theo Đức ông (nay là Giám mục) Peter J. Elliott, trong cẩm nang nghi lễ thực hành của ngài, ĐỂ TRẢI KHĂN THÁNH:

 Hãy cầm khăn thánh (lấy ra từ túi đựng khăn thánh, nếu có) bằng bàn tay phải, và đặt nó bằng phẳng ở trung tâm bàn thờ, vẫn còn gấp, cách mép của bàn thờ khoảng 15 cm (5 inch), hoặc hơn nữa nếu mở khăn thánh lớn.

 Mở nó ra, đầu tiên bên trái của bạn, sau đó bên phải của bạn, do đó nhìn thấy ba ô vuông.

 Mở ra phần xa nhất kể từ bạn, mở xa khỏi chính bạn, do đó nhìn thấy sáu ô vuông.

 Cuối cùng, mở ra phần gần nhất kể từ bạn, mở ra về phía chính bạn, do đó nhìn thấy tất cả chín ô vuông. Sau đó, hãy điều chỉnh khăn thánh để nó cách mép của bàn thờ khoảng 3 cm (1 inch) là vừa. CÔNG THỨC: TRÁI trước – PHẢI sau – XA ra – GẦN cuối.

Nếu có một hình thánh giá thêu trên một trong các ô vuông trung tâm bên ngoài, hãy xoay khăn thánh sao cho hình thánh giá là gần bạn nhất.

ĐỂ GẤP KHĂN THÁNH, hãy làm ngược lại các bước trên. Do đó, hãy gấp ba ô vuông phía trước bạn ra xa bạn, sau đó gấp ba ô vuông ở xa về phía bạn và cuối cùng mang ô vuông bên phải vào và ô vuông bên trái vào ô vuông trung tâm còn lại, để hoàn tất quá trình. CÔNG THỨC: GẦN xuống – XA lên – PHẢI qua – TRÁI lại.

Lúc chuẩn bị lễ vật, thứ tự dọn như sau:

 Bình đựng bánh thánh: Phó tế bên tay trái Linh mục chủ tế lo dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ giữa cho chén chủ tế.

 Chén đồng tế: Phó tế bên tay phải Linh mục chủ tế dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ giữa cho chén chủ tế. Vị trí trang trọng luôn phải được dành cho chén thánh và đĩa thánh của chủ tế, được đặt trực tiếp ngay trước mặt ngài (x. Edward McNamara, Cách xếp đặt nhiều Chén Thánh và Bình Thánh trên bàn thờ). Lưu ý: không để sẵn chén chủ tế ở giữa, mà phải trao cho Linh mục chủ tế sau khi ngài đã dâng bánh xong (x. QCSL, số 178).

[81] Chủ tế chỉ thêm một chút nước vào trong chén rượu [được làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ Giáo luật, điều 924). Theo nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu (x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House, 1986), 67). Nước chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa. Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art. “Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ. Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa” (x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical - Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).

Theo giáo sư phụng vụ Antonio Sorrentino: “Nước phải được hoà vào rượu trong mỗi chén thánh” (Antonio Sorrentino, Liturgia in Frammenti, Risposte a 500 quesiti liturgici (Salerno: NXB. Dottrinari 2022), 93). Trong khi đó, theo giáo sư McNamara và một vài người khác thì cho rằng: việc chỉ hoà nước vào chén thánh chính hay vào tất cả các chén đều không sai (x. McNamara, “Water and Multiple Chalices”, trong https://www.scribd.com/document/158365992/CBCP-Monitor-Vol-17-No-13). Ở chỗ khác, Đức Tổng Giám mục J. Augustine Di Noia, O.P., Tổng Thư ký của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, trong một văn bản gửi cho Đức Tổng Giám mục Gregory Aymond, Chủ tịch Ủy ban Phụng tự HĐGM Hoa Kỳ, khẳng định rằng: “Chỉ cần hoà nước vào chén thánh chính là đủ” (x. https://www.usccb.org/resources/newsletter-2012-05-and-06.pdf). Ngài cũng nói thêm rằng: tất nhiên, sẽ không bị coi là sự lạm dụng phụng vụ nếu đổ nước vào tất cả các chén rượu khác. Giáo luật điều 924, khoản 1, quy định: “Hiến Tế Thánh Thể phải được tiến dâng với bánh và rượu nho có pha một chút nước lã.” Vì thế, trong phòng thánh, Ban Phụng vụ rót sẵn rượu vào các chén đồng tế. Khi dọn ra bàn thờ, Phó tế không cần rót thêm nước.

