
I. Quan niệm của Giáo hội thời nay về sự thánh thiện
II. Những chính sách tuyên thánh
III. Các thánh thời nay
Bài viết này dành cho buổi hội thảo về Lịch sử sự thánh thiện Kitô giáo từ đầu thời cận đại cho đến công đồng Vaticanô II (El caminar historico de la santidad cristiana de los inicios de la epoca contemporanea hasta el Concilio Vaticanô II), tổ chức ở Pamplona năm 2003. Vì thế các dữ kiện dừng lại vào thời điểm ấy. Ở cuối bài, ban biên tập sẽ cập nhật thông tin cho đến tháng 6 năm 2021.
Nguồn: Benoît Pellistrandi, “La sainteté contemporaine”, Mélanges de la Casa de Velázquez, 33-2-2003, URL: http://journals.openedition.org/mcv/234.
Benoît
Pellistrandi
Từ
khi xác định lại các thủ tục tuyên thánh hồi thế kỷ XVII cho đến công đồng
Vaticanô II, Giáo hội Công giáo đã có sự tiến triển trong cách tiếp cận với sự
thánh thiện như là một thực thể thần học, giáo luật và tâm linh. Việc nghiên cứu
sự tiến triển này cho phép hiểu được những sự liên tục và chuyển hướng của một
“chính sách tuyên thánh” mà ĐTC Gioan Phaolô II xem ra đã đưa đến tột điểm.
Trong
bài này chúng tôi sẽ sử dụng hai lối tiếp cận để theo dõi sự tiến triển của
quan niệm về sự thánh thiện. Lối thứ nhất liên quan đến định nghĩa về sự thánh
thiện theo Hiến chế Tín lý Lumen gentium, mà ta có thể coi như “nhìn từ bên
trong”. Lối thứ hai dựa theo các dữ kiện của các khoa sử học, nhân văn, xã hội
học để giải thích chức năng xã hội, văn hóa và chính trị của sự thánh thiện, mà
ta có thể coi như “nhìn từ bên ngoài”. Thế nhưng, vấn đề là xác định thứ tự tiến
hành: ta phải đi từ ngoài vào trong, hay ngược lại? Thực ra có một khuynh hướng
trong ngành sử học muốn theo thứ tự thứ nhất[1]: đi từ những đặc tính nổi bật
bên ngoài đến những đức tính nội tại và tìm cách giải thích những đức tính này
dưới khía cạnh lịch sử. Tuy nhiên còn có một lộ trình khác mà chúng tôi sẽ áp dụng
và cũng dựa theo khoa sử học, đó là theo dõi sự tiến triển lịch sử của quan điểm
Giáo hội về sự thánh thiện[2]. Thực vậy, kể từ nhóm Bollandistes, Giáo hội đã
chẳng chấp nhận quan điểm của sử học để ngăn chặn các thánh giả hoặc các thánh
bịa đấy ư?[3] Giáo hội đã chẳng sử dụng một sự phân định kỹ lưỡng hơn trong việc
chọn lựa các vị thánh đấy ư?
Vì
thế chúng tôi chọn lựa khởi đi từ quan điểm của Giáo hội khi bàn về sự thánh
thiện thời nay. Trước hết, cần xét xem định nghĩa của Giáo hội về sự thánh thiện,
để cho thấy Giáo hội đã sử dụng quan điểm ấy như thế nào khi thiết lập một thủ
tục nhìn nhận sự thánh thiện trong cộng đồng Dân Chúa. Kế đến, nghiên cứu các
chính sách tuyên thánh qua việc theo dõi các thống kê và những khuôn mặt điển
hình, để cho thấy có một kế hoạch mục vụ có hệ thống. Sau cùng, trong phần thứ
ba, chúng tôi sẽ cố gắng cho thấy đâu là những vị thánh hiện đại được giới thiệu
cho các tín hữu, và bằng cách nào một sử gia có thể phân tích ý nghĩa của hiện
tượng gia tăng việc tuyên thánh dưới triều đại Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
I.
Quan niệm của Giáo hội thời nay về sự thánh thiện
Ngày nay, ta có thể gặp thấy quan niệm của Hội thánh về ơn gọi phổ quát nên thánh trong Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen gentium của công đồng Vaticanô II, được ĐTC Phaolô VI ban hành ngày 21/11/1964. Bản văn từ số 39 đến 42 được coi như định nghĩa của Hội thánh Công giáo thời nay về sự thánh thiện. Dưới ánh sáng ấy, nghĩa là dựa theo lý luận và khẳng định của nó, ta có thể tìm thấy một cái nhìn “từ bên trong” về sự thánh thiện, và móc nối với các thủ tục mà giáo luật đặt ra cho việc nhìn nhận sự thánh thiện của một vài tín hữu nổi bật. Chúng ta hãy ôn lại vài nét chính của lời mời gọi nên thánh của bản văn công đồng.
Giáo hội là thánh bởi vì kết hợp với Đức Kitô là “Đấng thánh duy nhất”. Vì vậy
tất cả mọi phần tử của Giáo hội được mời gọi nên thánh. Thiên Chúa muốn cho
chúng ta nên hoàn thiện giống như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5,48).Việc
hoàn thiện này, xuyên qua việc thú nhận tội lỗi, phải dẫn con ngươi trở nên “đồng
hình đồng dạng” với Đức Kitô, và suy phục ý muốn của Chúa Cha, ngõ hầu làm vinh
danh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân[4]. Tiếp theo những chân lý thần học, tập
trung vào việc bắt chước Đức Kitô và thông dự vào sự thánh thiện của Người, là
việc mô tả những hành động tùy theo các trạng thái sinh sống (§ 41), dựa theo một
thứ tự phẩm trật: trước hết là các giám mục, linh mục, các tác viên, rồi đến
các đôi bạn và cha mẹ, những người góa bụa và những người không kết bạn, sau
cùng là “tất cả những người phải mang gánh nặng vì nghèo khó, yếu đuối, bệnh tật,
gặp nghịch cảnh hoặc bị bách hại vì công lý”. Đối với các giáo sĩ, chính việc
thi hành sứ mạng mục tử và sự tuân phục sẽ dẫn đưa họ đến sự hoàn thiện. Các
giáo dân cần phải làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa qua sự hoàn thiện của tình
yêu, giáo dục con cái theo đạo lý Công giáo, dùng lao động để bắt chước Đức
Kitô. Tất cả những điều ấy nhằm biểu lộ “tình thương mà Thiên Chúa dành cho
nhân loại”. Tình thương này, là một ân huệ do Thiên Chúa ban, được bày tỏ qua
việc lắng nghe Lời Chúa, các bí tích, cầu nguyện, từ bỏ mình. Cấp độ cao cả nhất
của tình yêu là việc tử đạo, “nơi mà người môn đệ trở nên giống với Thầy”. Một
ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa được ban cho một số người tận hiến mình cho Người
bằng đời sống trinh khiết. Đây là một “dấu chỉ và sự thôi thúc cho đức mến”[5]. Đã có rất nhiều biên khảo thần học
chung quanh lời tuyên bố này của công đồng, trình bày cách vắn tắt cốt yếu của
sự thánh thiện như là sự hoàn thiện của đức mến[6]. Người ta thấy rằng điểm nhấn
mạnh là khía cạnh thần học, chứ không đả động gì đến các dấu tích biểu lộ thực
tại siêu nhiên. Sự thánh thiện được trình bày như sự hoàn tất trọn vẹn của đời
sống đức tin, và vì thế như là một gương mẫu của đời sống trên trần gian. Sự
thánh thiện không phải là sự biểu lộ của một quyền năng thần diệu, tuy dù, nói
cho cùng, nó lệ thuộc vào ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là cái gì siêu việt thuộc
lãnh vực đức tin. Như vậy, chúng ta thấy một sự định hướng mục vụ mới về sự
thánh thiện dựa theo sự tiến triển của thế giới ngày nay. Tuy nhiên chúng ta
cũng nên ghi nhận rằng khuynh hướng này cũng đã có trước công đồng. Trong mục từ
liên quan đến việc tôn kính các thánh trong Dictionnaire de théologie
catholique, viết trước năm 1939, cha Séjourné đã lưu ý rằng: Việc tuyên thánh không hàm ngụ niềm
tin vào thực tại các phép lạ đã được thực hiện trong cuộc đời của các thánh hay
sau khi các ngài đã qua đời. Điều này không có nghĩa là chẳng cần đếm xỉa gì đến
các trường hợp phép lạ được đệ trình để cứu xét theo một thủ tục nghiêm ngặt[7]. Ta có thể nói được rằng điều mới mẻ
của bản văn năm 1964 nằm trong một chiều hướng mục vụ liên tục của Giáo hội. Sự
liên tục này được củng cố qua việc theo dõi các thủ tục tuyên phong chân phước
và hiển thánh.
