G.B. Nguyễn Văn Dương
Giữa một thế giới
duy vật, con người luôn coi trọng những của cải vật chất. Họ tìm mọi cách để
chiếm hữu thật nhiều và đánh giá sự thành công dựa trên những gì mình đang có.
Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều người chọn cho mình con đường hẹp, đi ngược với các
trào lưu thế tục. Điển hình là những người đang sống đời Thánh Hiến, họ được mời
gọi theo sát Đức Kitô hơn để thực hiện đức ái cách trọn vẹn. Một trong những
cách thức để đi trên con đường hẹp này là đức khó nghèo.
Trong sắc lệnh
canh tân và thích nghi đời tu, công đồng Vaticanô II tuyên bố: “Quy tắc tối hậu
đời tu là bước theo Đức Kitô như được trình bày trong Tin Mừng.” Mà Đức Kitô được
các sách Tin Mừng tường thuật lại nổi bật là một Đức Kitô nghèo khó, không chỉ
nghèo của cải vật chất nhưng còn nghèo về ý riêng mình. Trong biến cố Nhập Thể,
chính Người đã từ bỏ chốn trời cao mà cư ngụ giữa thế gian (x. Ga 1,14). Đấng Tạo
Hóa đã trở nên thụ tạo, Đấng vô cùng giờ đây tự buộc mình vào thời gian, Đấng
là Thiên Chúa nay chấp nhận trở nên phàm nhân, không chỉ là người thường dân
nhưng còn là người rốt hết, sau hết và là đáy của xã hội. Đấng ấy chính là Đức
Giêsu Kitô. Người vỗn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc
lấy thân nô lệ trở nên phàm nhân sống như người trần thế (x. Pl 2,7tt). Dù là
con Thiên Chúa nhưng khi đến trần gian cũng chẳng có chút đặc ân nào, Người được
cưu mang trong dạ mẹ đủ chín tháng mười ngày, chịu lệ thuộc bởi tình thương của
con người (x. Hr 4,15). Hơn nữa, Người còn chịu cảnh rốt hết khi chấp nhận sinh
ra nơi hang bò lừa hôi hám, được bọc tã đặt trong máng cỏ (x. Lc 2,7). Người trở
nên nghèo hèn đơn sơ để bất kỳ ai cũng có thể đến gần và đụng chạm được, dù ba
vua hay mục đồng nghèo hèn (x. Lc 2,8-11). Và sự đơn sơ, gần gũi cũng được Người
tiếp nối trong đời sống sứ vụ.
Trong suốt quá
trình hoạt động công khai rao giảng, Đức Giêsu không dính bén đến tiền bạc,
thanh thoát không bị vướng mắc bởi danh vọng của thế gian. Biết bao lần dân
chúng muốn tôn Người lên làm vua, thì cũng bấy nhiêu lần Người từ chối và băng
qua giữa họ mà đi (x.Ga 6,15). Đức Giêsu chọn cho mình cuộc sống khó nghèo ngay
giữa thế gian, không bị ràng buộc bởi điều kiện sống, Người chấp nhận không nhà
cửa, “Con chồn có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”(x.
Lc 9,58). Người vui vẻ đón nhận cuộc sống nay đây mai đó, để tự do di chuyển đến
với mọi hạng người, mọi vùng miền để rao truyền Tin Mừng tình yêu. Chúa Giêsu sống
nghèo giữa những con người nghèo, người thu thuế, người bệnh tật và cả những cô
gái điếm. Người khiêm nhường chấp nhận sự trợ giúp của cải từ những người khác
(x. Lc 8,3). Đó là trong đời sống vật chất, còn trong đời sống tinh thần, Người
một lòng một ý với Chúa Cha (x. Ga 10,30), luôn cầu nguyện và gắn kết thân tình
cách mật thiết với Thiên Chúa (x .Lc 9,18-28). Đối với Đức Giêsu lương thực
nuôi sống Người chính là thi hành ý muốn Chúa Cha (Ga 4,34), Người luôn ước
mong cho thánh ý Cha được thể hiện (x. Mt 6,10). Cách riêng, nơi vườn Cây Dầu,
đứng trước sự yếu đuối của phận người, khi đối diện với cái chết, sự sợ hãi
dâng lên tột độ, đến nỗi mồ hôi máu của Người chảy ra (x. Lc 22,44), Đức Giêsu
dường như muốn chạy trốn thực tại đau đớn này, khi thân thưa lên cùng Cha rằng:
“Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin Cha tha cho con khỏi uống chén
này” (Mc 14,36). Nhưng sau đó, Đức Giêsu vẫn đặt thánh ý Cha trên tất cả và
làm theo ý Đấng đã sai Người (x.Ga 6,38). Vì thế, Người mạnh mẽ, đáp lời xin
vâng: “Lạy Cha, xin đừng làm theo ý con, mà theo ý Cha” (Mc 14,36).