Chủ tế chỉ thêm một chút nước vào trong chén rượu [được làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ Giáo luật, điều 924). Theo nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu (x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House, 1986), 67). Nước chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa. Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art. “Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ. Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa” (x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical - Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).

[82] x. QCSL, số 178, 277; LNGM, số 96, 149.

[83] “Meum ac vestrum – của tôi cũng là của anh chị em” (Nghi thức Thánh Lễ, số 29): dù Thánh Lễ đồng tế, Linh mục chủ tế vẫn luôn luôn đọc là “của tôi.”

[84] QCSL, số 77: Trong Thánh Lễ CHỈ ĐỌC MỘT LỜI NGUYỆN TIẾN LỄ và kết bằng câu kết ngắn, nghĩa là: “Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.” Nhưng nếu ở cuối lời nguyện vừa nói tới Chúa Con, thì đọc: “Người hằng sống và hiển trị muôn đời.”

[85] x. Sách lễ Rôma: Thánh Lễ và lời nguyện cho các nhu cầu – cầu cho các Linh mục.

[86] Kinh Tiền Tụng IV theo bản dịch Nghi thức Thánh Lễ năm 2005 của HĐGM.VN. Bản hát lấy theo Cung chủ tế của Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hoà (HĐGM.VN imprimatur: 08/09/2012).

[87] Lời đối đáp mở đầu kinh Tiền tụng là một trong những lời đối đáp quan trọng nhất của Thánh lễ, vì thế rất nên hát, nhất là vào ngày Chúa nhật và các dịp long trọng khác (Uỷ Ban Thánh Nhạc – HĐGM.VN, Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc 2022, số 168). Khi đọc/hát câu “Chúa ở cùng anh chị em”, chủ tế mở và khép tay như lời chào cộng đoàn, còn mắt hướng thì về dân chúng. Với câu “Hãy nâng tâm hồn lên”, ngài nâng tay lên cao ít là ở tầm ngang mắt với mong ước tất cả mọi người hãy tập trung chú ý vào Kinh Nguyện long trọng này (x. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 131). Rồi ngài hạ thấp tay xuống ở mức bình thường khi đọc/hát câu “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta” để đi vào cử chỉ dang tay cầu nguyện “orans”, chứ không phải chắp tay lại như cách cử hành trước đây nữa (Ritus servantus in celebratione Missae [Missale Romanum 1962], VII, n. 8) vì đây là tiếng nói tạ ơn Thiên Chúa của cả cộng đoàn mà chỉ một mình chủ tế cất lời tạ ơn như vị đại diện: ngài muốn mời gọi tất cả mọi người hợp ý với mình trong Kinh nguyện Thánh Thể (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 31; QCSL, số 148; Elliot, Ceremonies of the Modern Roman Rite, no. 281).

[88] Trước lúc truyền phép một chút, thừa tác viên có thể tuỳ nghi rung chuông để nhắc nhở tín hữu. Cũng rung chuông khi nâng Mình Thánh, và khi nâng Máu Thánh lên, tuỳ theo thói quen mỗi địa phương (x. QCSL, số 150). Ngoài các thời điểm này, không rung chuông.

Trước kinh Khấn xin Chúa Thánh Thần, Phó tế/Linh mục đồng tế nhớ lấy tấm đậy khỏi chén thánh cũng như lấy nắp của bình thánh ra, và có thể đậy chén thánh lại sau truyền phép (x. LNGM, số 155).

Các phần mà tất cả các vị đồng tế cùng đọc, thì các vị đồng tế phải đọc nhỏ tiếng để tiếng của chủ tế chính được nghe rõ. Như vậy, cộng đoàn sẽ dễ nghe hơn (QCSL, số 218).

[89] x. QCSL, số 218.

