Tải file về tại đây:
- De Benedictionibus (1984) - bản Latin.pdf
- Nghi thức Chúc lành cho các con vật (trích De Benedictionibus, số 721-744) - bản Latin.pdf
- Nghi thức Chúc lành cho các con vật - bản tiếng Việt.doc

NGHI THỨC
CHÚC LÀNH CHO CÁC CON VẬT
(De Benedictionibus, số 721-744)
1. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC
Vì theo sự quan phòng của Đấng Tạo Hoá, nhiều con vật được tham dự một cách nào đó vào cuộc sống của con người,
vì chưng hoặc chúng phụ giúp họ làm việc
hoặc, thậm chí đem lại cho họ thức ăn
và niềm an ủi,
vì thế không có gì ngăn cản là trong một dịp nào đó, ví dụ trong lễ của một vị
Thánh, thường có thói quen cầu Chúa ban phúc lành xuống trên những con vật này.
Cả Linh mục, cả Phó tế, thậm chí cả giáo dân cũng
có thể sử dụng nghi thức này, tuy nhiên phải theo những nghi thức và những công
thức đã tiên liệu.
Để việc cử hành được thích ứng với những hoàn cảnh, có thể lấy một ít phần từ nghi thức này, nhưng luôn phải giữ lại cấu trúc và những phần quan trọng hơn của nghi thức.
Khi chỉ chúc lành cho một hai con vật, hoặc chúc lành cho các con vật vào một dịp khác, thì cũng có thể sử dụng nghi thức vắn đề nghị dưới đây ở các số 741-744.
2. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH CÁC PHÉP LÀNH [DE BENEDICTIONIBUS]
De Benedictionibus [Sách Các phép lành] được Thánh Bộ Phụng tự ban hành ngày 31/05/1984. Bản
Latin có hiệu lực ngay từ khi xuất bản.
Sách có 5 phần, gồm 41 chương:
Chương 1:
Nghi thức chúc lành cho gia đình và các người trong gia đình (số 40-289)
Chương 2:
Nghi thức chúc lành cho bệnh nhân (số 290-320)
Chương 3:
Nghi thức chúc lành cho những người được sai đi loan báo Tin Mừng (số 321-360)
Chương 4: Những
nghi thức chúc lành cho những người dạy hoặc học giáo lý và cầu nguyện chung (số
361-387)
Chương 5:
Nghi thức chúc lành cho các đội ngũ phục vụ các nhu cầu công cộng (số 388-403)
Chương 6:
Nghi thức chúc lành cho những người hành hương (số 404-430)
Chương 7:
Nghi thức chúc lành cho người đi đường (số 431-452)
Chương 8:
Nghi thức chúc lành cho việc khởi công xây dựng một ngôi nhà (số 456-473)
Chương 9:
Nghi thức chúc lành cho nhà mới (số 474-491)
Chương 10:
Nghi thức chúc lành cho Chủng viện mới (số 492-514)
Chương 11:
Nghi thức chúc lành cho nhà mới của các tu sĩ (số 515-537)
Chương 12:
Nghi thức chúc lành cho trường học hay đại học mới (số 538-563)
Chương 13:
Nghi thức chúc lành cho thư viện mới (số 564-581)
Chương 14:
Nghi thức chúc lành cho nhà điều dưỡng và bất cứ nhà nào để chăm sóc cho bệnh
nhân (số 582-598)
Chương 15:
Nghi thức chúc lành cho văn phòng, xưởng thợ và tiệm buôn (số 599-616)
Chương 16:
Nghi thức chúc lành cho cơ sở truyền thông xã hội (số 617-633)
Chương 17:
Nghi thức chúc lành cho các cơ sở và những nơi tập thể dục (số 634-650)
Chương 18:
Nghi thức chúc lành cho tất cả những phương tiện giao thông (số 651-677)
Chương 19:
Nghi thức chúc lành cho một số dụng cụ kỹ thuật đặc biệt (số 678-697)
Chương 20:
Nghi thức chúc lành cho các dụng cụ lao động (số 698-720)
Chương
21: Nghi thức chúc lành cho các con vật (số 721-744)
Chương 22:
Nghi thức chúc lành cho ruộng đồng, trang trại và đồng cỏ (số 745-764)
Chương 23:
Nghi thức chúc lành dịp dâng hoa quả đầu mùa (số 765-781)
Chương 24:
Nghi thức chúc lành của ăn (số 782-827)
Chương 25:
Nghi thức chúc lành cho bể hay giếng rửa tội mới (số 832-876)
Chương 26: Các
nghi thức chúc lành khi bắt đầu sử dụng ghế Giám mục hoặc ghế chủ toạ, bục
giảng, nhà tạm và toà giải tội mới (số 877-942)
Chương 27:
Nghi thức chúc lành cho cửa mới của nhà thờ (số 943-959)
Chương 28:
Nghi thức chúc lành cho Thánh Giá mới, đặt công khai cho người ta tôn kính (số 960-983)
Chương 29:
Nghi thức chúc lành cho ảnh tượng trưng bày nơi công cộng để tín hữu tôn kính (số
984-1031)
Chương 30:
Nghi thức chúc lành cho chuông (số 1032-1051)
Chương 31:
Nghi thức chúc lành cho đàn mới (số 1052-1067)
Chương 32:
Nghi thức chúc lành cho các đồ dùng trong khi cử hành phụng vụ (số 1068-1084)
Chương 33:
Nghi thức chúc lành cho nước ngoài Thánh Lễ (số 1085-1096)
Chương 34:
Nghi thức chúc lành cho Chặng Đàng Thánh Giá (số 1097-1114)
Chương 35:
Nghi thức chúc lành cho nghĩa trang (số 1115-1136)
Chương 36:
Nghi thức chúc lành cho những đồ ăn, thức uống và những thứ khác do lòng sùng
kính (số 1139-1161)
Chương 37:
Nghi thức chúc lành cho những đồ vật dùng trong việc đạo đức và sùng kính (số 1162-1182)
Chương 38:
Nghi thức chúc lành chuỗi mân côi (số 1183-1207)