Từ
thế kỷ XVI, đã có một hằng số luôn điều khiển chính sách phong thánh của Giáo hội,
đó là tập trung vào Rôma và vào sự kiểm soát của Giáo hoàng. Những cuộc cải tổ
gần đây dưới triều Đức Gioan Phaolô II vào năm 1983 (tông hiến Divinus
perfectionis magister) đã không xóa bỏ yếu tố nền tảng của hai bản văn của Đức
Urbanô VIII, Caelestis Hierusalem cives (1638) và Decreta servanda in
canonizatione et beatificatione sanctorum (1642), cũng như khảo luận De
servorum Dei beatificatione et beatorum canonizatione (1734) của Hồng y
Lambertini, về sau trở thành Giáo hoàng Bênêđictô XIV. Bộ Lễ nghi, được Giáo
hoàng Sixtô V thiết lập năm 1588, phụ trách các thủ tục và hồ sơ cho đến năm
1969, khi Bộ Tuyên thánh được thiết lập và được coi như một điều mới mẻ của
pháp chế Giáo hội. Thủ tục hiện hành lấy lại các giai đoạn đã được quy định từ
thời đức Urbanô VIII, tuy đã giản lược hơn. Giám mục giáo phận tại nơi cư ngụ của
ứng viên phải thiết lập hồ sơ thứ nhất, bằng việc thu thập thông tin về cuộc đời
và các chứng tá. Ở chặng điều tra này, một ủy ban thần học đã phải thẩm định đặc
tính chính thống của những tác phẩm của đương sự cũng như một ủy ban các chuyên
viên đã xác định các nhân đức và phép lạ mà người ta gán cho đương sự, hoặc cuộc
tử đạo của vị ấy. Một điều kiện tiên quyết là chưa có một hình thức tôn kính
công khai nào[8]. Nói theo một ngôn ngữ đơn sơ, một cuộc “tiền tuyên thánh” tự
phát về phía các tín hữu sẽ là một cản trở lớn cho nội vụ, bởi vì nó vượt ra
ngoài tầm kiểm soát của Giáo hội và gây ra ngờ vực cho đương sự. Kế đó, hồ sơ
được chuyển lên Bộ Tuyên thánh. Trước hết, bộ sẽ xét xem có thể chấp nhận hồ sơ
hay không; điều này đòi buộc một việc cứu xét và đôi khi đòi hỏi bổ sung thêm
chi tiết. Hồ sơ được chuyển qua nhiều ủy ban chuyên môn: sử học, thần học, y
khoa. Cuối cùng hồ sơ được thỉnh-nguyện-viên (postulator) bảo vệ trong một cuộc
họp các hồng y và giám mục. Nếu hồ sơ được các hồng y và giám mục thông qua,
thì Giáo hoàng sẽ quyết định tuyên phong chân phước. Chặng này trở thành bắt buộc
kể từ năm 1659, theo sự đòi hỏi của Đức Alexandrô VII. Chặng cuối cùng, tức là
việc tuyên thánh, cần một cuộc điều tra bổ túc, chủ yếu là xác nhận các phép lạ.
Cuộc điều tra được trao cho ý kiến tập đoàn của các hồng y và giám mục, nhưng
duy chỉ Giáo hoàng mới có tiếng nói cuối cùng quyết định tuyên thánh. Đặc quyền
này, tuy được lồng trong khung cảnh của một thủ tục rất khắt khe và tập
đoàn,[9] là một trong những quyền hạn của Giáo hoàng. Hành động của Đức Gioan
Phaolô II cho thấy tầm quan trọng của quyền hạn ấy, và nó có thể dùng vào chiến
lược mục vụ của vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo.
Một
chuyên gia nghiên cứu về sự thánh thiện thời Trung cổ, đó là chưa kể những sử
gia nghiên cứu các thế kỷ đầu của Giáo hội, đã lưu ý đến khúc ngoặt lịch sử và
ý nghĩa của sự thánh thiện thời cận đại so với các giai đoạn trước đó. Khi khảo
sát các thủ tục tuyên thánh từ thế kỷ XII cho đến cuối triều Giáo hoàng Martino
V (1431), ông André Vauchez đã ghi nhận sự can thiệp tiệm tiến của quyền bính
trung ương vào việc nhìn nhận sự thánh thiện. Trước đó, Tòa thánh đã bắt đầu
can thiệp rồi, nhưng cùng với các địa phương vẫn tiếp tục tôn phong các vị
thánh. Tuy nhiên, bước sang thời cận đại, cách riêng từ Giáo hoàng Urbanô VIII,
“nhân dân mất hết quyền tạo ra các vị thánh, và vai trò này được dành riêng cho
giáo quyền”[10]. Và ông kết luận như sau:
Tình
trạng này vẫn được duy trì cho đến ngày nay – ngoại trừ việc thêm số phụ nữ
trong hàng ngũ các thánh – đến nỗi ta có thể khẳng định rằng, đừng kể các nhóm
tử đạo ở Phi châu hay Á châu là những chứng nhân anh dũng của việc bành trướng
Kitô giáo, cuộc tuyên thánh chỉ phát triển hầu như xoay quanh các dòng tu. Việc
tôn kính các thánh chỉ nhằm đề cao một vài nhân đức thuần túy thuộc về nội bộ
Giáo hội chứ không ảnh hưởng gì đến đời sống ngoài xã hội[11].
Người
ta còn nhận thấy một yếu tố nữa của việc tập trung quyền bính của Rôma nơi các
quy tắc chi phối việc cử hành phụng vụ. Chính trong buổi cử hành phụng vụ mà buổi
lễ kính một vị thánh mang ý nghĩa mục vụ. Do đó, việc khảo sát lịch phụng vụ
cho thấy ý định của các Giáo hoàng và công đồng trong lãnh vực này[12]. Sau
công đồng Trentô, Đức Piô V, vì muốn giản lược và tập trung vào Chúa Kitô – ý định
này vẫn còn tiếng vang tại công đồng Vaticanô II – đã duyệt lại lịch phụng vụ
chỉ còn 65 lễ buộc, trong đó chỉ có 8 lễ của các thánh sinh sau năm 1000[13].
Thế nhưng, không bao lâu sau đó, các vị Giáo hoàng kế nhiệm, vì muốn cổ động sự
thánh thiện, đã buộc phải đổi hướng, một đàng bằng việc thêm các vị thánh cận đại,
đàng khác tăng bậc các thánh trong lịch. Theo đà ấy, vào năm 1961, người ta đếm
được hơn 200 lễ bậc nhất. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, nhiều Giáo hoàng đã
thêm vào lịch phụng vụ các thánh đương đại, chứng tỏ chính sách muốn cổ võ sự
thánh thiện[14]. Như vậy, người ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc xếp đặt lại lịch
phụng vụ tổng quát năm 1969, bởi vì các cuộc cải tổ lịch phụng vụ một đàng muốn
gạt bỏ các vị thánh không có nguồn gốc lịch sử rõ ràng[15], đàng khác cũng có một
dụng ý thần học. Theo tinh thần công đồng Vaticanô II, việc xuất bản lịch phụng
vụ tổng quát năm 1969 là kết quả của một suy tư lâu năm về bản chất thần học và
mục vụ của sự thánh thiện. Việc tôn kính các thánh cần phải đáp ứng đòi hỏi của
các Hiến chế về Hội thánh và về phụng vụ. Lịch phụng vụ sau công đồng tuân theo
hai đường hướng: một đàng, nó muốn giúp cho các tín hữu hiểu rõ hơn mầu nhiệm
Vượt qua, là tột đỉnh của đời sống Kitô giáo, và việc tôn kính các thánh nằm
trong viễn tượng này. Hai đoạn văn của Hiến chế Sacrosanctum concilium về phụng
vụ đã nói rõ điều ấy[16]. Lịch phụng vụ ban hành năm 1969 không chỉ xếp đặt lại
thứ bậc các cuộc cử hành (lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ), mà còn dung hòa truyền thống
xã xưa với những trực giác hiện đại. Chúng ta biết rằng việc tôn kính các thánh
được xây dựng chung quanh các thánh tông đồ, các thánh tử đạo và các thánh
Rôma. Việc mở rộng lịch các thánh cho thấy sự bành trướng của Giáo hội về địa
lý và xã hội. Đức Lêo XIII (1878-1903) đã thiết lập lễ kính các thánh tiến sĩ
Đông phương – Giustinô, Cyrillô Giêrusalem, Cyrillô Alexandria, Gioan Đamascô
–, các vị truyền giáo Augustinô Canterbury sang nước Anh, Cyrillô và Mêtôđiô
sang các dân tộc Slav. Các Giáo hoàng trong thế kỷ XX tiếp nối việc nhìn nhận
tính cách phổ quát của Giáo hội qua các thánh thuộc năm châu[17]. Việc phối hợp
lịch phổ quát và lịch giáo phận cung cấp cho các tín hữu một tầm nhìn khá rộng
về chân dung các vị thánh, trong đó họ có thể tìm gặp những người chuyển cầu,
những mẫu gương để bắt chước hoặc một chứng nhân đức tin. Không ai có thể phủ
nhận tầm quan trọng chiến lược của việc tôn kính các thánh vào thời nay, và sự
gia tăng các cuộc tuyên thánh dưới thời Đức Gioan Phaolô II thúc đẩy sự suy tư
về đường hướng thần học và mục vụ của nó[18].
II.