Khi đọc kinh Epiclesis này trước truyền phép, luật chữ đỏ quy định: “Linh mục chủ tế sáp hai tay lại, đặt trên lễ vật và đọc” (x. NTTL, số 101, 109, 118; QCSL, số 226-228; LNGM, số 106; Notitiae, 1, 1965, 143: DOL 223, no. 1810, note R8); chính xác hơn nữa là ngón cái của bàn tay phải đè lên trên ngón cái của bàn tay trái và giữ đôi tay không sát gần lễ vật quá mà cũng không cao quá trên lễ vật. Theo truyền thống, nay các vị đồng tế ở xa bàn thờ cũng sáp hai tay lại, úp tay xuống và đưa tay hướng về phía lễ vật; còn các vị đồng tế ở sát bàn thờ thì sáp hai tay lại, úp tay xuống vừa hướng về lễ phẩm vừa “ở trên” lễ phẩm (x. QCSL, số 222a, 227a, 230a, 233a, 235; LNGM, số 106).

Khi làm dấu trên mình hoặc khi làm phép, thì Giám Mục để tay trái trên ngực, trừ khi đang cầm vật gì. Nhưng khi đứng ở bàn thờ mà tay phải làm phép của lễ hay các cái gì khác, thì tay trái đặt trên bàn thờ, trừ khi có chú thích thể khác (LNGM, số 108). Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, trừ Kinh nguyện Thánh Thể I, chủ tế ghi hình thánh giá vào thời điểm đọc Kinh Khấn xin Chúa Thánh Thần (“để trở nên cho chúng con, Mình và + Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”). Ngài bắt đầu với hai bàn tay chắp lại, rồi ghi hình Thánh Giá bằng tay phải trên lễ phẩm trong khi tay trái của ngài đặt trên bàn thờ ở ngoài khăn thánh. Bàn tay phải, với các ngón tay khép lại và duỗi thẳng ra, được giữ vuông góc với bàn thờ khi ghi hình thánh giá. Dấu thánh giá được ghi không quá lớn rộng ra ngoài cả mép của khăn thánh, cũng không nên hạ thấp bàn tay hay các ngón tay nhưng luôn giữ chúng trên cùng một mặt phẳng (x. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonies de la Sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 133).

[90] x. Notitiae 1 [1965], 143: DOL 223, no. 1810, note R8; QCSL 222, 227, 230, 233).

[91] Cử chỉ/hành động: theo đúng chỉ dẫn của Nghi thức Thánh Lễ, nghĩa là: (1) chủ tế cầm lấy một tấm bánh chứ không phải cầm lấy đĩa hay bình thánh (X. Paul Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), no. 567); (2) chủ tế tuyệt đối không được phép bẻ bánh đang khi đọc câu: “Bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói…” (x. Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 55).

[92] Khi xướng câu “Đây là mầu nhiệm đức tin”, chủ tế không dùng hai tay chỉ vào Mình Máu Thánh trên bàn thờ vì câu xướng này không chỉ giới hạn vào sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu mà các tín hữu phải dùng đức tin mà nhìn nhận, nhưng đúng hơn muốn diễn tả toàn bộ đạo lý Kitô giáo hay toàn bộ mầu nhiệm cứu độ nhờ công trình Chúa chịu chết, phục sinh, lên trời và nay đang hiện thực ở đây trong cử hành Thánh Thể (x. Jungmann, Missarum sollemnia, II editio – Wien 1949, II pars, no. 269 ss); McNamara, “Omitting the Mysterium Fidei” (22 May 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/omitting-the-mysterium-fidei-4899). Trừ trường hợp chỉ có chủ tế và các vị đồng tế hiện diện trong Thánh lễ, các vị đồng tế không cùng với dân chúng tung hô đáp lại câu xướng của chủ tế vì đây là cuộc đối đáp giữa chủ tế và dân chúng và câu tung hô thì chỉ thuộc về dân chúng (x. Turner, Ars Celebrandi, 134).

[93] Tư tế trước hết nêu Tông hiệu của Đức Giáo hoàng đương kim mà không cần nêu con số. Tiếp đến, nêu danh tính của Đức Giám mục đang cai quản giáo phận hoặc Đức Giám mục giám quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng cấp với Giám mục giáo phận theo luật (x. Hiến chế Lumen gentium, số 22-23; Sắc lệnh Christus Dominus, số 6; Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1369; ĐGH Biển Đức XVI, Sacramentum caritatis, số 39; André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 41). Nếu có thể, tư tế nêu thêm tên của Đức Giám mục phó hoặc Đức Giám mục Phụ tá (Notitiae 45 (2009) 308-320).

