
Giuse Tân Nguyễn, O.F.M.
Luận đề ngôn ngữ của Augustine
Giải thích phép lạ và quy luật
vật lý
Chân lý Kinh Thánh và chân lý khoa học
“Thợ Đồng Hồ” và “Thiết Kế Thông
Minh”
Địa chất học và “ngày” của Sáng Thế
Thuyết tiến hóa và nguồn gốc sự sống
Niềm hy vọng cho tư duy thần học
Trong mọi cuộc đối thoại, các đối tác hy vọng rằng
quan điểm của mình và của đối phương dần dần sẽ được bóc tách và kết hiệp lại với
nhau, từ tiền đề và phản đề mong sẽ đạt đến một hợp đề. Điều này đã được minh
chứng qua lịch sử đối thoại giữa thần học và khoa học. Từ thuở ban đầu của nền
văn minh Tây phương, đã có sự tương giao biện chứng giữa thần học và triết học,
trên hành trình tìm kiếm tri thức (science) tối hậu. Với những khám phá mới ở
thời Khai Sáng, khoa học thực nghiệm đã tách ra khỏi triết học tự nhiên và trở
thành mối đe dọa cho thẩm quyền tôn giáo. Khi ấy, thần học phản ứng bằng cách rút
về sau thành trì kiên cố của Kinh Viện. Tuy nhiên, những nỗ lực đối thoại với
não trạng tân thời cho thấy tư duy thần học đã không bị loại trừ, mà còn có cơ
hội cập nhật hóa và lan tỏa ra nhiều lĩnh vực khác nữa. Bài khảo luận này sẽ sơ
lược năm bối cảnh lịch sử vốn đã tạo nên những khúc quanh trên hành trình “đức
tin tìm kiếm sự hiểu biết” qua những cuộc đối thoại với khoa học.
LUẬN
ĐỀ NGÔN NGỮ CỦA AUGUSTINE
Chúng ta thường cho rằng có sự nghịch lý cố hữu giữa
thần học và khoa học vì một bên dựa trên đức tin còn bên kia dựa trên lý trí.
Nhưng lối phân biệt này thì quá đơn sơ. Đành rằng có sự khác biệt về phương
pháp nghiên cứu giữa hai lĩnh vực này, nhưng khoa học vẫn có những niềm tin căn
bản nào đó trong cách nó lý luận, và thần học cũng tùy thuộc vào khả năng lý
trí khai triển nội dung của mạc khải. Trong khi khoa học được đặt trên những giả
thuyết và chứng cớ có thể kiểm nghiệm, thì thần học căn cứ trên niềm tin và trải
nghiệm cá nhân. Tư duy tôn giáo thường bị gán là thiếu khoa học, nhưng lý luận khoa
học cũng phải dừng chân trước những vấn đề tối hậu của con người nếu chỉ dựa
trên lý chứng thực nghiệm. Tuy không thể chối bỏ sự khác biệt giữa thần học và
khoa học, nhưng hai lĩnh vực này vẫn có thể bổ túc cho nhau trên hành trình con
người tìm kiếm chân lý.
Có nhiều cách khai triển sự tương hợp giữa khoa học
và thần học. Cách thông thường nhất là khảo sát những mô hình mà hai lộ trình này
đã đóng góp vào sự hiểu biết về thế giới. Khoa học cho chúng ta các phạm trù như
vật lý, hóa học hay sinh học để giải thích bản chất vũ trụ “là gì” và được kết
hợp như “thế nào”. Tôn giáo cung cấp viễn tượng về thực tại tối hậu để diễn giải
“tại sao” phải có vũ trụ và “ai” đã tạo nên nó. Cả hai lộ trình xuất phát từ những
khao khát sâu xa nhất của con người. Từ thời Cổ đại, nhiều khám phá khoa học đã
bắt nguồn từ truyền thống tôn giáo và nhiều lãnh đạo tôn giáo cũng là khoa học
gia hay triết gia. Nhưng khởi đầu từ Cách mạng Khoa học ở thế kỷ XVIII, thì niềm
tin tôn giáo bị xem như là chướng ngại vật ngăn trở sự tiến bộ của khoa học. Từ
đó, nhiều học giả Khai Sáng tự gán cho mình sứ mệnh khai phóng lý trí khỏi sự
thống trị của tôn giáo qua lộ trình khoa học.