Các chính sách tuyên thánh
Việc
nghiên cứu các cuộc tuyên thánh dưới khía cạnh sử học và xã hội học không còn
là một chủ đề mới nữa. Luận án của ông Pierre Delooz, được phân khoa luật ở
Liège xuất bản năm 1969, là một dấu mốc quan trọng, ít là về mặt lý thuyết, với
một thư tịch phong phú bằng tiếng Đức. Về sử học, các công trình của ông André
Vauchez đánh dấu một sự tiến triển và đổi mới so với những cuộc nghiên cứu trước
đây. Vì thế, thay vì chú trọng đến điều mới mẻ, ta nên nhấn mạnh đến những đánh
giá của các khoa học nhân văn và xã hội vào hiện tượng nhìn nhận sự thánh thiện
được áp dụng trong Giáo hội Công giáo. Những cuộc phân tích dưới những khía cạnh
khác nhau, đã vạch cho thấy những thái độ xã hội, tâm thức và định chế. Dĩ
nhiên là việc nhìn nhận sự thánh thiện bởi một nhóm người nào đều quy chiếu về
các tâm thức tôn giáo và xã hội. Thủ tục do Giáo hội đặt ra để cứu xét sự thánh
thiện đặt chúng ta trước một chuỗi những tương quan và thể chế, và rồi chúng lại
bị chi phối bởi những cơ cấu xã hội và mối bận tâm chính trị[19].
Câu
hỏi “Làm thế nào để trở nên một vị thánh” có thể được trả lời dưới nhiều phương
diện. Vị thánh là một kẻ chuyển cầu, một mẫu gương và chứng nhân, nên có thể được
nhìn từ nhiều góc độ, nhằm nêu bật một khía cạnh nào của đời sống Giáo hội, từ
đời sống tâm linh cho đến mục vụ, xuyên qua những đường hướng loan báo Tin Mừng.
Do đó, việc nghiên cứu các chính sách tuyên thánh của các Giáo hoàng trong thế
kỷ XX, và nhất là của Đức Gioan Phaolô II, một người đã “sản xuất” nhiều vị
thánh hơn tất cả các vị tiền nhiệm, có thể mang lại những yếu tố quyết định cho
lịch sử Giáo hội thời cận đại, chứ không riêng gì lịch sử sự thánh thiện.
Tất
cả các quan sát viên đều nêu bật hoạt động tuyên thánh của Giáo hoàng Gioan
Phaolô II. Biểu đồ dưới đây cho thấy việc tuyên thánh có thể được xem như một
chính sách của Giáo hội trong thế kỷ XX.
Biểu
đồ 1. Những cuộc tuyên phong chân phước và hiển thánh trong thế kỷ XX (xếp theo
Giáo hoàng)
a)
Những số liệu về Đức Gioan Phaolô II dừng lại vào tháng 11 năm 2001.
Từ
khi bắt đầu triều đại của Đức Gioan Phaolô II cho đến tháng 11 năm 2001, Bộ
Tuyên thánh đã cứu xét 1735 hồ sơ. Trong 137 lễ nghi, Đức Gioan Phaolô II đã
tuyên phong 463 hiển thánh và 1284 chân phước[20]. Nói chung, các lễ nghi diễn
ra tại Rôma, nhưng Đức Giáo hoàng cũng lợi dụng các cuộc tông du để cử hành tại
chỗ. Chính tại Paris, nhân dịp Đại hội giới trẻ vào tháng 8 năm 1997 mà
Frédéric Ozanam được tuyên chân phước trong một lễ nghi tại Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 4/3/2003, các linh mục Pedro Poveda và José María Rubio được tuyên thánh
cùng với ba vị thánh lập dòng, các nữ tu Angela de la Cruz, Genoveva Torres và
Maravillas de Jésus. Nữ tu Edith Stein, dòng Cát Minh người Do-thái, chịu chết
trong trại tập trung 1942 được Đức Gioan Phaolô II tuyên phong tại Koln. Các cuộc
tông du ở Ba-lan, Mexico và Á châu đã trở thành cơ hội thuận thiện để cho phép
tôn kính các vị thánh mới. Như cha Bernard Ardura đã lý giải, chính sách này nhằm
“củng cố đức tin của các Giáo hội địa phương” theo một chiến lược rộng lớn của
việc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ”[21].
Trong
tông thư Tertio millennio adveniente (ngàn năm thứ ba đang đến) ban hành năm
1994, ĐTC nhắc lại giá trị của sự thánh thiện:
Khi
tuyên bố và tôn kính sự thánh thiện của con cái mình, Giáo hội tôn vinh chính
Thiên Chúa; nơi các vị tử đạo, Giáo hội tôn kính Đức Kitô, là cội nguồn của việc
tử đạo và thánh thiện của các ngài. Sau đó, tục lệ tuyên thánh được phát triển
và vẫn còn tồn tại trong Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Chính thống. Những
cuộc tuyên phong các thánh và các chân phước đã gia tăng trong những năm gần
đây. Những lễ nghi này bộc lộ sức sống của các Giáo hội địa phương, mà con số
ngày nay nhiều hơn là trong những thế kỷ đầu tiên và thiên niên kỷ thứ nhất. Sự
tôn vinh cao cả nhất mà tất cả các Giáo hội dâng lên Đức Kitô trước thềm ngàn
năm thứ ba là chứng tỏ sự hiện diện toàn năng của Đấng Cứu Thế qua những hoa
trái của đức tin, hy vọng và bác ái giữa những người nam nữ thuộc mọi ngôn ngữ
và chủng tộc đã đi theo Đức Kitô trong những hình thức khác nhau của ơn gọi
Kitô hữu. […] Một cách đặc biệt, cần phải nhìn nhận tính cách anh hùng trong việc
thực hành các nhân đức của các người nam nữ sống ơn gọi Kitô hữu trong hôn nhân:
xác tín rằng những hoa trái thánh thiện không thiếu trong bậc sống này, chúng
tôi nhận thấy cần tìm ra những phương thế thích hợp nhất để làm nổi bật sự
thánh thiện ấy và giới thiệu cho toàn thể Giáo hội như là những tấm gương và động
lực cho các đôi vợ chồng Kitô hữu[22].
Đoạn
văn này cho thấy rõ kế hoạch của Giáo hoàng trong việc tuyên phong các vị thánh
và chân phước. Nó quy chiếu về những quan điểm của Lumen gentium, đồng thời muốn
đề cao tính cách đa dạng của sự thánh thiện Kitô giáo và vai trò của nó trong
việc đào tạo ký ức và căn tính của các Giáo hội ở các quốc gia và địa phương.
Trong
nhãn giới này, làm sao bỏ qua được những cuộc tranh luận đã nổi lên đó đây khi
báo tin tuyên thánh hoặc chân phước? Chỉ cần nhớ lại vài tích điển hình. Việc
tuyên chân phước cho các linh mục chết khi bị đi đày ở Rochefort vì không chịu
tuyên thệ trung thành với cách mạng Pháp 1789 đã làm sống lại những tranh cãi về
bản chất của cuộc bách hại tôn giáo cũng như vai trò của Giáo hội trong giai đoạn
lịch sử ấy. Việc phong chân phước năm 1998 cho hồng y Stepinac, tổng giám mục
Zagreb chết năm 1960, vì chống lại chế độ cộng sản cũng đã gợi lên những tranh
luận tương tự bên Nam Tư (Yougoslavie). Trung quốc đã chính thức phản đối việc
tuyên thánh cho 120 vị tử đạo diễn ra ngày 1/10/2000, vì lý do nội dung cũng
như thể thức: ngày được chọn cho nghi lễ trùng với lễ tuyên bố thiết lập Cộng
hòa Nhân dân năm 1949. Sự trùng hợp này phải chăng là một sự tính toán cố ý, một
khi ta biết rằng Vatican rất khéo léo về ngoại giao? Đối với nước Tây Ban Nha,
Đức Phaolô VI đã ngâm các hồ sơ liên quan đến cuộc nội chiến, nhưng Đức Gioan
Phaolô II đã tiến hành nhiều cuộc tuyên phong tập thể các vị tử đạo thời nội
chiến[23], nghĩa là các linh mục tu sĩ bị phe cộng hòa giết “vì thù ghét đức
tin” theo thuật ngữ của Vatican. Nhiều người đã phản đối một đàng là thủ tục điều
tra quá hấp tấp, và đàng khác là trường hợp các linh mục xứ Basque bị hành quyết
bởi chính quyền Franco lại không được Bộ Tuyên thánh duyệt xét. Việc tuyên
thánh mau lẹ cho vị sáng lập Opus Dei, linh mục José María Escrivá de Balaguer,
hồi tháng 10 năm 2002, chỉ cách 27 năm sau khi tạ thế[24], đã gợi lên nhiều
nghi vấn về việc ủng hộ lập trường bảo thủ trong Giáo hội. Một khía cạnh nữa đã
gây ra nhiều ngạc nhiên: tại sao có những vụ phong chân phước cho các Giáo
hoàng thuộc thế kỷ XX? Đức Piô X được tuyên thánh 40 năm sau khi ly trần bởi Đức
Piô XII. Kể từ đó, Đức Piô IX và Gioan XXIII được phong chân phước, bước đầu
tiên trên tiến trình tuyên thánh. Các hồ sơ của Đức Piô XII và Phaolô VI đã được
xúc tiến; phải chăng Giáo hoàng bắt buộc phải là thánh? Nếu như vậy thì tại sao
lại gạt ra Đức Beneđictô XV và Piô XI?