Tư tế không nêu tên của: (1) các Giám mục khác đang hiện diện, cho dù ngài là chủ tế (x. McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009), https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-bishops-in-the-eucharistic-prayers-4503.); (2) Đức Giám mục về hưu; (3) Linh mục giám quản (Sắc lệnh Cum de nomine (09/10/1972): Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694; X. McNamara, “When the Holy See Is Vacant (19 Feb. 2013 & 26 Feb. 2013), https://www.ewtn.com/catholicism/library/when-the-holy-see-is-vacant-4668; McNamara, “Coadjutors in the Eucharistic Prayer” (20 Nov. 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/coadjutors-in-the-eucharistic-prayer-13307).

Tư tế không đọc các danh hiệu/tước vị nào khác của Đức Giám mục hay Đức Giám mục giám quản (như Tổng Giám mục, Hồng y Tổng Giám mục hay Giám quản tông toà) mà chỉ đơn giản đọc như trong bản văn của Sách Lễ Rôma: “Đức Giám mục T. chúng con…” (x. USCCB, Committee on Divine Worship, “The Naming of the Pope and the Bishop in the Eucharistic Prayer,” Newsletter, Vol. XLIX (Mar. 2013).).

[94] Khi sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể II và III: việc nêu tên người quá cố/ý lễ chỉ áp dụng đối với các Thánh Lễ: [1] an táng; [2] lễ sau khi được tin báo tử; lễ giỗ đầu (x. QCSL, số 355, 381) (x. Notitiae 5 (1969), 325, n. 4); [3] lễ giỗ mãn tang (theo tục lệ Việt Nam) trong đó chắc chắn phải sử dụng bài lễ “Thánh lễ cầu cho người đã qua đời” và mặc lễ phục màu tím (x. QCSL, số 346d). Nên nhớ rằng trong Thánh Lễ nào Hội Thánh cũng có cầu cho kẻ sống và người chết, và trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể đều có nhớ đến những người quá cố rồi (x. Notitiae 5 [1969] 325, n. 4; QCSL, số 355) (x. McNamara, “Mentioning the Mass Intention” (9 Oct. 2007), https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-the-mass-intention-4390; Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Hướng dẫn về Lòng Đạo đức Bình dân và Phụng vụ (17/12/2001), no. 255; Joyce Ann Zimmerman, “The Choice of the Mass and Its Parts,” trong A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, ed. Foley, et al., 411; Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, nos. 312, 314; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 355).

[95] Không tuỳ tiện thêm bất cứ tên thánh nào khác theo ý thích của tư tế vào trong các Kinh nguyện Thánh Thể II, IV, hoặc Kinh nguyện Thánh Thể Hoà Giải (I và II) vì các Kinh nguyện Thánh Thể này không được dự liệu cho trường hợp đó (x. Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, nos. 312, 316). Nếu tư tế muốn đọc thêm tên thánh bảo trợ, thánh sáng lập Dòng, thánh mừng kính trong ngày…, ngài nên chọn đọc Kinh nguyện Thánh Thể III (NTTL, số 113), hay nếu vào dịp đúng, sử dụng một trong số những Kinh nguyện Thánh Thể dùng trong các dịp hội họp (I, II, III, IV) (x. Notitiae 14 [1978] 594-595, n. 17.).

[96] x. QCSL, số 151, 180.

[97] Theo hướng dẫn của Hội Thánh, chỉ một mình chủ tế xướng Vinh tụng ca hoặc nếu có các Linh mục đồng tế, các ngài có thể cùng đọc/hát với chủ tế. Các tín hữu khác không được trực tiếp đọc/hát Vinh tụng ca, nhưng tham gia bằng đức tin và thinh lặng, sau đó là bằng lời tung hô Amen long trọng (x. QCSL, số 79, 236, 151; LNGM, số 158; Cử hành Thánh Lễ, số 199; Ecclesia de Mysterio, số 6, §.2; Redemptionis sacramentum, số 54). Do bản chất đối đáp của kinh nguyện, Vinh tụng ca được kết thúc bởi lời đáp Amen của toàn thể cộng đoàn nhưng không phải của chủ tế, nghĩa là chủ tế không đọc/hát Amen (x. QCSL, số 79, 151, 180; LNGM, số 158). Các vị đồng tế cũng không đọc/hát Amen long trọng dù các ngài có cùng chủ tế đọc/hát Vinh tụng ca hay không, trừ trường hợp vừa không có sự hiện diện của giáo dân, vừa các vị đồng tế hiện diện không đọc/hát Vinh tụng ca.

