Cầu nguyện - sức mạnh của đời tông đồ


Cầu nguyện - sức mạnh của đời tông đồ


Phêrô Trần Văn Chung

 

Có thể nói sứ mạng tông đồ là công việc chính yếu của toàn thể Hội Thánh, cách riêng là của các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT). Bởi vì, đây là sứ mạng mà Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Là những người môn đệ đi theo Chúa, mỗi chúng ta luôn có bổn phận loan truyền và công bố Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, để thực hiện công việc này, thì đòi hỏi mỗi người phải được ở lại và chìm sâu trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa, hầu được nuôi dưỡng và kín múc  nguồn sức mạnh thiêng liêng. Thế nhưng, điều này chỉ có thể thực hiện được ngang qua đời sống cầu nguyện.

Khi nói đến cầu nguyện, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (SGLHTCG) định nghĩa rằng: “Cầu nguyện là việc nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, hay cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp.”[1] Thật vậy, cầu nguyện là một ân ban nhưng không đến từ Thiên Chúa, qua đó Người biểu lộ tình yêu bằng việc đi bước trước và thông ban ân sủng cho con người. Tuy nhiên, cầu nguyện cũng cần sự đáp trả tự do của con người trong sự tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Điều này, được thể hiện rõ hơn qua những câu chuyện trong Cựu Ước.

I. NỀN TẢNG CẦU NGUYỆN TRONG CỰU ƯỚC

Suốt dòng chảy cứu độ, lịch sử cựu ước đã mặc khải cho chúng ta thấy được sự tương giao đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, được thể hiện qua các vị trung gian cầu nguyện. Trong đó, có những khuôn mặt tiêu biểu phải kể đến đó là ông Abraham và ông Môsê. Đối với Abraham, Thiên Chúa đã chủ động đi bước trước để ngỏ lời và can dự vào cuộc đời lúc ông đã về già, để nhờ ông một dân tộc mới sẽ ra đời: “Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc lớn và sẽ chúc phúc cho người” (x. Xh 12, 2). Chính qua cuộc trò chuyện, đàm thoại với Thiên Chúa, Abraham đã nuôi dưỡng và củng cố cho mình một lòng tin vững mạnh để vâng phục sẵn sàng bước đi trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Qua hình ảnh rời bỏ xứ sở quê hương để đi đến một vùng đất vô định, không biết trước hay ngay cả lúc bị thử thách phải sát hại con trai duy nhất của mình để hiến tế cho Thiên Chúa, thì ông vẫn luôn trung thành và tin tưởng vào Thiên Chúa. Hơn nữa, cũng chính nhờ lòng tin, Abraham đã can đảm bước đi trước nhan Thiên Chúa để chuyển cầu cho dân thành Sơđôm và Gômôra khỏi án phạt. Và cũng chính lòng tin đã giúp ông trở thành cha của những kẻ có lòng tin (x. Rm 4, 11-12).

Bên cạnh ông Abraham, chúng ta còn thấy một mẫu gương khác đó là ông Môsê, người được Thiên Chúa chọn để dẫn dắt, hướng dẫn dân Israel. Lời cầu nguyện của ông được mặc khải từ biến cố bụi gai bốc cháy, qua việc Thiên Chúa ngỏ lời để mời gọi ông giải thoát và dẫn dắt dân Israel ra khỏi Ai cập (x. Xh 3,10). Qua việc hiện diện đối thoại trực tiếp với Thiên Chúa, ông Môsê đã có đủ can đảm và sức mạnh để đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa và bước đi trong kế hoạch cứu độ của Người. Bên cạnh đó, có những lúc dân bất tuân phản bội chống lại Thiên Chúa thì nhờ việc cầu nguyện, ông Môsê lại có đủ tin tưởng để cầu xin cho dân thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (x. Xh 32). Ngoài ra, trong suốt hành trình sa mạc, nhờ việc cầu nguyện và trò chuyện thân mật với Thiên Chúa (x. Xh 33,11) ông Môsê đã có đủ sức mạnh để dẫn dắt dân tới miền đất hứa, theo lệnh của Thiên Chúa. Ngoài hai mẫu gương trên thì trong Cựu Ước còn có nhiều vị thủ lãnh, ngôn sứ khác được Thiên Chúa tuyển chọn sai đến với dân. Hơn nữa, chính họ cũng luôn gắn bó và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa để luôn có đủ niềm tin, sức mạnh chuyển cầu cho dân và dẫn dắt dẫn bước đi trong đường lối tình yêu của Thiên Chúa (x. Xh 10, 12-13).