Tuy
triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II có nhiều điểm mới mẻ, nhưng cũng không nên bỏ
qua một sự liên tục với các vị tiền nhiệm. Dĩ nhiên, con số các vị thánh ngoài
châu Âu có gia tăng[25], nhưng việc lựa chọn các vị chứng nhân của sự bành trướng
Kitô giáo là một hằng số từ thời Đức Lêô XIII, được mệnh danh là “Giáo hoàng của
các vùng truyền giáo”. Đức Piô XII là người đầu tiên tuyên phong các chân phước
Trung hoa. Trong số 84 vị thánh được Đức Phaolô VI tuyên phong, có 22 vị tử đạo
Uganda[26]. Một nét liên tục nữa có thể nhận thấy nơi sự nhấn mạnh đến các cuộc
tử đạo: Đức Piô XI đã tuyên phong chân phước cho nhiều nữ tu bị sát hại thời
cách mạng Pháp 1789 cũng như các linh mục và tu sĩ bị giết nhân các cuộc sát hại
vào tháng 9 năm 1792. Người ta lại gặp thấy trường hợp này dưới thời Piô XII. Đức
Piô XII cũng như Đức Phaolô VI sau này, đã tuyên phong các vị tử đạo thời Cải
cách Tin lành, gợi lại ký ức đau thương của những cuộc chiến tranh tôn giáo bên
Anh quốc. Với Đức Gioan Phaolô II, danh sách được mở rộng với các vị tử đạo thời
Đệ nhị thế chiến và Đông Âu Cộng sản.
Như
thế các Giáo hoàng thế kỷ XX đã tuyên phong nhiều vị tử đạo vì muốn làm chứng
cho lịch sử Giáo hội xét về chiều kích truyền giáo cũng như nhắc nhớ các cuộc
bách hại. Tính cách hiện đại của các vị thánh không phải là hiện tượng mới mẻ.
Tuy nhiên cũng không nên bỏ qua việc tưởng nhớ những nhân vật xa xưa mà vẫn còn
để lại ấn tượng. Chúng tôi chỉ giới hạn vào hai trường hợp: năm 1920 tuyên
thánh cho Jeanne d’Arc (+1431), và năm 1989 tuyên thánh cho Agnes Praga, nữ tu
Phan-sinh (+1282) trở thành bổn mạng của nước Séc.
Một
yếu tố cuối cùng của chính sách tuyên thánh cần được nêu bật. Đó là việc tôn
các thánh làm bổn mạng với một tầm nhìn mục vụ và việc tôn phong các “tiến sĩ Hội
thánh”. Con số các tiến sĩ Hội thánh đã tăng thêm trong thế kỷ XX[27]. Đức Piô
XI đã tôn phong bốn vị: thánh Phêrô Canisius, thánh Robertô Bellarminô, thánh
Gioan Thánh giá và thánh Albertô Cả. Thánh Antôn Padova, vị thánh rất được giới
bình dân sùng mộ, đã được Đức Piô XII phong tiến sĩ năm 1946. Đức Gioan XXIII
tôn phong thánh Laurensô Brindisi. Đức Phaolô VI phong hai phụ nữ làm tiến sĩ Hội
thánh năm 1970: thánh Têrêsa Avila và thánh Catarina Sienna. Đức Gioan Phaolô
II thêm thánh Têrêsa Lisieux. Việc đặt một vị thánh làm bổn mạng của một nhóm
người muốn đề cao tấm gương cũng như vai trò chuyển cầu, và đồng thời muốn gửi
một sứ điệp tinh thần. Như thế, Đức Piô XI đặt thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu làm
bổn mạng các nơi truyền giáo ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê (14/12/1927).
Giữa một người đi loan báo Tin Mừng đến vùng đất xa xôi và một nữ tu khiêm tốn
dòng kín Cát-minh, đâu là mối liên kết nếu không phải là sự khẳng định về hiệu
lực của việc cầu nguyện trong sứ mạng truyền giáo và lòng tin tưởng vào sự bầu
cử của vị thánh trẻ này? Ngày 23/4/1929, Đức Piô XI đã chọn thánh Gioan
Vianney, cha sở xứ Ars, làm bổn mạng các cha quản xứ. Đức Gioan Phaolô II thêm
hai vị Cyrillô và Methodiô là những nhà truyền giáo cho các dân tộc Slav. Lúc ấy
là năm 1980, và việc này có tầm ý nghĩa sâu xa khi kẻ đề xướng là một vị Giáo
hoàng đầu tiên ngoài nước Ý kể từ thời Đức Adrianô Utrecht (1522-1523) trong một
châu Âu còn bị phân rẽ do hậu quả của Đệ nhị thế chiến và cuộc chiến tranh lạnh.
Được Đức Piô XI tuyên thánh năm 1935, thánh Thomas More được Đức Gioan Phaolô
II đặt làm bổn mạng các chính trị gia. Nên biết rằng hiện nay người ta đang đi
tìm thánh bổn mạng cho Internet: hai mẫu gương của việc phục vụ khoa học được để
cử, đó là thánh Isidorô Sévilla và thánh Tôma Aquinô. Việc phân tích quyết định,
lấy từ các thí dụ vừa trưng dẫn, cho thấy việc sử dụng sự thánh thiện như là một
dụng cụ mục vụ và chính trị[28]. Trong khuôn khổ hạn chế của việc sử dung sự
thánh thiện thời này, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sức mạnh của dụng cụ này, và
tìm cách hiểu biết ý nghĩa của nó trong Giáo hội Công giáo.
III.
Các vị thánh thời nay
Nếu
chúng ta nhìn vào những con người được phong chân phước hay hiển thánh sống
trong thế kỷ XX (hay một phần của thế kỷ), chúng ta sẽ còn khám phá thêm một
vài khía cạnh thời đại của sự thánh thiện[29].
Vào
thời cận đại, sự thánh thiện đã thay đổi, không phải về bản chất nhưng là về ý
nghĩa đối với Giáo hội. Việc gián đoạn các cuộc tuyên thánh từ năm 1523 đến
1594, một sự kiện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Giáo hội, tỏ cho thấy những
nghi ngờ tiếp theo những định nghĩa tín lý và luân lý của công đồng Trento[30].
Tiếp theo đó xem ra thời hoàng kim của sự thánh thiện đã đạt tới vào thế kỷ
XVII. Con số các cuộc tuyên thánh đã tăng thêm rất nhiều: người ta đếm được 25
vụ giữa triều Giáo hoàng Clêmentê VII (1592-1605) và Alexandrô VIII
(1689-1691), rồi 29 vụ trong thế kỷ XVIII (từ Clêmentê XI [1700-1721] đến
Clêmentê XIII [1758-1769]) và cuối cùng là 80 vụ giữa năm 1800, khởi đầu triều
đại của Piô VII, và 1903, là năm Lêô XIII tạ thế. Nhưng trong số những vị thánh
được tuyên phong ta thấy có những vị nói được là thuộc về thời cận đại. Chẳng hạn
như thánh Carolô Borromêô, tổng giám mục Milan, qua đời năm 1584 và được Đức
Phaolô V tuyên phong ngày 1/11/1610. Cuộc tuyên thánh thời danh ngày 12/3/1622
do Đức Phaolô V chủ sự đã đặt lên bàn thờ các thánh Ignaxiô Loyola (1491-1556),
Phanxicô Xaviê (1506-1552), Têrêsa Avila (1515-1582) và Philipphê Néri
(1515-1595). Sự hiện diện của thánh Isidorô nông dân (k.1080- k.1130), bổn mạng
thành phố Madrid, đã không làm thay đổi nhận định về những quyết nghị của Đức
Grêgôriô XV (1621-1623). Ta cần phân biệt những khuôn mẫu đời sống và hoạt động
tông đồ, cải tổ hoặc truyền giáo trong Giáo hội Công giáo sau thời kỳ Cải cách
Tin lành.
Nếu
dừng lại ở hai thế kỷ gần đây, từ Giáo hoàng Piô VII đến Gioan Phaolô II, ta có
thể phác họa một lối tiếp cận thống kê để đánh giá các thánh cận đại trong toàn
bộ các cuộc tuyên thánh. Chúng tôi đã trình bày trong biểu đồ 1 con số các tân
hiển thánh theo triều đại Giáo hoàng; tiếp theo đây, trong biểu đồ 2 sẽ cho thấy
sự phân phối các thánh theo thế kỷ mà các ngài sinh sống[31].