Cao điểm của viễn tượng “khoa học sẽ giải phóng con
người” được thấy qua các sáng tác của John William Draper
và Andrew Dickson White ở thế kỷ XIX.[1]
Hai học giả này cổ xúy mô hình “chiến tranh” giữa tôn giáo và khoa học. Nhưng Draper
đã dùng những tài liệu và lý luận thiếu khoa học khi tạo nên não trạng kỳ thị đối
với luồng sóng di dân Công giáo mới đến Hoa Kỳ thời đó. White, một sử gia và hiệu
trưởng đầu tiên của Cornell University, cũng đã tố cáo một cách sai lầm rằng
Giáo hội Công giáo đang chống lại hình ảnh thế giới như một quả cầu và cấm đoán
mọi nghiên cứu phẫu thuật trên thân thể con người. Chủ ý của hai học giả này là
thay thế tôn giáo bằng khoa học nhưng họ đã không nhận ra rằng nhiều học giả thời
Trung Cổ xem cả thần học và triết học tự nhiên là những nguồn tri thức (science)
chân chính. Thành quả của các thần học Kinh Viện là sự kết hợp tinh tế nội dung
của mạc khải với triết lý thế tục của Aristotle (Aquinas, Don Scotus, Ockham,
v.v.). Qua thời gian, mô hình “chiến tranh” mất dần hiệu lực nhưng nó vẫn để lại
dư âm nơi tâm thức của những học giả bảo thủ hoặc các tín đồ cực đoan.
Thánh Augustine (354-430) đề nghị một hình thức tương
tác giữa tôn giáo và triết học hợp lý hơn qua “Chủ thuyết Hai Cuốn Sách” (Two
Books theory). Lúc đầu, Augustine cho rằng, giáo lý Kitô thì quá thô sơ
trong cách lý luận, còn Kinh Thánh thì chứa đầy dẫy các mâu thuẫn. Nhưng sau
khi nghiên cứu triết học Tân-Platô (Plotinus), Augustine đã khai triển một luận
đề ngôn ngữ cho việc chú giải Kinh Thánh căn cứ trên sự hài hòa giữa lý trí và
đức tin. Qua nhãn quan học thuật của Clement ở Alexandria, Augustine nhận thấy
có sự hiệp nhất giữa tư duy thần học và tri thức về thế giới tự nhiên. Nếu
Thiên Chúa là tác giả của cả sách Kinh Thánh và sách Thiên Nhiên, thì hai nguồn
tri thức này không thể mâu thuẫn với nhau. Tuy thế giới là tạm bợ so với cõi
vĩnh hằng, nhưng ân sủng có thể hỗ trợ lý trí để nắm bắt nội dung của mạc khải
và sự khôn ngoan vĩnh cửu chính là Thiên Chúa. Từ đó, Augustine kết nối tri thức
về thế giới với nghệ thuật chú giải bản văn để bóc tách các mức độ ý nghĩa thần
học của Kinh Thánh (từ nguyên, ẩn dụ, loại suy và luân lý).
Quan trọng hơn nữa, Augustine khẳng định rằng mạc khải
của Kinh Thánh thì thích ứng (accommodation) với trình độ hiểu biết của
độc giả gốc. Ý định tối hậu của Thiên Chúa vốn là tác giả của Kinh Thánh thì
thường bị che đậy phần nào bởi ngôn ngữ và sự hiểu biết của người viết bản văn.
Muốn hiểu Kinh Thánh một cách chân chính đòi hỏi sự chuyên cần của lý trí cũng
như sự am hiểu về khoa chú giải. Từ chối tận dụng tri thức từ các nguồn liệu
văn hóa, triết học hay khoa học sẽ làm cho tư duy thần học trở nên thô thiển.
Thế giới tự nhiên cho thấy sự huy hoàng của Thiên Chúa nơi tạo thành (Sách
Thiên Nhiên), do đó không thể tách biệt tri thức tự nhiên ra khỏi việc chú giải
Kinh Thánh. Augustine tóm tắt mối tương quan giữa lý trí và đức tin qua hai mệnh
đề: “Tôi tin để tôi hiểu; tôi hiểu để tôi tin” (Credo ut intellegam; Intellego
ut credam).
Thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” (Fides et Ratio,
1998) của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng xác nhận một cách tích cực quan
điểm của Augustine. Thông điệp này nhấn mạnh sự tương tác giữa đức tin và lý
trí như là “hai cánh giúp cho thần trí con người vươn lên chiêm ngưỡng chân
lý”. Đức tin mà thiếu lý trí thì dễ rơi vào nguy cơ thần thoại hóa và mê tín,
hoặc những thái độ cực đoan như duy tín luận (fideism) và kinh điểm luận
(biblicism). Cũng thế, một mình lý trí thì không thể nắm bắt chân lý tối
hậu của tồn tại vốn được mạc khải và đón nhận qua đức tin. Đức Gioan Phaolô II khẳng
định rằng “cuộc sống con người có ý nghĩa” và “chân lý siêu việt tồn tại khách
quan” là tiêu chuẩn hướng dẫn cách thần học tiếp cận lý trí. Các chủ nghĩa
tương đối cực đoan, chủ nghĩa hư vô, não trạng duy khoa học cùng với những nỗ lực
giản lược giá trị con người thành bộ máy sản xuất và vị lợi đều bị chỉ trích. Thông
điệp này chống lại các trào lưu bi quan hiện hành trong văn hóa hiện đại. Giống
như Augustine, Thông điệp “Fides et Ratio” nhận ra sự tương tác thiết yếu
giữa lý trí và đức tin để đạt đến chân lý tối hậu, xứng đáng cho nhân phẩm mà
con người được tạo nên.