Để từ đó, trong
cuộc thương khó và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện sự nghèo khó
đến cùng tận, vì tình yêu đối với Chúa Cha và nhân loại. Nơi thập giá, cái
nghèo vật chất và nghèo ý riêng của Đức Giêsu được hòa quyện và đan xen lẫn
nhau. Hình ảnh Đức Giêsu bị tước bỏ tất cả, trở nên trơ trụi trên thập giá diễn
tả sự chấp nhận bị tước đoạt mọi sự, ngay cả cái quý giá nhất là sự sống. Thứ
duy nhất Người giữ và cầm lên cây thập giá là số nợ của nhân loại, chính nơi
đây Người đã hủy bỏ bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (x. Cl 2,14). Từ giây
phút đó, con người được xóa nợ tội lỗi, được tự do, trở nên giàu có, được trở
nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, trong
Người và qua Người, nhân loại mạnh dạn, tin tưởng đến gần hơn với Thiên Chúa
(x. Ep 3,12) và được gọi Thiên Chúa là Cha (x. Rm 8,15) được cùng hưởng vinh
quang với Người. Trong giờ phút lâm chung, Đức Giêsu cũng không để gì cho riêng
mình nhưng phó dâng tất cả theo ý Thiên Chúa “ Lạy Cha, con phó thác linh hồn
con trong tay Cha” (Lc 23,46). Cuộc đời Chúa Giêsu từ lúc Nhập Thể đến thập
giá, Người luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha, bằng một đời sống khó nghèo để con
người được trở nên giàu có (x. 2Cr 8,9).
Đức Giêsu đã nêu
gương bằng một đời sống khó nghèo. Vì thế, Người cũng mời gọi những người đi
theo Người biết mang lấy tinh thần nghèo khó. “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo
khó vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). Lời mời gọi đó của Chúa vẫn không ngừng
vang lên mọi thời và mọi đời.
Thánh Anphongsô,
Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế đã nghe và lĩnh hội được tinh thần đó của Đức
Kitô. Người luôn sống triệt để tinh thần nghèo khó mà Chúa mời gọi. Anphongsô
xem đây như là một nhân đức không thể thiếu đối với tu sĩ khi bước theo Chúa
Kitô. Tinh thần nghèo khó của thánh Anphongsô được thể hiện rõ, khi người sẵn
sàng từ bỏ địa vị chức tước của mình đang có, với một học thức vững vàng, bằng
cấp đầy đủ, có bằng tiến sĩ luật đạo và đời. Những thứ này đảm bảo cho
Anphongsô một tương lai rạng ngời phía trước. Nhưng sau một vài biến cố, Người
đã quyết định từ bỏ tất cả những gì thế gian cho là vinh dự, bảo đảm an toàn, để
dấn thân bước theo Chúa cách dứt khoát với trọn con người. Đức khó nghèo còn được
Anphongsô thể hiện khi người chọn lựa đối tượng cho sự dấn thân là người nghèo
khổ tất bạt nhất. Người tự nguyện trở nên nghèo để đến với những người nghèo, để
sống giữa và mang Chúa đến với họ. Vì thế, Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế
(DCCT) với mục đích “Bước theo Chúa Kitô Cứu Thế, loan báo Tin Mừng cho những
người nghèo khó, những người tất bạt bị bỏ rơi hơn cả” (HP 1). Anphongsô nhận
ra giá trị cao quí của đức khó nghèo và sự cần thiết đối với công cuộc thừa
sai. Vì vậy, Người luôn sống khó nghèo và vui lòng chấp nhận những thiếu thốn,
khó khăn, nỗi đớn đau. Từ đó, Người cũng mời gọi và đòi buộc con cái mình sống
tinh thần khó nghèo đó[1].
Noi gương thánh
Anphongsô bước theo Chúa Kitô, các tu sĩ DCCT cần phải luôn đặt bản vị Đức Kitô
làm trung tâm (x. HP 23), trở nên đồng hình đồng dạng với Người (x. HP 25). Từ
đó, các thừa sai không còn lệ thuộc, bám vứu vào của cải trần gian hay bị vướng
mắc bởi điều kiện sống (x. HP 15). Vì thế, họ sẽ vui lòng chấp nhận bất cử hoàn
cảnh nào có thể đòi hỏi họ phải di chuyển, trong tinh thần bỏ mình (HP 67). Hơn
nữa, vì đối tượng DCCT ưu tiên dấn thân phục vụ là những người nghèo (x. HP 5)
nên các tu sĩ phải đồng hóa chính mình với người nghèo như Đức Kitô đã làm (x.
Mt 25,40). Chính vì thế, họ phải như những người nghèo (x. HP 64), sống một cuộc
sống thực sự nghèo khó tương hợp với hoàn cảnh của người nghèo mà họ đang phục
vụ, nhờ thế họ mới biểu lộ được tình liên đới với người nghèo (x. HP 65). Đặc
biệt, các tu sĩ cần phải mang lấy sự nghèo khó của Đức Kitô, Đấng vốn giàu sang
phú quí nhưng đã trở nên nghèo khó, để làm cho con người nên giàu có (x. 2Cr
8,9). Vậy nên, các tu sĩ khi đến với người nghèo cũng nhắm đến việc giải phóng
và cứu độ con người toàn diện nhờ việc loan báo Tin Mừng (x. HP 5).
Tóm lại, để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Cứu Thế, các tu sĩ cần phải đi trên con đường Đức Kitô đã đi (x. HP 50), một con đường bắt nguồn từ tình yêu đến từ bỏ, từ giàu sang trở nên nghèo khó để người mình yêu được nên giàu có. Từ Nhập Thể đến Thập Giá, Đức kitô đã hoàn toàn bỏ mình, một lòng một ý để chu toàn thánh ý Chúa Cha, để vinh quang Thiên Chúa được thể hiện và để cứu độ trần gian. Vì thế các tu sĩ DCCT - những người bước theo Đức Kitô cũng được mời gọi sống khó nghèo, từ bỏ tất cả bước theo Người để thuộc trọn về Người. Để làm được như vậy các tu sĩ được mời gọi phải đắm chìm trong đời sống cầu nguyện và để cho ánh sáng Lời Chúa dẫn đường.