Biểu
đồ 2. Sự phân phối theo thế kỷ sinh sống những vị thánh được tuyên phong trong
thế kỷ XIX và XX
a)
Đối với triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II, các dữ liệu của Bộ Tuyên thánh
Congregatio de Causis Sanctorum, Index ac status causarum, dừng lại ở năm 1999,
được bổ túc thêm với hồ sơ tham khảo trên internet của Vatican, bao gồm cả những
cuộc tuyên thánh vào tháng 5 năm 2003 tại Madrid và tháng 6 năm 2003 tại Rôma:www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/index_saints_sp.html.
b)
Trong số 120 vị tử đạo tại Trung Hoa được tuyên phong ngày 1/10/2000, người ta
đếm được 4 thiếu nhi: hai em 9 tuổi (Phaolô Lang Fu và Anrê Wang Tianqing), một
thiếu nữ 11 tuổi (Maria Zheng Xu) và một thiếu nữ 14 tuổi (Ana Wang), tất cả bị
sát hại năm 1909, và chúng tôi xếp vào các thánh thuộc thế kỷ XX.
Một
kết luận đầu tiên có thể rút ra từ biểu đồ này là các vị Giáo hoàng kể từ Đức
Piô IX có khuynh hướng mở rộng việc tuyên thánh đến những người sống vào thời cận
đại. Hiện tượng này được xác nhận bởi biểu đồ sau đây khi chúng tôi đối chiếu
giữa năm qua đời và năm được tuyên thánh. Khi chú ý đến khoảng cách tối thiểu
giữa hai nhật kỳ ấy, chúng ta có thể đo lường tính cận đại của vài cuộc tuyên
thánh, cũng như những sự dè dặt về phía Giáo hội.
Biểu
đồ 3. Khoảng cách tối thiểu từ khi qua đời tới lúc được tuyên thánh
a) Chúng tôi ghi
nhận trường hợp cụ thể của việc tuyên thánh cha Escrivá de Balaguer năm 2002.
Trước đó, thánh Maximilianô Kolbe (qua đời năm 1941 và tuyên thánh năm 1982) và
Adéodat Mandic (qua đời năm 1942 và tuyên thánh năm 1983) là những vị mà thời
gian tuyên thánh được xếp vào hạng ngắn nhất.
Mặc
dù mẫu nghiên cứu bị hạn chế, nhưng ta có thể nói rằng, nhìn chung vào thế kỷ
XX, khoảng cách giữa lúc tạ thế và lúc tuyên thánh đã được thu hẹp lại. Một cuộc
nghiên cứu về tất cả các vị thánh trong biểu đồ 2 cũng đưa tới kết luận tương tự.
Biểu
đồ vừa rồi nghiên cứu các cuộc tuyên thánh cần được bổ túc với những dữ kiện
rút ra từ các mẫu tuyên phong chân phước[32].
Biểu
đồ 4. Các chân phước được tuyên phong kể từ Đức Piô VII
a)
Đối với Giáo hoàng Gioan Phaolô II, các dữ liệu lấy từ Congregatio de Causis
Sanctorum, Index ac status causarum, dừng lại ở năm 1999, được bổ túc thêm với
thông tin của Vatican cho đến năm 2003.
Con
số đông đảo các vị chân phước dưới các triều Giáo hoàng Piô IX, Piô XI, Piô XII
và Gioan Phaolô II là vì có những cuộc tuyên phong chân phước tập thể. Đức Piô
IX đã tôn vinh 205 vị tử đạo Tây Ban Nha bị giết bên châu Mỹ hồi thế kỷ XVII.
Trong số các chân phước dười thời Đức Piô XI, ta có thể ghi nhận nhóm 32 nữ tu
chịu chết tại Orange năm 1794 trong thời cách mạng Pháp, cũng như 191 vị tử đạo
vào tháng 9 năm 1792 trong khung cảnh cuộc cách mạng ấy. Năm 1929, Đức Piô XI
đã phong chân phước cho 106 vị tử đạo trong thời Cải cách bên Anh vào thế kỷ
XVII. Dưới thời Đức Gioan Phaolô II, trong số các cuộc tuyên phong chân phước tập
thể, ta có thể kể đến các nạn nhân của cuộc cách mạng Pháp (153 vị, nghĩa là
12,1% trong tổng số các chân phước được tuyên phong năm 2003), của cuộc nội chiến
Tây Ban Nha (449, nghĩa là 35,4%), các vị tử đạo Ba Lan trong thời Đệ nhị thế
chiến (108, tức là 8,5%). Nếu chúng ta thêm con số 25 linh mục bị sát hại ở
Mexico vào thập niên 1920, được Đức Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước và
hiển thánh – điều này gây ra rắc rối trong các số thống kê vì xuất hiện hai lần
–, thì tổng số các chân phước và hiển thánh chịu chết vì đức tin trong một
khung cảnh chính trị cụ thể đạt đến 58% tổng số các chân phước dưới thời Đức
Gioan Phaolô II. Ngược lại, dưới thời Đức Phaolô VI không có cuộc phong chân
phước tập thể, điều này gắn liền với một sự dè đặt ngoại giao vì không muốn gợi
lại những kỷ niệm đau thương của những biến cố chính trị trong thế kỷ XX (cụ thể
là cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha).
Biểu
đồ 5. Khoảng cách tối thiểu từ khi qua đời đến lúc tuyên phong chân phước[33]
a)
Ta có thể dễ nhận ra đây là trường hợp Mẹ Têrêsa Calcutta được phong chân phước
ngày 19/10/2003.
Những
kết luận mà chúng tôi đưa ra liên quan đến nhịp độ tuyên thánh cũng được áp dụng
cho các cuộc tuyên phong chân phước. Khoảng cách từ khi vị đáng kính qua đời
cho đến khi tuyên bố cho phép tôn kính công khai nhằm giới thiệu những khuôn mặt
ngày càng gần gũi với thời đại hôm nay và giúp cho đời sống đức tin của các tín
hữu. Rõ ràng là việc tuyên thánh nằm trong kế hoạch mục vụ: cho thấy sự thánh
thiện luôn mang tính hiện thực, nghĩa là những mẫu gương thánh thiện vẫn sống động
giữa những bối cảnh xã hội và lịch sử đang chuyển động.
Từ
hình ảnh do xã-hội-học cung cấp, ta có thể phác họa một mẫu thánh nhân thời cận
đại không? Theo thứ tự cổ truyền của Giáo hội, các thánh được xếp theo thứ bậc:
tử đạo và tuyên tín, Giáo hoàng, tiến sĩ, giám mục, trinh nữ và quả phụ. Thứ tự
này vẫn còn được duy trì trong các sách phụng vụ, nhưng ra như đã suy giảm
trong tâm thức xã hội. Người thời nay chú ý đến các khuôn mẫu nhiều hơn. Ở điểm
này có một sự thay đổi so với thời Trung cổ: trước đây, người ta chạy đến với
các thánh để nhờ các ngài cầu xin ơn huệ; ngày nay, người ra nhìn lên các ngài
như mẫu gương của đời sống đức tin[34].
Linh
mục Dominique-Marie Dauzet đã nghiên cứu xã-hội-học về các thánh thời cận đại,
dựa trên 157 vị được tuyên thánh sau năm 1900, đã đưa ra những kết luận như
sau[35]: con số 157 vị được phân chia ra 87 nam và 70 nữ, 15 giáo dân (6 nam, 9
nữ) và 142 giáo sĩ: 128 là người Âu châu, nghĩa là 81,5% trên tổng số (trong đó
67 người Ý – 42,7% trong tổng số chung và 52,3% trong tổng số châu Âu –, 19 người
Ba-lan – 12,1% trong tổng số – và 16 người Tây Ban Nha, nghĩa là hơn 10% một
chút trên tổng số). Người ta nhận thấy con số đông đảo các giáo sĩ, và câu hỏi
được đặt ra: phải chăng đó là hậu quả của thủ tục tuyên thánh rườm rà về hành
chánh, đòi hỏi sự hiểu biết các ngóc ngách của hệ thống, cùng với sự huy động vật
chất, nghĩa là tài chính? Hoặc là sự ưu tiên dành cho các giáo sĩ và tu sĩ tuân
theo lý luận của Hiến chế Tín lý Lumen gentium, khi đặt hai hàng ngũ này đứng đầu
những người được gọi nên thánh? Từ đó nảy ra một câu hỏi khác: tai sao các giáo
dân lập gia đình hầu như vắng mặt trong số những người được đặt lên bàn thờ? Tại
sao một nữ tu lập dòng trong một giáo phận bên Ý hay Tây Ban Nha, những người
chỉ được vài trăm con cái hoặc đồng hương biết đến, lại được phong chân phước
hơn là một người thợ nề, một y sĩ, một doanh nhân đã sống trung tín với Tin Mừng,
lắm lúc rất anh hùng[36]?
Phải
chăng về mặt này, Đức Gioan Phaolô II vẫn tiếp tục đường hướng của các vị tiền
nhiệm trước công đồng Vaticanô II (Piô XI và Piô XII) với quan niệm phẩm trật về
Giáo hội, như có tác giả đã nghĩ[37]?
