
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cu-hanh-thanh-the-bai-6-dau-thanh-gia-52957
Làm Dấu Thánh Giá là một thói
quen lâu đời trong Kitô giáo bắt nguồn và dựa trên bản văn Tin Mừng Mt
28,19: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Có lẽ thực hành này đã
có từ thế kỷ thứ II nhằm gợi lại sự kiện máu con chiên được
bôi trên cửa của những người Do Thái tại Ai Cập vào đêm Vượt qua (x. Xh 12,7)
và báo trước dấu ấn sẽ được ghi trên trán của các vị thánh trên trời.
Từ “dấu” trong tiếng Hipri
là Tav. Đây là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái của ngôn ngữ
này và có hình dạng được viết như hình thánh giá (T hay X). Dấu được sử dụng
trong Êdêkien 9 là dấu ấn nói lên chủ
quyền của Thiên Chúa trên đối tượng được ghi dấu. Bởi vậy, khi làm Dấu
Thánh Giá chúng ta đồng hoá mình là dân của Chúa. Các thiên thần
trong Kh 7,2-3 cũng mang dấu ấn của Thiên Chúa. Dấu ấn này cũng liên kết
chúng ta với danh của Con Chiên và thánh danh Chúa Cha (Kh 14,1;
22,4). Bởi vậy, ngay từ thế kỷ III Giáo phụ Tertullianô đã dạy rằng:
“... mỗi bước đi và di chuyển, mỗi lần đi vào và đi ra, khi
mặc y phục và xỏ giày… trong tất cả mọi hoạt động thường
ngày, chúng ta hãy ghi Dấu Thánh Giá.”[1]
Theo truyền thống từ xa xưa, các tín hữu làm Dấu Thánh Giá khi bắt đầu mỗi công việc, đặc biệt là khi khai mở cử hành phụng vụ.[2] Dĩ nhiên, cách thức chỉ là ghi Dấu Thánh Giá [nhỏ] trên trán như đứa trẻ được cha mẹ và những người đỡ đầu thực hiện trong nghi thức Thanh tẩy hiện nay.[3]
Từ đầu thế kỷ III, tại Phi châu và Rôma, việc ghi Dấu Thánh Giá trên trán trong nghi thức khai tâm Kitô giáo đã trở thành một phương thức truyền thống bày tỏ người đón nhận thuộc về Chúa Kitô.
Cuối thế kỷ IV, làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nhiều lần khi cử hành các bí tích.
Đến thế kỷ IX, khi tới bàn thờ, Đức Giáo hoàng ghi Dấu Thánh Giá chỉ trên trán của ngài.[4]
Mãi
tới thời hậu Trung cổ (1100-1400), trong phụng vụ Rôma, việc làm Dấu Thánh Giá
lúc bắt đầu Thánh lễ mới xuất hiện khi chủ tế dẫn vào lời
nguyện nhập lễ tại chân bàn thờ... Đó là những lời nguyện được linh
mục đọc trên đường dẫn tới cung thánh.[5] Theo
Jungmann, công thức và hành động làm Dấu Thánh Giá lúc khởi đầu
Thánh lễ thời Trung cổ là nhằm “khấn xin phúc lành của Thiên Chúa” và thừa
nhận rằng “chúng ta bắt đầu hành vi thánh thiện trong quyền năng từ Thiên Chúa
Ba Ngôi nhờ thập giá Chúa Kitô.”[6]
Dấu Thánh Giá mang thêm nhiều ý
nghĩa sau đó và trở thành một cử điệu trừ tà. Vào thế kỷ thứ XIII, Đức Innocent
III (cùng thời với thánh Phanxicô Atxixi) mô tả tập tục làm Dấu Thánh Giá ở Tây
phương đồng thời cũng hướng dẫn các tín hữu ý nghĩa của Dấu Thánh Giá
rằng: “Dấu Thánh Giá được làm với 3 ngón
tay (cái, trỏ và giữa) chụm lại với nhau bởi vì dấu hiệu được thực hiện với sự
khẩn cầu Ba Ngôi Thiên Chúa. Cách làm như thế này: từ trên xuống dưới, và từ
phải qua trái, bởi lẽ Đức Kitô đã từ trời xuống thế và từ người Do Thái (phải)
Người tiến sang dân ngoại (trái).”