II. ĐỨC CHÚA GIÊSU - MẪU GƯƠNG CẦU NGUYỆN TRỌN HẢO

Khi chiêm ngắm cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy mặc dù Người là con Thiên Chúa nhưng trong nhân tính, Đức Giêsu vẫn luôn luôn cầu nguyện. Và có thể nói, cả cuộc đời của Người là một cuộc cầu nguyện không ngừng. Ngay từ thuở thiếu thời, Người đã bắt đầu tập làm quen với việc cầu nguyện. Người học cầu nguyện từ nơi Mẹ Người là Đức Trinh Nữ Maria (SGLCG số 2599). Bằng những công thức nếp sống trong gia đình, bằng những kinh nguyện truyền thống dân tộc và nhất là bằng những kinh nghiệm, những giá trị mà Người đã trải qua và đúc kết được từ trong cuộc sống, đã giúp Đức Giêsu đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa Cha, giống như tâm tình của một người con thổ lộ trò chuyện với người cha của mình. Và cũng trong chính tương giao cá vị ấy, đã thôi thúc Đức Giêsu luôn bận tâm thao thức về công việc của cha “sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết con còn có việc bổn phận của nhà cha con sao” (x. Lc 2,49).

Không những thế, khi bước vào sứ vụ công khai, thì Đức Giêsu càng cầu nguyện với Chúa Cha nhiều hơn nữa. Theo Tin Mừng, trước và sau khi làm việc Đức Giêsu đều cầu nguyện (x. Mt 14,13-21;Ga 11,41-42), có những lúc Người phải thức suốt đêm cầu nguyện để hỏi ý kiến Cha: Như trước khi chọn 12 Tông đồ (x. Lc 6, 12-13), hay trước khi bước vào hành trình cuộc khổ nạn, nơi vườn Giêtsêmani (x. Lc 22, 39-46). Chính những lúc tâm sự, trò chuyện với Chúa Cha, Đức Giêsu kín múc được nguồn sức mạnh an ủi để vượt thoát khỏi những cám dỗ, những sợ hãi và can đảm đón nhận chén đắng sứ mạng mà Cha trao phó. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha” ( Mt 26,39). Hơn nữa, chính trên đỉnh cao của thập giá, Chúa Giêsu cũng đã dùng lời cầu nguyện để xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ đóng đinh Người: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23,34). Như vậy cho thấy cả cuộc đời của Đức Giêsu từ khi sinh ra cho đến khi chết trên thập giá là một lời cầu nguyện hiến tế trọn vẹn dâng lên Chúa Cha, để khai mở ơn cứu độ cho nhân loại.

III. ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN CỦA THÁNH ANPHONGSÔ

“Ai cầu nguyện thì được cứu rỗi, ai không cầu nguyện thì bị luận phạt” là câu châm ngôn nổi tiếng mà thánh Anphongsô để lại cho các hậu thế, nhằm giúp mỗi người luôn ý thức để nhận chân ra được tầm quan trọng và giá trị của cầu nguyện. Sở dĩ thánh nhân nói như vậy, là vì trong suốt cuộc đời, từ lúc còn nhỏ, sống trong mái ấm gia đình cho đến lúc trở thành tu sĩ và sống trong Nhà Dòng, ngài đã luôn luôn sống đời cầu nguyện. Bởi vậy, có thể nói cả cuộc đời của ngài là một cuộc đời chìm sâu trong cầu nguyện, trong sự tương quan mật thiết cá vị với Thiên Chúa. Điều đó, được thể hiện khi trong mỗi ngày sống thánh nhân đã dành rất nhiều thời gian cho việc cầu nguyện, và dù ở trong hoàn cảnh nào, làm việc hay nghỉ ngơi, hay trong những lúc mệt mỏi chán nản thì ngài luôn hiện diện và tâm sự trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Chính sự tương giao mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, Thánh Anphongsô đã được ánh sáng Chúa soi dẫn để rồi nhận ra thánh ý của Người qua ba lần kinh nghiệm “Xuất Hành” sâu xa về những con người nghèo khổ nơi vùng đất Napoli.[2] Chính những kinh nghiệm ấy, đã khiến thánh nhân nuôi dưỡng tình yêu và lòng khao khát phục vụ những người nghèo khổ, tất bạt để rồi từ đó khai sinh ra Dòng Chúa Cứu Thế. Ngoài ra, cũng nhờ việc cầu nguyện và chiêm niệm, Thánh Anphongsô đã khám phá ra mầu nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Máng cỏ, Thập giá, Thánh Thể và nơi Đức Maria. Đó là dòng linh đạo tình yêu mà thánh nhân đã kín múc được để rồi từ đó xây dựng nên nền tảng trụ cột cho sứ mạng của Nhà Dòng.