[98] x. QCSL, số 154, 181, 239.

[99] KHÔNG NÓI:Anh chị em chúng ta hãy chúc bình an cho nhau” (x. Thông cáo tháng 04/1991 của HĐGM.VN).

[100] x. QCSL, số 82, 154, 239; Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 72; Thông cáo năm 2001 của HĐGM.VN; Uỷ ban Phụng tự - HĐGM.VN, Cử hành Thánh Lễ (2023).

[101] Vào các Thánh Lễ đông Linh mục đồng tế, không nhất thiết phải phân phát Mình Thánh cho từng Linh mục ngay lúc bẻ bánh, có thể đưa Mình và Máu Thánh cho các Linh mục đồng tế sau khi chủ tế rước lễ xong (x. QCSL, số 248-249). Linh mục chủ tế rước lễ trước tiên, sau đó đến các vị đồng tế. Các Phó tế sẽ nhận Mình Thánh Chúa từ tay chủ tế khi ngài đã rước lễ xong (x. QCSL, số 182, 244, 249). Khi Linh mục hoặc Phó tế trao Mình Thánh hoặc Máu Thánh cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô” (x. QCSL, số 242, Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 98). Sau khi chủ tế rước lễ, Phó tế và một số Linh mục đồng tế cho giáo dân rước lễ. Khi không đủ số Phó tế và Linh mục thì mới nhờ đến các thừa tác viên ngoại lệ. Trong số các thừa tác viên ngoại lệ, thầy đã lãnh tác vụ Giúp lễ đứng hàng đầu. Thừa tác viên ngoại lệ chỉ tiến tới bàn thờ sau khi Linh mục chủ tế rước lễ xong, và người này luôn nhận Bình đựng Mình Thánh từ tay chủ tế (x. QCSL, số 162).

[102] Nếu Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa ĐẶT TRONG CUNG THÁNH, thì Linh mục, Phó tế và các thừa tác viên cúi mình khi đến bàn thờ hoặc khi rời bàn thờ, nhưng không cúi mình trước Nhà Tạm đang khi cử hành Thánh Lễ (x. QCSL, số 274).

[103] Sau khi truyền phép, phải TUYỆT ĐỐI TRÁNH sang Máu Thánh Chúa Kitô từ chén này qua chén khác, để tránh xúc phạm đến mầu nhiệm cực đại dường ấy (x. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn thị Bí tích Cứu Độ, số 106). Cho rước lễ xong, nếu còn lại rượu đã được truyền phép, thì Linh mục hoặc Phó tế uống hết ngay tại bàn thờ. Nếu còn bánh đã truyền phép, thì hoặc rước hết tại bàn thờ, hoặc đem đến nơi cất Mình Thánh (x. QCSL, số 163, 182, 279).

Việc tráng chén, Quy chế Sách lễ có sự khác biệt: Thánh Lễ KHÔNG CÓ PHÓ TẾ: Linh Mục trở lại bàn thờ, gom những mụn bánh, nếu có; rồi đứng tại bàn thờ hoặc tới bàn phụ mà gạt các mụn bánh trên đĩa thánh và trong bình thánh vào chén thánh; đoạn vừa tráng chén, vừa đọc thầm: “Lạy Chúa, miệng chúng con...” và dùng khăn lau chén mà lau. Nếu tráng chén trên bàn thờ, thì sau đó thừa tác viên sẽ đem bình và chén xuống bàn phụ. Cũng có thể để chén bình chưa tráng trên một khăn thánh ở bàn thờ hoặc bàn phụ, nhất là khi có nhiều, rồi phủ lại cách xứng hợp, để sau lễ, khi giải tán dân chúng rồi, sẽ tráng chén ngay (số 163). Thánh Lễ CÓ PHÓ TẾ: Cho rước lễ xong, cùng với Linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và sắp xếp như thường lệ;[103] đang khi đó, Linh mục trở về ghế chủ toạ. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn thánh ở bàn phụ, phủ lại cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán dân chúng (số 183). Thánh Lễ ĐỒNG TẾ: Phần Máu Thánh còn lại, Phó Tế cung kính rước hết tại bàn thờ; nếu cần thì nhờ vài vị đồng tế uống giúp, rồi đem chén xuống bàn phụ; tại đó, chính thầy hoặc thầy đã lãnh tác vụ Giúp Lễ tráng, lau và dọn dẹp chén như thường lệ (x. số 183) (số 247). Có thể tráng chén sau khi rước lễ hoặc sau Thánh Lễ. Tráng chén bằng rượu và nước, hoặc bằng nước thôi, rồi người tráng chén đó uống nước tráng ấy. Đĩa Thánh thường được lau bằng khăn lau chén thánh.