Chương 39:
Nghi thức chúc lành và mặc áo Dòng Ba (số 1208-1224)
Chương 40:
Nghi thức chúc lành để tạ ơn Chúa về những ơn lành đã được (số 1226-1243)
Chương 41:
Nghi thức chúc lành trong những hoàn cảnh khác nhau (số 1244-1271)
3. NGHI THỨC CHÚC LÀNH CHO CÁC CON VẬT








a. Bản Latin (De Benedictionibus, số 721-744)
CAPUT XXI
ORDO BENEDICTIONIS ANIMALIUM
Praenotanda
721. Cum plura animalia, iuxta divinam
Creatoris providentiam, hominum vitae quodammodo participent, quippe quae vel
adiumentum in laboribus praestent, vel etiam cibum praebeant atque solacium,
nihil impedit quominus data occasione, v. gr. in festo alicuius Sancti,
consuetudo servetur Dei benedictionem super illa invocandi.
722. Hic Ordo adhiberi potest tum a
sacerdote, tum a diacono et etiam a laico, ritibus tamen et formulis pro ipso
praevisis.
723. Ex hoc Ordine, semper servatis
structura ritus ac potioribus elementis, quaedam sumi possunt ut celebratio
adiunctis accommodetur.
724. Cum agitur de uno alterove animali
benedicen-do vel de benedictione animalium occasione alius celebrationis, etiam
Ritus brevior adhiberi potest, qui infra proponitur, nn. 741-744.
I. ORDO BENEDICTIONIS
Ritus initiales
725. Communitate congregata, fieri
potest cantus aptus, quo expleto, minister dicit:
In nomine Patris, et Filii, et Spiritus Sancti.
Omnes signo crucis se signant,
et respondent: Amen.
726. Deinde minister, si est
sacerdos vel diaconus, adstantes salutat, dicens:
Deus qui est mirabilis in omnibus operibus suis, sit cum
omnibus vobis.
vel alia apta verba e Sacris
Scripturis praesertim deprompta.
Omnes respondent: Et cum spiritu tuo.
vel alio apto modo.
727. Si vero minister est laicus,
adstantes salutat, dicens:
Dominum Deum nostrum, qui omnia in sapientia fecit, enixe
magnificemus.
Omnes respondent: Amen.
728.
Tum minister adstantes ad benedictionem accipiendam disponit his vel similibus
verbis:
Animalia a Deo creata caelum et terram et mare
inhabitant, vicissitudines hominis participant eiusque vitae sociantur. Deus
ipse qui sua beneficia super omnia viventia diffundit, animalium haud raro vel
adiutorio utitur vel etiam imagine ad dona salutis quodammodo insinuanda.
Animalia ab aquis diluvii in arca servantur, et post diluvium foederi cum Noe
inito aliquomodo sociantur (Gen 9, 9-10), agnus paschalis recolit immolationem
paschalem, et libertatem ab AEgypti servitute (Ex 12, 3-14); magnus piscis Ionam
servat (Ion 2, 1-11); corvi Eliam nutriunt (1 Reg 17, 6); animalia ho-minum
paenitentiae aggregantur (Ion 3, 7) et cum universa creatura, Christi
redemptionem participant.
Dei ergo benedictionem, (per intercessionem
sancti N.) super haec animalia invocantes, ip-sum omnium Creatorem laudemus, ei
gratias agamus qui nos super universas extulit creatu-ras, et ab eo insuper
petamus ut dignitatem nostram agnoscentes, in eius lege semper ambulemus.
Lectio verbi Dei
729. Deinde lector vel unus ex
adstantibus vel ipse minister legit textum Sacrarum Scripturarum.
Gen 1, 1. 20-29
“Dominamini universis
animantibus,
quae moventur super terram”
Audite, fratres,
verba libri Genesis.
In principio creavit Deus
caelum et terram. Dixit etiam Deus: “Pullulent aquae reptile animae viventis,
et volatile volet super terram sub firmamento caeli”. Creavitque Deus cete
grandia et omnem animam viventem atque motabilem, quam pullulant aquae
seciindum species suas, et omne volatile secundum genus suum. Et vidit Deus
quod esset bonum; benedixitque eis Deus dicens: “Crescite et multiplicamini et
replete aquas maris, avesque multiplicentur super terram”. Et factum est
vespere et mane, dies quintus. Dixit quoque Deus: “Producat terra animam
viventem in genere suo, iumenta et reptilia et bestias terrae seciindum species
suas”. Factiimque est ita. Et fecit Deus bestias terrae iuxta species suas et
iumenta seciindum species suas et omne reptile terrae in genere suo. Et vidit
Deus quod esset bonum. Et ait Deus: “Faciamus hominem ad imaginem et
similitudinem nostram; et praesit piscibus maris et volatilibus caeli et
bestiis universseque terrae omnique reptili, quod movetur in terra”. Et creavit
Deus hominem ad imaginem suam; ad imaginem Dei creavit illum, masculum et
feminam creavit eos. Benedixitque illis Deus et ait illis Deus: “Crescite et
multiplicamini et replete terram et subicite eam et dominamini piscibus maris
et volatilibus caeli et universis animantibus, quae moventur super terram”.