Luận đề ngôn ngữ về sự hài hòa giữa đức tin và lý
trí của Augustine đã cung cấp một mô hình bền vững cho suy tư thần học xuyên suốt
nhiều thế kỷ. Nhưng với những phát triển vượt bậc của khoa học tân thời thì mô
hình này đã được cập nhật và thêm vào nhiều yếu tố mới. Tiềm năng mâu thuẫn giữa
đức tin và lý trí không chỉ xuất hiện trong phạm vi chú giải Kinh Thánh mà còn lan
ra đến lối giải thích sự can thiệp của Thiên Chúa vào thế giới vật lý, giữa
chân lý khoa học và chân lý Kinh Thánh, giữa khoa học cơ khí và các khái niệm cổ
điển về Thiên Chúa, cũng như giữa thuyết tiến hóa và nguồn gốc của sự sống hay tuổi
của trái đất. Kế tiếp, chúng ta hãy sơ lược về các hệ quả của sự giao thoa giữa
đức tin và khoa học để nhận ra niềm hy vọng cho tư duy thần học.
GIẢI
THÍCH PHÉP LẠ VÀ QUY LUẬT VẬT LÝ
Khởi đầu
từ thời Khai Sáng, tranh cãi về cách giải thích phép lạ và mức độ can thiệp của
Thiên Chúa vào thế giới tự nhiên đã trở nên chủ đề chính yếu cho thần học. Từ
giai đoạn Kinh Viện, các thần học gia đã chuộng cách giải thích tự nhiên, tức
là tìm nguyên nhân cho các biến dịch trong tự nhiên thay vì nại đến sự can thiệp
của Thiên Chúa. Chỉ khi nào một biến cố vượt trên tài năng siêu việt của con
người hay quyền lực của ma quỷ tác động lên thiên nhiên thì mới được xem là
phép lạ. Người ta muốn biết Thiên Chúa
điều hành mọi sự trong thế giới bằng phương pháp tự nhiên, siêu nhiên hay cả
hai? Và đâu là “ranh giới” giữa tự nhiên và siêu nhiên? Đến thế kỷ XVII,
sự gia tăng của tri thức khoa học giúp cho khả năng phân định phép lạ càng trở
nên tinh vi. Sự tiến bộ nhanh chóng của
khoa học đã chiếu phóng lên kỳ vọng rằng, một khi mọi biến dịch trong thế giới có thể giải thích được thì “giả thiết
Thiên Chúa” sẽ không cần thiết nữa.
Các học giả Kinh Viện đã khai triển một số học thuyết
giải thích cách Thiên Chúa điều hành vũ trụ. Trước tiên, thuyết “siêu nhiên” (supernaturalism)
cho rằng Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi thay đổi và không phải tuân theo quy
luật nào hết. Chủ thuyết này hoài nghi khả năng dùng khoa học và lý trí để giải
thích sự biến dịch trong thế giới vật lý. Mặt khác, thuyết “ngẫu nhiên” (occasionalism)
lý luận thông thoáng hơn khi cho rằng ý chí Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi sự,
nhưng mối liên kết giữa hậu quả và nguyên nhân thì lệ thuộc vào khả năng nhận
thức của con người. Con người có thể nhận ra cách Thiên Chúa tác động lên vũ trụ
qua sự vận hành thường xuyên của tự nhiên (cursus communis naturae).[2]
Mọi sự kiện xảy ra trong thế giới đã được đặt định theo bản chất của vũ trụ để chúng
phát triển theo lộ trình do Thiên Chúa muốn. Theo quan điểm này, Thiên Chúa vẫn
là “nguyên nhân tất yếu”, nhưng bản chất của tự nhiên là “nguyên nhân thứ yếu” cho
mọi biến dịch trong thế giới. Khoa học có sứ mệnh tiếp tục khám phá bản chất của
tự nhiên để gia tăng tri thức con người về “nguyên nhân thứ yếu” hay “cursus
communis naturae” do Thiên Chúa đặt ra.