[104] QCSL, số 89, trong Thánh Lễ, chỉ có MỘT LỜI NGUYỆN HIỆP LỄ, được kết bằng câu kết ngắn, nghĩa là:

-  Nếu lời nguyện hướng về Chúa Cha, thì kết: “Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”;

-  Nếu lời nguyện hướng về Chúa Cha, nhưng cuối lời nguyện nhắc đến Chúa Con, thì kết: “Người hằng sống và hiển trị muôn đời”;

-  Nếu lời nguyện hướng về Chúa Con, thì kết: “Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.”

[105] Trong Thánh Lễ mở tay của tân Linh mục:

  Không công bố sắc lệnh của Toà Ân giải Tối cao về việc ban Phép lành Toà Thánh cùng với Ơn toàn xá. 

  Nếu muốn, có thể trích đọc Sổ bộ các ân xá: “Ơn toàn xá được ban cho tân Linh mục nhân dịp cử hành Thánh Lễ mở tay trước đoàn dân vào một ngày đã chọn; và ban cho các tín hữu sốt sắng tham dự Thánh Lễ này ((Enchiridion Indulgentiarum: Normae et Concessiones (1999), “Concessiones,” số 27), nhưng Ơn toàn xá ở đây không đi kèm với hành vi ban Phép lành Toà Thánh theo công thức được quy định (x. Uỷ Ban Phụng Tự/HĐGM.VN, Thông báo về việc Ban Phép lành Toà Thánh với Ơn toàn xá (2018)).

  Vì tân Linh mục không ban Phép lành Toà Thánh cùng với Ơn toàn xá như trước cho nên không sử dụng công thức cũ nữa (Tân Linh mục: Chúa ở cùng anh chị em/Mọi người: Và ở cùng cha - Tân Linh mục: Hãy chúc tụng Danh Chúa/Mọi người: Từ bây giờ và cho đến muôn đời - Tân Linh mục: Ơn phù trợ chúng ta ở nơi Danh Chúa/Mọi người: Là Đấng Tạo Thành trời đất - Tân Linh mục: Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha X và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em/Mọi người: Amen). Thay vào đó, vào lúc cuối lễ, tân Linh mục có thể sử dụng bất cứ công thức chúc lành nào đã được ấn định trong Sách Lễ theo thời gian và mùa phụng vụ (x. Phạm Đình Ái, Ban Phép lành Toà Thánh trong Thánh Lễ mở tay).

  Ơn toàn xá này chỉ được ban 01 lần, trong 01 Thánh Lễ do tân Linh mục chọn.

Để hưởng được Ơn toàn xá thì cần phải tuân giữ “các điều kiện thông thường”:

  Xưng tội bí tích, thường là trong vòng 20 ngày trước hoặc sau khi hưởng ân xá. Một lần xưng tội bí tích là đủ cho nhiều ân xá.

  Rước lễ. Không giống như việc xưng tội, người ta chỉ có thể hưởng một ân xá cho một lần rước lễ. Mặc dù việc rước lễ này có thể được thực hiện nhiều ngày trước hoặc sau khi hưởng ân xá, tốt hơn là điều kiện này nên được hoàn thành trong cùng một ngày. Vì vậy, những người xưng tội thường xuyên và Thánh Lễ hàng ngày có thể hưởng một Ơn toàn xá thực tế mỗi ngày.

  Cầu nguyện theo ý của Đức Giáo Hoàng. Cũng giống như việc rước lễ, việc cầu nguyện theo ý của Đức Giáo Hoàng phải được đọc để hưởng mỗi Ơn toàn xá. Mặc dù không có các kinh được quy định, điều kiện cầu theo ý Giáo Hoàng được thực hiện, bằng cách đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng.