730. Vel:
Gen 2, 19-20a
“Appellavit homo nominibus
suis omnes bestias”
Audite, fratres,
verba libri Genesis.
Formatis Dominus Deus de
humo cunctis animantibus agri et universis volatilibus caeli, adduxit ea ad
hominem, ut videret quid vocaret ea; omne enim, quod vocavit homo animae
viventis, ipsum est nomen eius. Appellavitque homo nominibus suis cuncta pecora
et universa volatilia caeli et omnes bestias agri.
731. Vel:
Gen 6, 17-23
“Ex cunctis animantibus
induces in arcam ut vivant tecum”
Dixit Deus ad Noe: “Ecce ego adducam ...
Is 11, 6-10
“Non nocebunt animalia
et non occident in universo monte sancto meo”
Haec dicit Dominus Deus: “In
die illa habitabit lupus cum agno, et pardus cum haedo accubabit...
732. Pro opportunitate dici vel
cani potest psalmus responsorius aut alius cantus aptus.
Ps 8, 2. 4-5. 7b-9.
R. (10) Domine,
Dominus noster,
quam admirabile
est nomen tuum in universa terra !
Ps 103 (104), l-2a. 10-12. 25. 27-28
R. (27) Omnia a
te exspectant,
ut des illis
escam in tempore suo.
Ps 146 (147), 5-6. 7-8. 9-11
R. (la) Laudate
Dominum,
quoniam bonum est psallere Deo
nostro.
733. Minister, pro opportunitate, adstantes breviter alloquitur,
lectionem biblicam illustrans, ut sensum celebrationis fide percipiant.
Preces
734. Ubi
opportunum videtur, ante orationem benedictionis, communis prex haberi potest.
Ex invocationibus quae infra proponuntur, minister seligere potest eas quae
aptiores videantur vel alias adicere quae peculiaria rerum adiuncta respiciant.
Deus hominem creavit et in
terra posuit ut uni-versis dominans animantibus Creatoris glori-am fateretur.
Eum igitur laudibus extollamus, dicentes:
R. Quam
multiplicata sunt opera tua, Domine!
Benedictus es, Domine, qui
animalia creasti et in laboris nostri adiumentum nobis subicere voluisti.
Benedictus es, Domine, qui
ad vires nostras reficiendas animalium carnes in cibum nobis dedisti. R.
Benedictus es, Domine, qui
filiorum tuorum solacio consulens, animalia domestica nobis comites dedisti. R.
Benedictus es, Domine, qui
in caeli avibus a te nutritis paternae tuae providentiae, Iesu tes-tante,
signum ostendisti. R.
Benedictus es, Domine, qui
Filium tuum tam-quam Agnum nobis obtulisti nosque in illo filios tuos et
nominari et esse voluisti. R.
Benedictus es, Domine, qui per humillimas etiam
creaturas ad dilectionem tuam nos trahere non desinis.
Tum sequitur oratio benedictionis ut
infra.
735. Quando
preces non dicuntur, ante orationem benedictionis, minister dicit:
Oremus.
Et pro opportunitate, omnes per aliquod
temporis spatium silentio orant. Tunc orationem benedictionis profert.
Oratio benedictionis
736. Tum minister, si est sacerdos
vel diaconus, manibus extensis, vel si est laicus, manibus iunctis, orationem
benedictionis profert:
Donorum omnium, Deus, auctor
atque largi-tor, qui necessitatibus ac laboribus hominum etiam de animalibus
solacia subrogasti: (per intercessionem sancti N.) supplices te rogamus ut ea,
sine quibus non alitur humana conditio, nostris facias bonis usibus deservire. Per Christum Dominum nostrum. R. Amen.
737. Vel:
Deus, qui omnia in sapientia fecisti et homini ad
tuam similitudinem creato animantium dominatum tua benedictione donasti:
dexteram tuam propitius extende et praesta ut haec an-malia nostris inserviant
necessitatibus: et nos famuli tui, praesentibus subsidiis adiuti, Sempiterna
fiducialius appetamus. Per Chris-tum Dominum nostrum. R. Amen.
738. Pro opportunitate minister adstantes
et animalia aqua benedicta aspergit.
Conclusio Ritus
739. Tum
minister ritum concludit, dicens:
Qui animalia terrae in hominum auxilium creavit
nos gratia suae benedictionis Deus iugiter protegat atque conservet. R. Amen.
740. Laudabiliter ritus cantu apto perficitur.
II. RITUS BREVIOR
741.
Minister, initio celebrationis, dicit:
V. Adiutorium nostrum in nomine Domini.
Omnes respondent: Qui fecit caelum et terram.
742. Tum ab
uno ex adstantibus vel ab ipso ministro legitur brevis textus Sacrae
Scripturae, v. gr.:
Gen 2, 20a:
Appellavitque homo nominibus
suis cuncta pecora et universa volatilia caeli et omnes bestias agri.