Ngoài
các yếu tố vừa rồi, cần phải thêm những nhận xét về việc phong chân phước dưới
triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Trước hết người ta có yếu tố chính trị: khi
tuyên dương những người đã bị giết “vì sự thù ghét đức tin”, ngài đã đề cao các
nạn nhân của cuộc cách mạng Pháp, cuộc bài trừ tôn giáo ở Mexico, cuộc nội chiến
Tây Ban Nha, Đệ nhị thế chiến. Việc lựa chọn này nằm trong tầm nhìn mục vụ của
Giáo hoàng. Ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, chính sách phong thánh của
ngài tuân theo ba tiêu chí. Thứ nhất là đạo lý của Lumen gentium về ơn gọi phổ
quát nên thánh[38]. Thứ hai là làm rõ tính cách phổ quát của Giáo hội: các vị
thánh và chân phước tượng trưng cho Giáo hội năm châu, tuy (tương tự như hồng y
đoàn) phần lớn là người châu Âu nhưng đón tiếp các thành phần của các dân mới
đón nhận Tin Mừng. Tiêu chí thứ ba là tính cách hiện đại của các cuộc tử đạo,
điều này nằm trong ý tưởng của Đức Giáo hoàng[39]. Theo Đức Gioan Phaolô II,
vào cuối một thế kỷ trong đó quyền tự do tín ngưỡng bị dày xéo, và các quyền tự
do khác cũng chung một số phận, Giáo hội có bổn phận không những tôn vinh những
người đã lấy việc hy sinh mạng sống làm sự đối kháng thiêng liêng, mà còn chứng
tỏ cho các tín hữu ngày nay thấy những hệ luận của đời sống đức tin dồi dào. Sự
kết hợp giữa việc tử đạo với tính phổ quát của Giáo hội nằm trong Giáo-hội-luận
của Đức Gioan Phaolô II; người muốn các Giáo hội địa phương hãy cắm rễ trong lịch
sử thánh thiện của mình. Do đó, việc gia tăng các cuộc phong thánh không phải
là việc tình cờ, nhưng muốn phác họa một lịch sử siêu nhiên của Giáo hội trong
thế giới. Đó chính là con bài của sự thánh thiện thời nay: nó muốn nói lên rằng
các nhân vật xuất chúng vẫn tiếp tục hiện diện, nhưng không nhằm kéo theo ơn lạ
xuống cho nhân loại cho bằng dẫn đưa thế giới vào cõi siêu nhiên. Nói cách
khác, đã có một sự thay đổi trong vai trò xã hội của các vị thánh: vào thời
Trung cổ, các ngài giữ vai trò cầu bầu cho xã hội; ngày nay, các ngài đưa Giáo
hội vào sự hiệp thông với cộng đoàn các phúc nhân[40].
Từ
những suy tư vừa rồi, ta có thể rút ra ba kết luận. Kết luận thứ nhất là “hằng
số” của sự thánh thiện. Điều này muốn rằng định nghĩa Công giáo về sự thánh thiện,
tuy với những thể thức mới của thời cận đại, vẫn giống như thời xưa. Việc đối
chiếu giữa Giáo hội của những thế kỷ đầu tiên với Giáo hội thời nay được đan kết
với nhau nhờ các thánh tử đạo, những người đã họa lại hy lễ tình yêu cao vời của
Đức Kitô. Về điểm này, ta có thể chấp nhận nhận xét của ông André Vauchez: xét
như là cảm nghiệm cá nhân tìm kiếm sự hoàn thiện, sự thánh thiện Kitô giáo
không thay đổi theo thời gian; về thực chất, nó vẫn y nguyên[41]. Như vậy, nhà
sử học đành nhường chỗ cho nhà thần học.
Kết
luận thứ hai nêu bật sự liên tục trong các chính sách tuyên thánh từ thời cận đại
cho tới ngày nay. Sự tập trung quyền bính vào Rôma đã mang lại hiệu quả. Chính
sách của Đức Gioan Phaolô II tuy gây nhiều ấn tượng dưới nhiều mặt nhưng vẫn tiếp
tục đường lối các Giáo hoàng trong thế kỷ XX, có lẽ chỉ khác đôi chút dưới thời
Đức Phaolô VI. Giá trị của sự tử đạo, tính phổ quát của Giáo hội, lòng bác ái
truyền giáo, tầm quan trọng của đời sống cầu nguyện và dấn thân cho người
nghèo: tất cả những nét ấy tạo ra một khuôn mẫu của những vị thánh được tuyên
phong trong hai thế kỷ gần đây. Việc tập trung thủ tục tuyên thánh vào Rôma có
lợi cho những “ứng viên” giáo sĩ và tu sĩ. Cần phải chờ một thời gian nữa mới
nhận ra những hiệu quả của giáo huấn công đồng Vaticanô II về vai trò của các
giáo dân. Điều này sẽ được sáng tỏ trong các bài nghiên cứu về các cuộc tuyên
thánh trong thế kỷ XXI.
Kết
luận thứ ba và cuối cùng: sự thánh thiện diễn tả một mối tương quan cụ thể giữa
các người Công giáo với lịch sử Giáo hội nói riêng và lịch sử nói chung. Hiện
tượng thánh thiện là một diễn tả tín điều về” sự hiệp thông các thánh” ra thực
tại. Nó du nhập một nguyên tắc siêu thời gian vào trong lịch sử. Các cuộc tuyên
thánh cho thấy những cá nhân được cảm nghiệm chân lý về sự thánh thiện và đã để
cho nó tác dụng vào xã hội, qua những công tác truyền giáo hoặc bác ái. Còn rất
nhiều công trường thi công dành cho các nhà nghiên cứu lịch sử và xã-hội-học
các tôn giáo liên quan đến lãnh vực này: ý nghĩa của việc tôn kính các thánh
trong tâm thức các tín hữu thời nay (các phép lạ có vai trò như thế nào), ảnh
hưởng của Giáo hội đối với xã hội[42]; khung cảnh văn hóa, chính trị, địa lý của
những vị thánh (các ngài đến từ những hoàn cảnh, nghề nghiệp nào, hoạt động
trong môi trường nào); ảnh hưởng của các ngài trong Giáo hội và trong xã hội
(các thánh đã làm cho Giáo hội hiện diện như thế nào giữa lòng thế giới).
Thư
mục
Alberigo,
Giuseppe (1988), “Jean-Paul II. Dix ans de pontificat”, Études, 368 (5), pp.
669-681.
Ardura,
Bernard (2002), “Béatifications et canonisations de Jean-Paul II”, Communio.
Revue catholique internationale pour l’intelligence de la foi, 37 (5-6), numéro
thématique “La sainteté aujourd’hui”, pp. 77-90.
Chanut,
Frédéric (1999), “Une contribution à l’étude de la radiation des saints dans
les ordos diocésains”, dans Gérard Cholvy (éd.), La sainteté. Actes de la viie
Université d’été du Carrefour d’histoire religieuse (Saint-Didier, Vaucluse,
9-12 juillet 1998), Montpellier, pp. 269-293.
Chiovaro,
Francesco, Jean Delumeau, André Mandouze, Bernard Plongeron, Pierre Riché,
Claude Savart et André Vauchez (1986-1988), Histoire des saints et de la
sainteté chrétienne (10 t. en 11 vol.), Paris.
Cholvy,
Gérard (éd.) (1999), La sainteté. Actes de la viie Université d’été du
Carrefour d’histoire religieuse (Saint-Didier, Vaucluse, 9-12 juillet 1998),
Montpellier.
Congregatio
pro Causis Sanctorum, Index ac status causarum, Vatican, éd. de 1999.
Dauzet,
Dominique-Marie (2002), “Faut-il encore canoniser?”, Communio. Revue catholique
internationale pour l’intelligence de la foi, 37 (5-6), numéro thématique “La
sainteté aujourd’hui”, pp. 99-114.
Delooz,
Pierre (1969), Sociologie et canonisation, Liège-La Haye.
Dictionnaire
de spiritualité ascétique et mystique: doctrine et histoire(17 vol.), Paris,
1932-1995.
Dictionnaire
de théologie catholique: contenant l’exposé des doctrines de la théologie
catholique, leurs preuves et leur histoire (15 t. en 30 vol.), Paris,
1903-1950.
Fouilloux,
Étienne (1993), Au cœur du xxe siècle religieux, Paris.
Hilaire,
Yves-Marie (dir.) (1996), Histoire de la papauté. 2000 ans de mission et de
tribulations, Paris.
Jounel,
Pierre (1986), Le renouveau du culte des saints dans la liturgie Rômaine, Rome.
Langlois,
Claude (2002), Le poème de septembre. Lecture du manuscrit B de Thérèse de
Lisieux, Paris.
Mayeur-Jaouen,
Catherine (1998), “Saints coptes et saints musulmans de l’Égypte du xxe
siècle”, Revue de l’histoire des religions, 215 (1), numéro thématique “Les
voies de la sainteté dans l’islam et le christianisme”, pp. 39-186.
Riccardi,
Andrea (2002), Ils sont morts pour leur foi. La persécution des chrétiens au
xxe siècle, Paris.
Sacrosanctum
concilium ou La liturgie, constitution conciliaire et directives d’application
de la réforme liturgique, Paris, 2e éd. 1966.