  Cần giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi hình thức của tội. Việc giữ tâm hồn hoàn toàn không dính bén với bất cứ hình thức tội lỗi nào là điều kiện khó nhất, như thể việc dính bén với tội nhẹ cũng loại trừ cơ hội có thể lãnh ân xá. Tuy nhiên, hãy lưu ý là điều kiện này không phải là tình trạng thoát khỏi tất cả mọi tội nhẹ, mà là tình trạng dính bén với tội lỗi; tức là không có tội nào mà linh hồn lại không muốn từ bỏ. Một sự dính bén là một rối loạn khách quan, một sự từ chối để sửa đổi một tình huống, và người liên quan nhận thức về nó. Do đó, đừng nhầm lẫn với sự yếu đuối của con người bình thường, hoặc sự việc rằng nhiều người, có lẽ hầu hết chúng ta, có xu hướng lặp lại các lỗi phạm tương tự nhiều lần trước khi thắng vượt chúng. Nếu đúng như vậy, chắc chắn sẽ gần như không thể có được bất cứ ân xá nào (x. Edward McNamara, Ân xá gồm những gì, và điều kiện nào để hưởng ân xá?).

[106] Khi đọc câu chúc lành trọng thể, Linh mục giơ hai tay trên dân chúng, cánh tay ngài hướng thẳng về cộng đoàn, hai lòng bàn tay úp xuống như trong Kinh nguyện Thánh Thể (episclesis) nhưng giơ cao hơn và hai bàn tay tách ra chứ không sáp lại, rồi đọc từng câu phép lành. Cần nâng giọng cuối mỗi câu để cộng đoàn có thể biết và thưa Amen cách nhịp nhàng (Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, no. 355; André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012)180).

[107] Khi ban phép lành cho dân chúng, chủ tế đặt tay trái trên ngực mình, giơ tay phải ban phép lành và nói: “Xin Thiên Chúa toàn năng, là Cha, và Con (+), và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em”, còn cộng đồng cúi đầu và thưa: “Amen” (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 141). Trong thực tế, tất cả mọi người hiện diện đều cúi đầu khi nhận phép lành và làm dấu thánh giá trên mình (The Editors, “Gestures and Postures of the Congregation at Mass” Adoramus (Feb. 2010, vol. XV, no. 10), https://adoremuno.org/2010/02/gestures-and-postures/; André Mutel et Peter Freeman, 41; Catholic Bishops’ Conference of England and Wales, Celebrating the Mass (London: Catholic Truth Society and Colloquium [CaTEW] Ltd., 2005), no. 224; U.S. Conference of Catholic Bishops, Introduction to the Order of Mass: A Pastoral Resource of the Bishops’ Committee on the Liturgy (2003), no. 146) dẫu rằng cả Nghi thức Thánh lễ và Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma đều không đề cập thực hành này (x. André Mutel et Peter Freeman, 41; Turner, Let Us Pray, no. 807; J.R. Lilburne, Ministers in Masses, no. 312 (15 April 2002), https://www.romanrite.com/masseno.htmlno.anchorintroduction). Sở dĩ có thực hành “cúi đầu khi nhận phép lành và làm dấu thánh giá trên mình” như vậy là vì mọi phép lành nói chung có liên quan đến danh Ba Ngôi Thiên Chúa thì theo một thực hành đã có từ xưa mà đã trở thành một tập tục/truyền thống bất thành văn, người nhận lãnh phép lành sẽ cúi đầu/quỳ xuống và làm dấu thánh giá (x. Peter Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite (San Francisco: Ignatius Press, 2004)no. 365).

[108] Theo QCSL, số 250: Trong nghi thức kết thúc, chủ tế chính làm mọi việc khác cho tới cuối lễ như thường lệ (x. số 166-169), còn các vị đồng tế cứ ở tại chỗ.” Cho nên, trong nghi thức kết thúc, chỉ có vị chủ tế mới ban phép lành cho cộng đoàn, các Linh mục (và cả Giám mục) đồng tế không cùng ban phép lành chung với vị chủ tế (x. Edward McNamara, Giải đáp một số vấn đề phụng vụ; Phạm Đình Ái, Toàn thân con xin ca tụng Chúa, 228-229).

[109] x. Sách lễ Rôma: Các công thức Ban phép lành cuối lễ – Thường niên 4.

[110] QCSL, số 251: Trước khi rời khỏi bàn thờ, các vị đồng tế cúi mình trước bàn thờ. Còn chủ tế chính thì kính cẩn hôn bàn thờ như thường lệ.

Học viện Thánh Anphongsô