Cf. Ps 8, 7-9a:
Constituisti, Domine, hominem super opera manuum
tuarum. Omnia subiecisti
sub pedibus eius, oves et boves universas, insuper et pecora campi, volucres
caeli et pisces maris.
743. Deinde
minister dicit, manibus iunctis, orationem benedictionis:
Deus, qui qmnia in sapientia fecisti et homini ad
tuam similitudinem creato animantium dominatum tua benedictione donasti:
dexteram tuam propitius extende et praesta ut haec ani-malia nostris inserviant
necessitatibus: et nos famuli tui, praesentibus subsidiis adiuti, Sem-piterna
fiducialius appetamus. Per Christum Dominum nostrum. R. Amen.
744. Pro opportunitate minister adstantes
et animalia aqua benedicta aspergit.
b. Bản dịch
Việt ngữ tham khảo (De Benedictionibus,
số 721-744)
CHƯƠNG XXI
NGHI THỨC
CHÚC LÀNH CHO CÁC CON VẬT
Những điều cần biết trước
721. Vì theo sự quan phòng của Đấng Tạo Hoá,
nhiều con vật được tham dự một cách nào đó vào cuộc sống của con người, vì
chưng hoặc chúng phụ giúp họ làm việc hoặc, thậm chí đem lại cho họ thức ăn và
niềm an ủi, vì thế không có gì ngăn cản là trong một dịp nào đó, ví dụ trong lễ
của một vị Thánh, thường có thói quen cầu Chúa ban phúc lành xuống trên những
con vật này.
722. Cả Linh mục, cả Phó tế, thậm chí cả
giáo dân cũng có thể sử dụng nghi thức này, tuy nhiên phải theo những nghi thức
và những công thức đã tiên liệu.
723. Để việc cử hành được thích ứng với
những hoàn cảnh, có thể lấy một ít phần từ nghi thức này, nhưng luôn phải giữ
lại cấu trúc và những phần quan trọng hơn của nghi thức.
724. Khi chỉ chúc lành cho một hai con vật,
hoặc chúc lành cho các con vật vào một dịp khác, thì cũng có thể sử dụng nghi
thức vắn đề nghị dưới đây ở các số 741-744.
I. NGHI THỨC CHÚC LÀNH
Những nghi thức mở đầu
725. Khi cộng đoàn đã tụ họp lại, thì có thể hát một bài thích
hợp. Hát xong, thừa tác viên đọc :
Nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần.
Mọi người làm dấu Thánh
Giá trên mình và thưa : Amen.
726. Rồi thừa tác viên, nếu là Linh mục hay
Phó tế, thì chào những người hiện diện và đọc:
Xin Thiên Chúa là Đấng kỳ diệu trong mọi công
trình của Ngài, ở cùng tất cả anh chị em.
Hoặc
lời khác thích hợp, nhất là những lời trích từ Kinh Thánh.
Mọi
người thưa: Và ở cùng cha (thầy).
Hoặc cách nào khác thích hợp.
727. Nếu thừa tác vên là giáo dân thì chào
những người hiện diện và đọc:
Chúng ta hãy hết lòng ca ngợi Chúa là Thiên Chúa
chúng ta, Đấng đã làm mọi sự thật khôn ngoan.
Mọi người thưa: Amen.
728. Bấy giờ thừa tác viên dùng những lời sau đây hoặc tương tự
để dọn lòng những người hiện diện đón nhận lời chúc lành.
Loài vật được Thiên Chúa tạo
dựng ở trên trời, dưới đất và ngoài biển cũng được chia sẻ phận số của con
người và dự phần vào cuộc sống của họ. Chính Thiên Chúa, Đấng phân phát các ân
lộc của Ngài cho mọi sinh vật, cũng thường sử dụng sự trợ giúp hoặc hình ảnh
của những con vật để, một cách nào đó, ám chỉ những hồng ân cứu độ. Những con
vật được gìn giữ trong tàu khỏi nước lụt đại hồng thuỷ, và sau lụt đại hồng thuỷ,
theo một phương diện nào đó, được liên kết với giao ước thiết lập với ông Nôê
(St 9,9-10), như chiên vượt qua nhắc nhớ lại hiến lễ phục sinh và việc giải
phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập (Xh 12,3-14) ; như con cá khổng lồ cứu thoát
ông Jôna (Jn 2,1-11) ; như những con quạ nuôi sống Êlia (1Cv 17,6) ;
như những con vật phải chia sẻ việc đền tội của con người (Jn 3,7) và cùng với
toàn thể thụ tạo, chúng được dự phần vào ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.
Vậy, khi kêu cầu phúc lành
của Thiên Chúa trên những con vật này (nhờ lời chuyển cầu của Thánh T…), chúng ta hãy ngợi khen
Đấng tạo thành vạn vật và tạ ơn Ngài là Đấng nâng chúng ta lên trên mọi loài
thụ tạo, và hơn thế nữa, chúng ta xin Ngài ban cho chúng ta, khi nhận ra phẩm
giá của mình, biết luôn bước đi trong lề luật của Chúa.
Đọc lời Chúa
729. Đoạn, thầy đọc sách hoặc một trong những người hiện diện,
hoặc chính thừa tác viên đọc bản văn Kinh Thánh.
