Chiếc cày của ba



G.B. Nguyễn Văn Tin

          “Con trâu đi trước, chiếc cày theo sau”, câu ca dao này muốn chỉ về hình ảnh người nông dân đang cày ruộng. Đó cũng là hình ảnh về ba của tôi, một người nông dân nghèo làm việc ngoài đồng với con trâu, chiếc cày… Ba tôi là người cần cù, chịu thương chịu khó, “bán lưng cho trời cho mặt cho đất”. Bao tình thương bao vất vả mà ba đã dành cho gia đình được xây đắp bởi chiếc cày. Vì thế, chiếc cày được ví như gia sản, như kế sinh nhai của gia đình tôi. Hơn thế nữa, chiếc cày của ba còn được xem như là món quà mà Chúa đã tặng ban cho gia đình tôi để nhờ đó, ba tôi có thể xây dựng một gia đình Công giáo đạo đức và góp phần xây dựng Hội Thánh trên trần gian.

           Chiếc cày không những là công cụ lao động chính trong nhà mà còn là người bạn thân thiết của ba tôi. Nó cùng ba cứ âm thầm làm việc từ đám ruộng này đến đám ruộng khác. Dù nắng dù mưa, chiếc cày đi trước để dọn đường cho ba tôi theo sau. Nó cùng ba cày những thớ đất thật sâu, thật đều để chuẩn bị đất thật tơi, thật xốp, thuận lợi cho việc gieo mạ.

          Gà chưa gáy, ba tôi và chiếc cày đã ra đồng thật sớm để cày ruộng. Hình ảnh ấy làm tôi nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu cũng dậy thật sớm để cầu nguyện với Chúa Cha. Một ngày của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện và sau đó là đi rao giảng Tin Mừng. Tối đến, Chúa Giêsu lại lui vào nơi hoang vắng để tiếp tục kết hợp với Cha. Ba tôi, thường bắt đầu giờ làm việc cũng khá sớm, vào khoảng 3h sáng và kết thúc vào khoảng 10h trưa. Vì cái nắng gay gắt và cháy da ở đất Quảng Nam, nên khiến người nông dân không thể gắng sức hơn để làm việc được. Dù thế, ba tôi và gia đình vẫn dành thời gian cho Chúa, mỗi tối cả gia đình tham dự thánh lễ tại Nhà thờ, khi thì đọc kinh tối với nhau tại nhà. Tuy công việc nhà nông nhiều, vất vả và tốn nhiều công sức mà tiền công chẳng được bao nhiêu, thế nhưng, Chúa vẫn quan phòng và Ngài đã cho gia đình tôi có đủ của ăn, của để và có tiền để cho anh em chúng tôi ăn học.

          Tại cái vùng đất thường xuyên chịu bão lũ, mưa dầm mưa dề, hạn hán làm mất mùa… nên cũng sinh ra những người nông dân hiền lành, chất phát. Dù nghèo nhưng ba tôi không để cho các con phải khổ, ba luôn cố gắng, cần cù, lam lũ với chiếc cày để kiếm ra từng hạt thóc, hạt gạo lo từng bữa ăn trong gia đình. Đến đây, tôi lại nhớ đến hình ảnh Người Mục Tử nhân lành là chính Chúa Giêsu. Ngài đã nêu gương trước về hình ảnh một con người hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng. Ngài không cậy dựa vào của cải trần gian, danh vọng hay chức tước nhưng luôn tin tưởng vào Thiên Chúa Cha.

          Chúa Giêsu không quan trọng quá về cái ăn, cái mặc bên ngoài nhưng luôn chú tâm đến việc thực thi thánh ý Chúa Cha. Ba tôi cũng trở thành mẫu gương về trách nhiệm  trong đời sống là người cha, là người chồng trong gia đình. Mỗi khi ba và chiếc cày ra đồng, thì mẹ tôi ở nhà chuẩn bị bữa sáng. Khi thì mẹ đem ra cho ba, khi thì tôi phụ mẹ đem ra. Thấy mà thương hình ảnh người nông dân quần áo lấm lem và hôi tanh mùi bùn, mùi hồ hôi. Đầu chỉ đội cái nón lưỡi trai đã sờn màu vì phơi nắng. Một tay cầm cày, một tay cầm chiếc roi và miệng thì la to giục chú trâu đi nhanh và đi đúng ý mình. Tôi còn nhớ như in kỷ niệm bữa ăn ngay trên bờ ruộng, bữa ăn đạm bạc đậm chất miền quê. Ba tôi chẳng quan tâm đến việc ăn món gì, có ngon hay không, chỉ cần 5-6 miếng, thêm vài ngụm nước chè xanh là xong bữa ăn. Với ba, việc ăn uống hay ăn mặc không quan trọng, quan trọng là việc xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc.