Bấy giờ, cả Đông lẫn Tây phương,
mọi người vẫn làm Dấu Thánh Giá như trên, nghĩa là từ phải qua trái, nhưng
sau lại bắt chước phép lành của linh mục, họ đã bắt đầu làm dấu từ trái qua
phải. Thế là, từ nhiều thế kỷ qua, Tây phương vẫn cứ theo cách làm Dấu Thánh
Giá như thế, tức là từ trái qua phải. Đó là lý do tồn tại cho đến nay truyền
thống Đông phương làm dấu từ phải qua trái trong khi Tây phương lại làm từ trái
qua phải và đã phát triển thành truyền thống phụng vụ.[7]
Dấu Thánh Giá là dấu chỉ thánh
thiện nhất trong các dấu chỉ. Dấu Thánh Giá còn là dấu chỉ của vũ trụ và là dấu
chỉ sự cứu độ nhân loại nhờ duy chỉ thập giá vinh thắng của Chúa Giêsu
Kitô (x. Rm 5,8). Ngài thánh hoá và cứu độ con người nhờ thánh
giá (x. Cv 4,12). Làm Dấu Thánh Giá là một hình thức tuyên xưng đức
tin trong Chúa Kitô.[8] Vì
vậy, Dấu Thánh Giá thánh hiến và thánh hoá các tín hữu trong sức mạnh của
Chúa Kitô và trong danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Dấu Thánh Giá không chỉ hướng lòng
các tín hữu lên Chúa Ba Ngôi, kêu cầu danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng còn nài
xin ân sủng của Thiên Chúa do thập giá Chúa Kitô đem lại và nhắc nhớ họ về
nguồn mạch của công cuộc thánh hoá là hy tế của Đức Kitô, về bí tích Thánh
tẩy mà tất cả Kitô hữu đã được lãnh nhận nhân danh Chúa Ba
Ngôi, nhờ đó, họ được gia nhập Hội Thánh, thành dân của Chúa, được sống
một đời sống mới (x. Rm 6,3-4), được bước vào gia đình thân mật của Ba
Ngôi Thiên Chúa và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu. Do đó, họ cũng
được quyền tế lễ với Chúa Kitô và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.[9]
Ngay lúc bắt đầu Thánh
lễ, việc làm Dấu Thánh Giá trên mình nhằm diễn tả các tín
hữu được triệu tập dưới dấu hiệu của thánh giá[10] và
họ “ngước nhìn lên Đấng người ta đã đâm thâu” (Ga 19, 37).[11] Dấu
Thánh Giá làm trên mình đặt các tín hữu trong tương quan với Chúa Cha, nhờ Chúa
Con và trong Chúa Thánh Thần, cũng như nhắc nhớ về bí tích Thánh tẩy của họ.
[1] De Corona, 3:4, CCL 2:1043,
trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb (Chicago:
Liturgy Training Publications, 2011), 4.
[2] Trần Đình Tứ, Phụng
vụ Thánh lễ (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 1997), 35; Le Gall, La
Mess au fil de ses rites (Chambray: C.L.D, 1992), 24.
[3] James P. Moroney, The
Mass Explained (New Jersey: Catholic Book Publishing Corp., 2008), 40.
[4] Trích lại trong John D.
Laurance (ed.), The Sacrament of the Eucharist (Collegeville:
The Liturgical Press, 2012), 102.
[5] Lawrence J. Johnson, The
Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the
Mass (Washington DC: FDLC, NE, 2003), 10.
[6] Jungmann, SJ, The
Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum
Sollemnia), vol. 1, trans. Francis A. Brunner (New York: Benziger Brothers, 1951), 296-297.
[7] X. Cassian Folsom, OSB,
“Sacred Signs and Active Participation at Mass”, Adoremus, vol.
IV, no. 3 (May/June 1998), acc, 25/06/2023, https://www.ewtn.com/catholicism/library/sacred-signs-and-active-participation-in-mass-4253.
[8] X. Romano
Guardini, Sacred Signs, trans. by Grace Branham, Pio Decimo Press,
St. Louis, 1956, http://www.ewtn.com/library/LITURGY/SACRSIGN.TXT;
Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Thánh lễ 2, 107.
[9] X. A. M. Roguet, Tìm
hiểu Thánh lễ, 21 ; Le Gall, La Mess au fil de ses
rites, 24.
[10] Eugenio Costa, “Phần Mở đầu
Thánh lễ,” trong Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II (Đồng Nai:
Nxb. Đồng Nai, 1992), 148-149.
[11] J. Gélineau, Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II, 148-149.