St 1, 1. 20-29
“Hãy cai quản mọi loài vật trên trái đất”
Anh em hãy nghe
những lời sách Sáng thế
1Lúc khởi thuỷ Thiên Chúa đã tạo
thành trời và đất. 20Thiên Chúa
phán: “Nước hãy đầy lúc nhúc các sinh vật, và loài chim hãy bay lượn trên mặt
đất, dưới vòm trời. 21Vậy Thiên
Chúa tạo dựng những thuỷ quái và mọi sinh vật động đậy, lúc nhúc trong nước
theo loại của chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy thế là tốt
đẹp. 22Thiên Chúa ban phúc lành
cho chúng và phán: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, đầy nước biển, còn loài
chim hãy sinh sản cho nhiều trên mặt đất”. 23Đã
qua một buổi chiều và một buổi sáng, đó là ngày thứ năm.
24Thiên Chúa lại phán: “Đất hãy
sinh ra động vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát, dã thú tuỳ theo loại”.
Và đã xảy ra như vậy. 25Thiên
Chúa đã làm nên dã thú tuỳ theo loại, gia súc, và mọi loài bò sát tuỳ theo
giống. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26Thiên Chúa phán:
“Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta và
họ hãy làm chủ cá biển, chim trời, mọi thú rừng, tất cả trái đất và mọi loài bò
sát di chuyển trên đất”. 27Vậy
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình. Ngài tạo dựng họ theo hình
ảnh Thiên Chúa. Ngài tạo dựng họ có nam có nữ. 28Thiên Chúa ban phúc cho họ và Thiên Chúa
phán với họ: “Hãy phát triển và sinh sôi cho nhiều, đầy mặt đất và chế ngự nó;
hãy làm chủ cá biển, chim trời, và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất.
29Thiên Chúa lại phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ thảo mộc mang hạt giống trên mặt đất và mọi cây sinh trái có hạt giống nơi mình làm thức ăn.
730. Hoặc
St
2, 19-20a
“Con
người đã đặt tên cho mọi thú vật”
Anh em hãy nghe những lời
sách Sáng thế
19Vậy Chúa là
Thiên Chúa lấy bùn đất tạo ra mọi thú vật ngoài đồng và chim bay trên trời,
đoạn dẫn chúng đến cùng Ađam, để xem ông gọi chúng là gì. Ađam gọi sinh vật thế
nào, thì đó là tên nó. 20aAđam đã
đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi thú vật ngoài đồng.
731. Hoặc
St 6, 17-23
“Từ các loài vật, ngươi hãy
đưa mỗi thứ một đôi vào trong tàu để chúng được sống với ngươi”
Thiên Chúa phán bảo ông Nôê :
Này Ta cho nước tuôn trào…
Is 11, 6-10
“Trên toàn núi thánh của Ta không thú vật nào
sẽ gây ra tai hại hay giết chóc nữa”
Chúa là Thiên Chúa phán thế
này : “Trong những ngày ấy…
732. Tuỳ nghi, có thể đọc hoặc hát Thánh vịnh đáp ca hoặc một bài hát thích hợp.
Tv 8, 2. 4-5. 7b-9
Đ.
(10): Lạy Chúa, Chúa
chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp cõi địa cầu!
Tv 103 (104), 1-2a. 10-12. 25.
27-28
Đ.
(27): Hết thảy mọi loài trông đợi Chúa, để
Ngài thương đến bữa cho ăn.
Tv 146 (147),
5-6. 7-8. 9-11
Đ. (1a): Hãy ngợi khen Chúa, vì đàn ca kính Thiên Chúa
chúng ta, tốt lành biết bao.
733. Thừa tác viên, tuỳ nghi, có thể vắn
tắt nói ít lời với những người hiện diện, quảng diễn bài đọc Kinh Thánh, để họ
hiểu được ý nghĩa việc cử hành theo đức tin.
Lời cầu
734. Khi thấy thuận tiện, trước lời nguyện
chúc lành, có thể đọc lời nguyện chung. Từ những lời chuyển cầu đề nghị dưới
đây, thừa tác viên có thể chọn những lời xem ra thích hợp hơn, hoặc thêm vào
những lời chuyển cầu khác liên hệ đến hoàn cảnh đặc biệt của sự việc.
Thiên Chúa đã dựng nên con người và đặt con người
trên trái đất, để khi thống trị mọi loài, họ biết ca tụng vinh quang Đấng Tạo Hoá.
Vậy chúng ta hãy ngợi khen Ngài và nguyện rằng:
Đ. Lạy
Chúa, công trình của Chúa thật khôn xiết kể!
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa đã dựng nên các loài vật
và đã muốn chúng phải phục tùng chúng con để hỗ trợ cho công việc của chúng
con. Đ.
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, đã ban cho chúng con
thịt các súc vật làm của ăn bồi bổ sinh lực cho chúng con. Đ.
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, đã cho chúng con những
gia súc làm bạn đồng hành với chúng con để an ủi các con cái Chúa. Đ.
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, đã dùng chim trời do
Chúa nuôi dưỡng làm dấu chỉ sự quan phòng đầy tình phụ tử của Chúa đối với
chúng con, như Chúa Giêsu đã làm chứng. Đ.
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, đã trao phó cho chúng
con, Người Con của Chúa, như Chiên con, và trong Người, Chúa đã muốn cho chúng
con được gọi và thực sự là con cái Chúa. Đ.