Sorrel,
Christian (1999), “La sainteté entre hagiographie et histoire”, dans Gérard
Cholvy (éd.), La sainteté. Actes de la viie Université d’été du Carrefour
d’histoire religieuse (Saint-Didier, Vaucluse, 9-12 juillet 1998), Montpellier,
pp. 5-30.
Tallon,
Alain (1999) “La sainteté au temps du concile de Trente” dans Gérard Cholvy
(éd.), La sainteté. Actes de la viie Université d’été du Carrefour d’histoire
religieuse (Saint-Didier, Vaucluse, 9-12 juillet 1998), Montpellier, pp.
98-107.
Vauchez,
André (1988), La sainteté en Occident aux derniers siècles du Moyen Âge,
d’après les procès de canonisation et les documents hagiographiques, Rome.
Vauchez,
André (1999), Saints, prophètes et visionnaires. Le pouvoir surnaturel au Moyen
Âge, Paris.
Phụ
lục
Bài
viết trên đây dừng lại ở các số thống kê vào năm 2003. Chúng tôi xin cập nhật
các dữ kiện cho đến ngày 1/5/2021.
1/
Đức Gioan Phaolô II (1978-2005): tuyên phong 482 thánh và 1341 chân phước.
2/
Đức Bênêđictô XVI (2005-2013): tuyên phong 44 thánh, (trong đó có 1 sắc lệnh
aequipollens dành cho thánh nữ Hildegard Bingen (1098-1179), và 869 chân phước.
3/ Đức Phanxicô: từ 2013 đến 2021, ĐTC Phanxicô đã tôn phong 899 vị thánh. Đây
là con số kỷ lục, hơn cả ĐTC Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, cũng nên biết sở dĩ
con số lên cao như vậy là vì trong buổi cử hành đầu tiên, (ngày 12/5/2013),
ngài đã tôn phong 813 vị tử đạo ở Otranto ngày 14/8/1480. Một đặc điểm của triều
Giáo hoàng này là 7 sắc lệnh aequipollens dành cho các vị đã qua đời từ lâu và
đã được tôn kính, đó là:
· Năm
2013 (9/10): Angela da Foligno (1248-1309) giáo dân dòng Ba Phan Sinh, (17/12):
Pietro Favre S.J. (1506-1546).
· Năm
2014 (3/4): Giuseppe de Anchieta S.J. (1534-1597); Maria dell'Incarnazione
Guyart (1599-1672), sáng lập dòng Ursuline ở Canada; François de
Montmorency-Laval (1623-1708), giám mục Québec.
· Năm
2019 (5/7): Bartolomeo Fernandes dei Martiri O.P. (1514-1590), giám mục Braga.
· Năm
2021 (24/4): Margherita da Città di Castello (1287-1320), giáo dân Dòng Ba Đa
Minh.
Việc
phong thánh “aequipollens”[43] liên quan đến các nhân vật đã qua đời từ lâu, và
được tôn kính như vị thánh. Đối lại, nên ghi nhận việc tuyên phong những nhân vật
khá quen biết trong thời đại chúng ta:
· Ba
Giáo hoàng của công đồng Vaticanô II: Gioan XXIII (1881-1963) và Gioan Phaolô
II (1920-2005) được tuyên phong ngày 27/4/2014; Phaolô VI (1897-1978) được
tuyên phong ngày 14/10/2018.
· -
Hai thiếu nhi Fatima: Francesco Marto (1908-1919) và Giacinta Marto (1910-1920)
được tuyên phong vào ngày giáp 100 năm Đức Mẹ hiện ra, ngày 13/5/2017.
· Mẹ
Terêsa Calcutta (1910-1997) được tuyên phong ngày 4/9/2016.
· Giám
mục Oscar Romero (1917-1980) của San Salvador, được tuyên phong ngày
14/10/2018.
-------
[1]
Chẳng hạn như Claude Langlois khi nghiên cứu linh đạo của thánh nữ Thérèse
Lisieux (xem Langlois) và Étienne Fouilloux về thần học đương đại (xem
Fouilloux, 1993).
[2]
Sorrel, 1999.
[3]
Ngày 6/2/1930, ĐTC Piô XI đã thiết lập một ủy ban sử học trong Bộ Tuyên thánh,
để cứu xét tính xác thực của các chứng cớ và nhận định thu thập liên quan đến
những nhân vật được xin phong thánh mà đã qua đời từ lâu. Ngày 18/8/1883, ĐTC
Lêô XIII, trong một lá thư gửi các hồng y de Luca, Pitra et Hergenroether, đã
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các nhà sử học trong việc nghiên cứu phê bình
các nguồn sử liệu.
[4]
Lumen gentium, § 40.
[5]
Lumen gentium, § 42.
[6]
“Xét theo bản chất, sự thánh thiện được đồng hóa với đức mến, nghĩa là Tình yêu
theo nghĩa tinh tuyền nhất, và sự thánh hóa không là gì khác ngoài sự tiến tới
đức mến lớn hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đức mến bắt nguồn không phải từ
con người nhưng là từ Thiên Chúa”. Xem “Sainteté-sanctification”, in:
Dictionnaire de spiritualité ascétique et mystique, vol. 13, col. 192.
[7]
“Culte des saints”, Dictionnaire de théologie catholique, t. xiv (1), col. 974.
[8]
Giáo hoàng Urbanô VIII đã nhấn mạnh đến điểm này, để tránh những hậu quả tự
phát ở ngoài vòng kiểm soát của giáo quyền.
[9]
Trong tông hiến Divinus perfectionis magister năm 1983, Đức Gioan Phaolô II nêu
bật đặc tính tập đoàn của việc điều tra và cho thấy nó phù hợp với đường lối của
công đồng Vaticanô II.
[10]
X. Vauchez, 1999, tr. 36. Ngay trong kết luận của luận án, A. Vauchez đã nhận
thấy vào năm 1431, trong vụ án dẫn đến cái chết của Jeanne d’Arc, đã biểu lộ
“việc phủ nhận [về phía các giáo sĩ] sự thánh thiện được giới bình dân nhìn nhận”;
Vauchez, 1988, tr. 629.
[11] Vauchez, 1999, trang 36.
[12]
Về điểm này, xem Jounel, 1986.
[13]
Đó là các thánh Thomas Becket, Bênađô Clairvaux, Phanxicô Assisi, Đa Minh,
Clara, Tôma Aquinô, Bonaventura và vua Louis IX.
[14]
Thánh Carôlô Borromêo, qua đời năm 1584, được tuyên thánh năm 1610, được kính
như lễ bậc ba (semi duplex) từ năm 1652, rồi tăng lên bậc hai (duplex) từ năm
1659. Thánh Inhaxiô Loyola, qua đời năm 1556, phong thánh năm 1622, được ghi
vào lịch phụng vụ năm 1644 (bậc ba rồi lên bậc hai vào năm 1667). Thánh
Vinh-sơn Phaolô qua đời năm 1660, được phong thánh năm 1729, được vào lịch phụng
vụ bậc ba vào năm 1753. Thánh Alphonsô Liguori qua đời năm 1787 được ghi tên
vào lịch vào chính lúc được tuyên thánh vào năm 1839. Thánh Thérèse Lisieux được
tuyên thánh năm 1925, và được ghi vào lịch vào năm 1927. X. Jounel, 1986. Lịch
năm 1969 đã bỏ các bậc lễ hạng ba (simplex), hai (semi-duplex) và nhất
(duplex), và thay thể bẳng phân biệt lễ nhớ tự do (memoria facultativa, các
thánh địa phương), lễ nhớ bắt buộc (memoria obligatoria, mang tính phổ quát),
và các lễ kính (festum, các thánh tông đồ).
[15]
Ngày 15/5/1912, Đức Piô X yêu cầu tất cả các giám mục điều chỉnh các lịch riêng
của giáo phận bằng cách loại bỏ các vị thánh đáng nghi ngờ hoặc không có bằng
chứng. Chanut, 1999, đưa ra một thí dụ về công việc thực hiện trong giáo phận
Toulouse dưới thời Đức cha Saliège.
[16] “Giáo hội đã đưa vào niên lịch những lễ kính nhớ các thánh tử đạo và các vị
thánh khác, những người đã đạt tới sự trọn lành nhờ ân sủng muôn hình vạn trạng
của Thiên Chúa và đã lãnh nhận phần rỗi đời đời, giờ đây đang đồng tâm hát ca
chúc tụng Thiên Chúa trên thiên quốc và vẫn luôn chuyển cầu cho chúng ta. Trong
những ngày kính nhớ các thánh, Giáo hội công bồ mầu nhiệm Vượt qua nơi những
người đã cũng chịu khổ nạn và cùng được vinh hiển với Chúa Kitô, đồng thời cũng
trình bày cho các tín hữu gương sống của các ngài, những mẫu gương đang lôi kéo
mọi người đến với Chúa Cha qua Đức Kitô, và nhờ công nghiệp các ngài, Giáo hội
lãnh nhận muôn ơn lành Chúa ban” (Sacrosanctum concilium, chương V, số 104).