          Thời gian thấm thoát thoi đưa, chú trâu nhỏ nhà tôi chuẩn bị cho ra đời một bé nghé nên công việc của chiếc cày cũng tạm nghỉ vài vụ lúa. Mặc dù, không được làm việc nhưng ba tôi thỉnh thoảng đem chiếc cày ra để tân trang lại, chuẩn bị cho những vụ lúa sau. Nỗi vất vả của người nông dân là thế, nào là nuôi trâu, cày ruộng, chăm lúa… Cái nghề làm ruộng của ba cũng không kéo dài được lâu, vì thời đại đã thay đổi, nên người nông dân và chiếc cày trở nên lạc hậu và lỗi thời. Một phần khác là do sức khỏe của ba cũng yếu đi nhiều nên cũng không thể làm những công việc nặng nhọc được. Ba tôi và mẹ đã quyết định bán đi chú trâu lẫn chiếc cày. Dạo ấy, ba và mẹ đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều nhưng biết làm sao được. Chiếc máy cày vừa tiện lợi, vừa khỏe lại ít tốn công tốn sức và lại cho năng suất cao hơn. Ba tôi đã rất buồn khi đem cả gia tài ấy bán nhưng biết làm sao được, chẳng lẽ trách đời quá bất công ư!

          Chúa Giêsu cũng đã cầm chiếc cày mà Cha đã ban cho, đó chính là thập giá. Ngài không những cầm mà Ngài còn ôm lấy, vác lấy và còn chịu đóng đinh chân tay vào đó nữa. Chiếc cày mà Chúa Giêsu đã nhận lấy đã trở thành của lễ đầu mùa dâng về Cha. Chính nhờ đó, nhân loại được hòa giải với Chúa Cha và được sống trong tình Cha con nhờ Chúa Giêsu.

Sau cùng, khi nghĩ về chiếc cày của ba tôi và những công lao vất vả mà ba đã dành cho gia đình, lòng tôi đã không khỏi bồi hồi xúc động. Những ký ức và hình ảnh của người nông dân hiền lành, chất phác và nụ cười luôn nở trên môi. Người nông dân cầm chiếc cày mà Chúa đã trao cho để thực thi trách nhiệm và bổn phận là người cha, người chồng trong gia đình. Tuy có phần vất vả và lao nhọc nhưng ba vẫn vui vẻ đón nhận. Người nông dân ấy đã xây dựng hạnh phúc gia đình trong thiếu thốn, lao nhọc và vất vả nhưng vẫn luôn tin tưởng và phó thác trong tình thương của Thiên Chúa. Hạnh phúc của gia đình tôi được xây dựng trên những điều bình thường và đơn sơ nhưng ở đó luôn có bàn tay Chúa luôn hướng dẫn và che chở.

          Tạ ơn Chúa! vì muôn vàn ân huệ Chúa đã tuôn đổ cho gia đình của con.

          Cảm ơn “chiếc cày của ba” đã cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp về tuổi thơ và tình thương của người nông dân chân chất ấy. Chiếc cày như là một món quà đến từ trên cao, là gia tài của gia đình. Giờ không còn nữa, nhưng hình ảnh về chiếc cày của ba vẫn ghi khắc trong tim tôi và không thể xóa mờ được.

          Cảm ơn ba vì những công khó mà ba đã dành cho gia đình. Cảm ơn mẹ đã luôn đồng vai sát cánh cùng ba trong cuộc sống lao động nghèo.

          “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).

Học viện thánh Anphongsô