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, đã không ngừng lôi kéo chúng con đến với tình yêu Chúa qua cả những thụ tạo hèn mọn nhất. Đ.
Sau đó đọc lời nguyện chúc lành như
dưới đây:
735. Khi không đọc lời cầu, thì trước lời
nguyện chúc lành, thừa tác viên đọc:
Chúng ta dâng lời cầu nguyện
Và tuỳ nghi, mọi người thinh lặng cầu
nguyên giây lát, sau đó thừa tác viên đọc lời nguyện chúc lành.
Lời nguyện chúc lành
736. Bấy giờ thừa tác viên, nếu là Linh mục hay Phó tế, thì dang
tay, còn nếu là giáo dân, thì chắp tay đọc lời nguyện chúc lành :
Lạy Chúa là chủ và là Đấng
ban phát mọi ân huệ, bù lại sự thiếu thốn và những nỗi vất vả của con người
Chúa đã dùng cả loài vật để an ủi họ : (Nhờ lời chuyển cầu của thánh T…), chúng con nài xin Chúa
cho chúng con biết sử dụng cách đúng đắn những điều cần cho cuộc sống xứng với
nhân phẩm của chúng con. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Đ. Amen.
737. Hoặc
Lạy Chúa, Chúa đã làm mọi sự thật khôn ngoan và
đã chúc phúc ban cho con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa, quyền thống
trị các loài vật: xin thương dang tay ban ơn để các con vật này biết phục vụ
những nhu cầu của chúng con: và cho chúng con là các tôi tớ Chúa, đã được hưởng
những trợ giúp ở đời này, biết tin tưởng ước ao những điều vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô Chúa chúng con. Đ. Amen.
738. Tuỳ nghi, thừa tác viên có thể rảy
nước thánh trên những người hiện diện và những con vật.
Kết thúc nghi lễ
739. Bấy giờ thừa tác viên kết thúc nghi lễ
và đọc:
Xin Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên loài vật trên
trái đất này để trợ giúp con người, hằng ban phúc lành hầu che chở và gìn giữ
chúng ta. Đ.
Amen.
740. Nên kết thúc bằng một bài hát thích
hợp.
II. NGHI THỨC VẮN
741. Khởi đầu việc cử hành, thừa tác viên đọc :
X. Ơn phù trợ chúng ta ở nơi
danh Chúa.
Mọi
người thưa : Là Đấng tạo thành trời đất.
742. Một trong những người hiện diện hoặc chính thừa tác viên đọc bản văn Kinh Thánh, ví dụ.
St 2, 20a:
Ađam đã đặt tên cho mọi súc vật,
mọi chim trời và mọi thú vật ngoài đồng.
x. Tv 8, 7-9a:
Lạy Chúa, Chúa đã đặt con người quản cai công
trình tay Chúa làm ra. Chúa đã đặt mọi loài dưới chân họ: toàn thể chiên bò và
cả thú vật ngoài đồng, cả chim trời và cá biển nữa.
743. Rồi thừa tác viên chắp tay đọc lời
nguyện chúc lành.
Lạy Chúa, Chúa đã làm mọi sự thật khôn ngoan và
đã chúc phúc ban cho con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa, quyền thống
trị các loài vật: xin thương dang tay ban ơn để các con vật này biết phục vụ
những nhu cầu của chúng con: và cho chúng con là các tôi tớ Chúa, đã được hưởng
những trợ giúp ở đời này, biết tin tưởng ước ao những điều vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô Chúa chúng con. Đ. Amen.
744. Tuỳ nghi, thừa tác viên rảy nước thánh
trên những người hiện diện và các con vật.
c. Bản dịch của Dòng Phanxicô
LỄ NGHI RÔMA – SÁCH CÁC PHÉP
Nghi thức Chúc lành cho Thú vật
(De Benedictionibus (1984), 279–286)
Chuyển
ngữ từ bản tiếng Anh:
Book
of Blessings
của
Ủy
ban Quốc tế về Anh ngữ
trong
Phụng vụ (ICEL),
do
các Hội đồng Giám mục Công giáo phối hợp NXB.
The Liturgical Press, 1989.
DẪN NHẬP
942. Theo
sự quan phòng của Đấng Tạo Hoá, nhiều loài vật giữ một vai trò nhất định trong
đời sống con người, giúp vào công việc lao động hoặc cung cấp thực phẩm và quần
áo. Vì thế, khi có dịp, chẳng hạn nhân lễ kính một vị thánh, tập tục kêu cầu
phép lành của Thiên Chúa trên thú vật có thể được tiếp tục.
943. Nghi
thức hiện tại có thể được cử hành bởi một Linh mục hoặc Phó tế. Cũng có thể được cử hành bởi giáo dân, theo các
nghi thức và lời nguyện được quy định cho thừa tác viên giáo dân.
944. Khi
giữ nguyên cấu trúc và những yếu tố chính của nghi thức, thừa tác viên có thể
thích nghi việc cử hành cho phù hợp với hoàn cảnh của nơi chốn và cộng đoàn
tham dự.
945. Khi
chỉ chúc lành cho một hay một vài thú vật, hoặc khi việc chúc lành thú vật được
lồng ghép trong một cử hành khác, có thể dùng nghi thức ngắn gọn được quy định
tại các số 962-965.
I. NGHI THỨC
CHÚC LÀNH
NGHI THỨC KHAI MẠC
946. Khi cộng đoàn đã quy tụ, có thể hát một bài ca thích hợp. Sau khi hát, thừa tác viên nói:
Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.