“Theo truyền thống, các thánh được tôn kính trong Giáo hội và các thánh tích
đích thực cũng như ảnh tượng của các ngài vẫn được sung kính. Lễ kính các thánh
loan tuyền những việc kỳ diệu Chúa Kitô đã làm nơi các tôi tớ của Người và
trình bày những gương sáng thích hợp cho các tín hữu noi theo. Để lễ kính các
thánh không lấn át các lễ kính nhớ những mầu nhiệm cứu chuộc, một số lễ các
thánh sẽ được cử hành riêng nơi các Giáo hội địa phương, quốc gia hay dòng tu,
và chỉ những lễ kính các vị thánh thực sự có tầm quan trọng phổ quát mới được cử
hành chung trong toàn thể Giáo hội” (ibid., số 111).
[17]
Lịch phụng vụ phổ quát ghi tên các thánh tử đạo ở Bắc Mỹ hồi thế kỷ XVII (Isaac
Jogues, Jean de Brébeuf và các đồng bạn được tuyên thánh năm 1930), Nam Mỹ có
thánh Martinô Porrès (qua đời ở Lima năm 1639 và được Đức Gioan XXIII tuyên
thánh năm 1962); Phi châu có các thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo trong
những năm 1886 và 1887 (được Đức Phaolô VI tuyên thánh năm 1964); Nhật Bản có
thánh Phaolô Mikivà 25 vị tử đạo năm 1597 tại Nagasaki và được Đức Piô IX tuyên
thánh năm 1862; châu Đại Dương có thánh Pierre Chanel, bị ám sát ngày 28/4/1841
và được Đức Piô XII tuyên thánh năm 1954. Đức Gioan Phaolô II thêm thánh
Maximiliano Kolbe, chết ở Auschwitz, và 103 vị tử đạo Triều Tiên.
[18] “Đã rõ là Đức Gioan Phaolô II coi việc tuyên phong các thánh và chân phước
như một trong những ưu tiên của hoạt động mục vụ, như con số các lễ nghi diễn
ra trong các cuộc tông du khắp năm châu” (Ardura, 2002).
[19]
Về cách tiếp cận xã hội học của các cuộc tuyên thánh, xem Delooz, 1969, tr.
5-22.
[20] Tất cả những dữ kiện được trích từ Ardura, 2002. [ND] Những con số này sẽ
được cập nhật trong phụ lục ở cuối bài.
[21]
Ardura, 2002, tr. 83.
[22]
Tertio millennio adveniente, 1994, §37.
[23]
Các cuộc tuyên phong diễn ra vào những năm 1987, 1989, 1990, 1992, 1993, 1995,
1997, 1998, nghĩa là với một sự cách quãng đều đặn đã lôi kéo nhiều chú ý. Nên
biết là lần tuyên phong đầu tiên vào năm 1987 đã kéo theo một cuộc xích mích
ngoại giao với chính phủ do thủ tướng Felipe González thuộc đảng xã hội lãnh đạo.
[24]
Xét dưới khía cạnh thủ tục, khoảng cách giữa lúc qua đời của cha Escrivá (1975)
việc tuyên chân phước (1992) và tuyên thánh (2002) xem ra ngắn ngủi. Nhưng đó
chưa phải là cuộc phong thánh nhanh chóng nhất trong lịch sử Giáo hội. Vào thời
Trung cổ, người ta cũng thấy một khoảng cách 27 năm đối với vua thánh Louis. Dù
sao, nên ghi nhận là hồ sơ phong thánh của người kế vị cha Escrivá trong chức vụ
lãnh đạo Opus Dei là đức cha Álvaro del Portillo cũng đã được tiến hành. Đây là
một chiến lược cổ điển trong Giáo hội: các dòng tu cố gắng cổ động việc tôn
kính vị sáng lập của mình. Điều này không tránh khỏi những sự ganh đua, áp lực
và hệ quả chính trị minh nhiên hoặc ám tàng.
[25]
Vào năm 1999, trong số 295 vị thánh được tuyên phong từ năm 1978, 235 vị thuộc
châu Á, 57 thuộc châu Âu và 7 thuộc châu Mỹ. Ngược lại, đối với các chân phước,
con số các vị thuộc châu Âu vượt trội (884), trong khi chỉ có 20 thuộc châu Mỹ,
30 thuộc châu Á, 5 thuộc châu Phi và 1 thuộc châu Đại Dương.
[26]
Đức Phaolô VI đã tuyên thánh cho các ngài năm 1964 tại Kampala, nhân cuộc tông
du sang châu Phi (Hilaire [dir.], 1996, tr. 472-473).
[27]
Hilaire (dir.), 1996, pp. 443 et 480.
[28]
Một cách tương tự như vậy, việc nghiên cứu lễ cung hiến các thánh đường cũng có
thể là cơ hội đánh giá sự sống động của việc tôn kính các thánh.
[29]
Tất cả những dữ liệu thống kê dựa trên hồ sơ của Bộ Tuyên thánh Congregatio de
Causis Sanctorum, Index ac status causarum.
[30]
Tallon, 1999.
[31]
Để được chính xác hơn, chúng tôi phân biệt những vị thánh trong một thế kỷ và
những vị sống vào buổi giao thời hai thế kỷ.
[32]
Hai mẫu này không hoàn toàn trùng hợp với nhau, bởi vì các thánh (trước đó đã
là chân phước) không còn được tính trong số các chân phước nữa sau khi đã được
tuyên thánh.
[33] Đức Lêô XII (1823-1829) đã tuyên phong 4 chân phước. Khoảng cách giữa lúc
qua đời và phong chân phước là 86 năm (qua đời năm 1739, tuyên phong năm 1825).
[34]
X. Vauchez, 1999, chap. “Un surnaturel efficace et accessible: la sainteté”,
trang 19-39, cách riêng các trang 36-39.
[35]
Dauzet, 2002.
[36]
Ibid., tr. 105.
[37]
Trong bản tổng kết hoạt động 10 năm triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II, không thấy
nhắc đến các cuộc phong thánh. Thật ra, trong giai đoạn hai của vị Giáo hoàng,
hiện tượng này mới trở nên phổ biến hơn. Dù vậy, ông Giuseppe Alberigo, một sử
gia công đồng Vaticanô II, đã nhận định: “Đức Giáo hoàng này đã trung thành đi
theo chiều hướng của công đồng, tuy vậy, về những gì liên quan đến đức tin Kitô
giáo và sự dấn thân xã hội của Giáo hội, ngài vẫn giữ một nhãn quan tiền công đồng”
(Alberigo, 1988, tr. 676).
[38]
Lumen gentium, § 39-42.
[39]
Riccardi, 2002. Xem tông thư Tertio millennio adveniente của ĐTC Gioan Phaolô
II (ngày 10/11/1994). Ở số 24, ngài nhắc nhở rằng “Giáo hội của thiên niên kỷ
thứ nhất được sinh ra nhờ máu các thánh tử đạo, và nói thêm “vào cuối thiên
niên kỷ thứ hai, Giáo hội lại trở thành Giáo hội của các thánh tử đạo”. Nếu
Giáo hội của những thế kỷ đầu “đã ghi lại chứng tá các vị tử đạo trong các tử-đạo-thư”,
thì “trong thế kỷ của chúng ta, khi các vị tử đạo trở về”, cần tránh làm mất chức
của họ trong Giáo hội … Các Giáo hội địa phương hãy gắng hết sức để đừng đánh mất
ký ức về những người đã chịu tử đạo, bằng việc thu thập các thông tin cần thiết.
Điều này cũng sẽ có một đặc tính đại kết đáng kể… Hướng đến thiên niên kỷ thứ
ba, Tòa thánh sẽ cập nhật các tử-đạo-thư cho Giáo hội phổ quát bằng cách lưu ý
hơn đến sự thánh thiện của những người, ngay cả vào thời đại hôm nay, đã sống
trọn vẹn trong chân lý của Chúa Kitô”.
[40]
Về phương diện này, cuộc tuyên thánh cho cha Piô là một ngoại lệ xác nhận quy
luật. Việc tôn kính bình dân dành cho cha làm nêu bật vai trò chuyển cầu của
người.
[41]
Vauchez, 1988, tr. 8.
[42]
Vauchez, 1988, tr. 8.
[43] Thể thức canonisatio aequipollens (“phong thánh tương đương”) cho phép tôn phong một vị chân phước lên hàng hiển thánh với các điều kiện: đã được tôn kính từ lâu; có danh tiếng vì những phép lạ đã thực hiện; và được các sử gia đáng tin cậy lưu truyền qua nhiều thế kỷ. Nếu có đủ những điều kiện này, Đức Giáo hoàng có thể mở rộng việc tôn kính vị chân phước cho toàn Giáo hội và ghi tên vị ấy vào sổ bộ các thánh mà không cần tuyên thánh chính thức, không cần tiến hành các thủ tục theo luật, không cần thực hiện những nghi lễ thông thường. Các tiêu chuẩn này đã được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XIV ấn định trong quyển “Về việc tôn phong Chân phước cho các Tôi tớ Chúa và tôn phong Hiển thánh cho các Chân phước” (De Servorum Dei Beatificatione et Beatorum Canonizatione).
Nguồn: https://dcvphanxicoxavie.com/vn/Than-Hoc/Su-Thanh-Thien-Thoi-Nay.html