IV.   TU SĨ DCCT - TÔNG ĐỒ CỦA CẦU NGUYỆN

Là những môn đệ của Thánh Anphongsô cùng bước theo chân Chúa Giêsu Cứu Thế, các tu sĩ có sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho những người nghèo, người bị bỏ rơi và tất bạt (x. HP 1). Thế nhưng, để thực hiện sứ mạng này, thì trước hết các tu sĩ phải là những chuyên viên của Lời Chúa, là những con người yêu mến và đắm chìm trong đời sống cầu nguyện. Như hiến pháp của DCCT số 28 nói rõ: “Với tư cách là thừa tác viên mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô ở giữa loài người, các tu sĩ phải năng đến với Lời hằng sống và Lời tác sinh sự sống của Ngài và đắm chìm trong Lời Chúa bằng việc đọc Kinh Thánh lẫn cử hành Lời Chúa trong cộng đoàn”. Hơn nữa, đó cũng chính là lời mà Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Thật vậy, chỉ khi ở lại trong Chúa, và để cho Chúa hướng dẫn, đồng hành thì cuộc đời của mỗi chúng ta mới thực sự trở nên giá trị và ý nghĩa. Bởi vì, khi ở trong Chúa, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng và soi dẫn bằng Lời của Người, được kín múc và dung nạp những nguồn sống từ Người, đó có thể là những nguồn năng lượng, những chất xúc tác cần thiết để bổ trợ và nâng đỡ cho sứ mạng thừa sai của chúng ta. Hơn nữa, chính khi ở lại trong Chúa, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để vững tin tiến bước, có đủ lòng mến để trao ban phục vụ tha nhân, và có đủ lòng nhiệt thành để dấn thân cho sứ mạng tông đồ. Bởi vì, những ai ở lại trong Chúa thì đều được tình yêu của Người lôi kéo và thúc bách (x. 2Cr 5,14). Mặt khác, nếu chúng ta không đến và ở lại trong Chúa, cũng như để cho Người hướng dẫn thì đời tu của chúng ta sẽ mất đi sự kết nối hiệp thông với Chúa và sẽ trở nên nhạt nhẽo và mất đi nhựa sống. Vì vậy, cũng giống như cành nho tách rời khỏi thân nho và trở nên khô héo, thì đời tông đồ của chúng ta cũng vậy, nếu không gắn kết với Chúa, thì chúng ta sẽ chẳng làm gì được (x. Ga 15, 4-5). Và lúc đó, chúng ta vẫn là những kẻ nghèo, những kẻ đáng thương, chẳng có gì để trao ban và phục vụ tha nhân.

Tóm lại, đời sống cầu nguyện vẫn luôn là nhu cầu thiết yếu trong sứ mạng tông đồ. Bởi vì, đó là chìa khóa duy nhất để khai mở các cánh cửa, giúp chúng ta đi vào trong sự tương quan cá vị với Thiên Chúa, là phương dược quý giá để hàn gắn và chữa lành tâm hồn, và là chất liệu quan trọng để nhen nhúm và làm bùng cháy ngọn lửa nhiệt thành thừa sai của chúng ta. Chính vì thế, đời sống cầu nguyện phải luôn đi đôi với đời sống sứ mạng tông đồ, và cả hai cũng hỗ trợ và bổ túc cho nhau.

 

[1] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2559.

[2] Linh Đạo Dòng Chúa Cứu Thế, 62.


Học viện Thánh Anphongsô