Mọi người làm dấu Thánh Giá và
thưa: Amen.
947. Nếu
thừa tác viên là Linh mục hay Phó tế, ngài chào cộng đoàn bằng một trong các
công thức sau, được lấy chủ yếu từ Kinh Thánh:
Xin Thiên Chúa, Đấng tuyệt mỹ trong mọi công
trình của Người, ở cùng anh chị em.
Mọi người đáp lại bằng công
thức sau hoặc công thức thích hợp khác: Và ở cùng cha
(thầy).
948. Nếu
thừa tác viên là giáo dân, thì chào cộng đoàn bằng những lời này:
Thiên Chúa đã làm mọi sự cách khôn ngoan, chúng ta hãy chúc tụng Danh Người, bây giờ và mãi mãi.
Đ. Amen.
949. Với
những lời sau hoặc tương tự, thừa tác viên chuẩn bị cộng đoàn cho việc chúc
lành:
Các loài vật trong công trình sáng tạo của Thiên
Chúa cư ngụ trên trời, dưới đất và dưới biển. Chúng chia sẻ với con người số
phận của kiếp sống và góp phần vào đời sống nhân loại. Thiên Chúa, Đấng ban
muôn ơn lành cho mọi sinh vật, thường dùng thú vật để phục vụ con người hoặc
làm dấu chỉ nhắc nhớ đến ân huệ cứu độ. Thú vật đã được cứu khỏi nạn hồng thuỷ
và sau đó trở thành một phần của giao ước với Nôê (St 9,9-10). Con chiên Vượt
Qua gợi nhớ hy lễ Vượt Qua và cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập (Xh
12,3-14). Con cá lớn đã cứu ngôn sứ Giôna (Gn 2,1-11). Quạ mang bánh cho ngôn
sứ Êlia (1 V 17,6). Thú vật cũng được bao gồm trong việc sám hối mà con người
được kêu gọi (Gn 3,7).
Và thú vật cũng được chia sẻ trong công trình
cứu chuộc của Đức Kitô dành cho toàn thể công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Vì
thế, chúng ta khẩn cầu phép lành của Thiên Chúa trên những thú vật này (nhờ lời
chuyển cầu của thánh T.). Khi làm vậy, chúng
ta hãy ngợi khen Đấng Tạo Hoá và cảm tạ Người đã đặt chúng ta làm chủ trên các
loài thụ tạo khác. Đồng thời, chúng ta cũng xin Người cho chúng ta, luôn ghi
nhớ phẩm giá con người, biết hằng bước đi trong lề luật của Người.
CÔNG BỐ LỜI CHÚA
950. Một
người đọc, hoặc chính thừa tác viên, công bố một đoạn Lời Chúa:
Anh chị em thân mến, xin mời cùng lắng nghe Lời
Chúa trích sách Sáng thế (1,1.20-28): “Hãy làm bá chủ trên mọi sinh vật di động trên mặt đất.”
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất,
Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài
chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ
quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và
mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa
chúc phúc cho chúng rằng : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và
chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật
tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy.
Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát
dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán :
“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để
con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi
giống vật bò dưới đất.”
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa
phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt
đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.”
951. Hoặc:
Anh chị em thân mến, xin mời cùng lắng nghe Lời Chúa trích sách Sáng thế (2,19-20a: Con người đặt tên cho mọi thú vật)
ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã
thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ
con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho
mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú.
952. Hoặc:
Sáng thế 6,17-23 — Hãy đem vào tàu hai con
của mọi sinh vật để chúng sống với ngươi.
Isaia 11,6-10 — Muông thú sẽ trở nên hiền
lành, và sẽ không còn hại hoại gì trên núi thánh của Ta.
953. Khi thích hợp, có
thể hát hoặc đọc một Thánh vịnh đáp ca.
Đ. Lạy Chúa, là Thiên Chúa chúng
con, lẫy lừng thay Danh Chúa trên khắp địa cầu!
Thánh vịnh 8
Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy
lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu! Uy phong Ngài vượt quá trời
cao. Đ.
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn
trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì,
mà Chúa phải bận tâm? Đ.
Chúa cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt
muôn loài muôn sự dưới chân: Nào chiên bò đủ loại, nào thú
vật ngoài đồng, nào chim trời cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương. Đ.
Thánh vịnh 104,1-2a, 10-12,
25, 27-28
Đ (c. 27): Hết mọi loài ngửa
trông lên Chúa, đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Thánh vịnh 147,5-6, 7-8, 9-11
Đ (c. 1a): Hãy ca ngợi Chúa đi!
Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào!
954. Khi
thích hợp, thừa tác viên có thể giải thích ngắn gọn bản văn Kinh Thánh, để cộng
đoàn hiểu được ý nghĩa cử hành nhờ đức tin.
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
955. Khi thích hợp, có thể thêm phần lời nguyện tín hữu trước lời nguyện chúc lành. Thừa tác viên dẫn nhập, rồi một người giúp lễ hoặc một người hiện diện xướng các ý nguyện. Trong số những ý nguyện dưới đây, có thể chọn những ý nguyện phù hợp nhất với dịp này hoặc điều chỉnh lại, hay soạn thêm những ý nguyện khác thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Sau các ý nguyện, lời nguyện chúc lành số 957 hoặc số 958 được đọc ngay.
Chủ sự đọc:
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta và đặt chúng ta
trên mặt đất này để làm người quản lý mọi loài thụ tạo, nhờ đó tuyên xưng vinh
quang của Đấng Tạo Hoá. Vậy chúng ta hãy ca ngợi Thiên Chúa và thưa rằng:
Đ. Lẫy lừng thay công trình tay
Chúa, lạy Chúa!
Hoặc:
Đ. Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn
đời.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng
đã dựng nên muôn thú vật và ban cho chúng con khả năng huấn luyện chúng để giúp
chúng con trong công việc. (Chúng ta hãy chúc
tụng Chúa:) Đ.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng
đã ban cho chúng con lương thực từ súc vật để bồi bổ sức lực. (Chúng ta hãy chúc tụng Chúa:)
Đ.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng vì sự an ủi của chúng con mà ban cho chúng con vật nuôi trong nhà làm bạn đồng hành. (Chúng ta hãy chúc tụng Chúa:) Đ.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng
tỏ cho chúng con thấy dấu chỉ sự quan phòng của Ngài, như Con Chúa đã dạy, khi
chăm sóc chim trời. (Chúng ta hãy chúc tụng
Chúa:) Đ.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng
đã ban Con Một Chúa cho chúng con làm Con Chiên Vượt Qua, và nơi Người, Chúa đã
muốn chúng con được gọi là và thật sự trở nên con cái Chúa. (Chúng ta hãy chúc tụng Chúa:)
Đ.
Thừa tác viên phụ giúp: Chúc tụng Chúa, lạy Chúa, Đấng
nhờ những loài thụ tạo bé nhỏ nhất mà không ngừng lôi kéo chúng con đến gần
tình yêu Chúa. (Chúng ta hãy chúc tụng Chúa:) Đ.
956. Khi
không có lời nguyện tín hữu, trước khi đọc lời chúc lành, chủ sự đọc:
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Tuỳ hoàn cảnh, mọi người có
thể thinh lặng cầu nguyện trong giây lát trước khi đọc kinh chúc lành.
LỜI NGUYỆN CHÚC LÀNH
957. Nếu
thừa tác viên là Linh mục hay Phó tế, đọc lời nguyện với hai tay dang rộng; nếu
là giáo dân, thì chắp tay.
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và
ban phát mọi hồng ân, thú vật cũng là một phần trong cách Chúa quan phòng để
giúp ích cho những nhu cầu và công việc của chúng con. Chúng
con cầu xin (nhờ lời chuyển cầu của thánh T.) xin
Chúa ban cho chúng con những điều cần thiết để duy trì một đời sống xứng
hợp của con người. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Đ. Amen.
958. Hoặc:
Lạy Thiên Chúa, Chúa đã làm mọi sự
cách khôn ngoan; trong lòng nhân hậu, Chúa đã dựng nên chúng con giống hình ảnh Chúa và
trao cho chúng con chăm sóc các loài thụ tạo khác. Xin
dang tay hữu của Chúa và ban cho những thú vật này phục vụ nhu cầu của chúng con, để
nhờ ân huệ Chúa ban trong cuộc sống này, chúng con thêm vững tin hơn
tìm kiếm hạnh phúc đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Đ. Amen.
959. Sau
lời nguyện chúc lành, nếu thích hợp, thừa tác viên có thể rảy nước thánh trên
cộng đoàn và các thú vật.
NGHI THỨC KẾT THÚC
960. Thừa
tác viên kết thúc nghi thức bằng lời:
Xin Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên
các loài vật trên trái đất để giúp chúng ta, luôn bảo vệ và nâng đỡ chúng
ta nhờ ân sủng phép lành của Người, bây giờ và mãi mãi. Đ. Amen.
961. Nên
kết thúc buổi cử hành bằng một bài ca thích hợp.
II. NGHI THỨC NGẮN
962. Khi
bắt đầu buổi cử hành, chủ sự đọc:
Ơn phù trợ chúng ta ở nơi danh Chúa.
Mọi người đáp: Là Đấng tạo thành trời đất.
963. Một
người hiện diện hoặc chủ sự đọc một đoạn ngắn Lời Chúa, chẳng hạn:
Sáng thế 2,20a – Con người đặt tên cho mọi
loài gia súc, mọi loài chim trời và mọi dã thú.
Thánh vịnh 8,7-9a
Chúa ban cho con người làm chủ công trình tay
Chúa,
đặt muôn loài dưới chân con người:
Chiên bò tất cả,
cùng muông thú ngoài đồng,
Chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
964. Chủ
sự chắp tay và đọc lời nguyện chúc lành:
Lạy Thiên Chúa, Chúa đã làm mọi sự
cách khôn ngoan; trong lòng nhân hậu, Chúa đã dựng nên chúng con giống hình ảnh Chúa và
trao cho chúng con chăm sóc các loài thụ tạo khác. Xin
dang tay hữu của Chúa và ban cho những thú vật này phục vụ nhu cầu của chúng con, để nhờ ân huệ Chúa ban trong cuộc sống này, chúng con thêm vững tin hơn tìm kiếm hạnh phúc đời đời. Chúng
con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Đ. Amen.
965. Sau
lời nguyện chúc lành, tuỳ hoàn cảnh, chủ sự có thể rảy nước thánh trên cộng
đoàn và các con vật.