Hệ quả
quan trọng là thuyết “ngẫu nhiên” vừa giải thích phép lạ và vừa bảo vệ tầm quan
trọng của nghiên cứu khoa học. Thiên Chúa làm bất cứ gì Ngài muốn, nhưng Thiên
Chúa thường chọn giới hạn chính mình theo “cursus communis naturae,” vì thế con người có thể dựa trên nguyên
tắc này để phân định phép lạ. Tuy nhiên, nguyên tắc này tiềm tàng một não trạng
thực chứng, vì nó dùng công cụ của khoa học để phân biệt ranh giới giữa tự
nhiên và siêu nhiên. Ở thế kỷ XVII, Anh giáo vì muốn thanh trừng đám phù thủy
dùng quyền lực ma quỷ để đánh lừa con người, nên đã khẳng định rằng “giai đoạn
phép lạ” đã chấm dứt sau thời các Tông Đồ. Lẽ dĩ nhiên, khả năng di chuyển
nhanh chóng của ma quỷ hay tài năng luyện kim của thợ bạc có thể gây ảo tưởng “phép
lạ” đã xảy ra. Nhưng liệu cách dùng lịch sử để phân định ranh giới giữa siêu
nhiên và tự nhiên có còn hiệu lực, một khi tư duy khoa học chuyển sang các mô
hình khác không? Trong khi khoa học vẫn còn tiếp tục phát triển, thì thần học cần
có một nhãn quan phổ quát hơn để giải thích quyền năng và tác động của Thiên
Chúa trên thế giới vật lý. Nếu không muốn
bị khai trừ khỏi các tự sự hiện đại thì thần học cần có một khái niệm về Thiên
Chúa vừa là tác giả và là nguồn gốc tối hậu của mọi biến dịch mà khoa học còn
đang khám phá. Thần học (theo-logos) căn bản là ngôn ngữ về Thiên Chúa, do đó
nó cần phải liên tục cập nhật hóa qua cách đối thoại với các khám phá khoa học.
CHÂN
LÝ KINH THÁNH VÀ CHÂN LÝ KHOA HỌC
Ngoài
nhu cầu cập nhật hóa ngôn ngữ về Thiên Chúa, thần học còn phải cập nhật cách
chú giải Kinh Thánh. Điều này được thấy rõ qua vụ án Galileo, vốn kéo dài từ
khi Galileo bắt đầu giải thích thuyết vũ trụ nhật tâm của Copernicus (1613) cho
đến khi ông bị kết án (1633). Gần một thế kỷ trước đó, Copernicus, một chức sắc
giáo luật, xuất bản cuốn “Quỹ Đạo Vận Hành của Bầu Trời” (1543) dựa
trên quan điểm mặt trời là trung tâm. Cuốn sách này được hiến tặng cho thánh
Giáo hoàng Phaolô III và tạo nên sự lôi cuốn nơi các lãnh đạo Giáo hội. Copernicus
dùng chuyên môn thiên văn học của mình để cải tổ niên lịch, cho dù kinh nghiệm
thường ngày con người không cảm thấy trái đất đang xoay. Quan điểm vũ trụ nhật
tâm của Copernicus đi ngược lại với 2000 năm lịch sử thống trị bởi thiên văn học
của Aristotle, cũng như quan điểm của Kinh Thánh về phép lạ Giôsua làm cho mặt
trời đứng yên.
Vấn đề của Galileo khởi đầu từ lá thư ông gửi đến Công chúa
Christina để giải thích sự mâu thuẫn giữa thuyết vũ trụ nhật tâm và Kinh Thánh.[3]
Galileo cho rằng cần phải chú giải Kinh Thánh dưới ánh sáng của tri thức khoa học,
nhưng có lẽ vì sự ganh tỵ nào đó, thư của ông bị sửa đổi và xuyên tạc, cuối
cùng đến tay ban Điều Tra Dị Giáo (The Inquisition). Năm 1616, chủ thuyết
vũ trụ nhật tâm bị cho là sai lạc tín lý, và sách của Copernicus bị liệt vào hàng
“Sách Cấm” (Index) cho đến khi các sai lầm được chỉnh sửa. Công đồng
Trentô vốn đang bận tâm với sự tấn công của phong trào Cải Cách, đã cấm tất cả
mọi chú giải Kinh Thánh đi ngược với thần học các giáo phụ. Nhưng Galileo muốn
chứng tỏ lối chú giải dựa trên khám phá khoa học thì chính xác hơn là phương
pháp Kinh Viện. Hồng y Roberto Bellarmino, một vị có thế lực nhất trong Giáo hội
thời đó, muốn nâng đỡ Galileo nhưng vẫn khuyên ông không nên quá giáo điều về
thuyết vũ trụ nhật tâm, và chân lý của Kinh Thánh nên được giải thích cẩn thận
hơn. Cách Galileo dùng thủy triều để minh họa sự xoay chuyển của trái đất thì
chưa được thuyết phục cho lắm.
Chín năm trước khi vụ án xảy ra, Galileo xuất bản cuốn
“Il Saggiatore” để dâng tặng cho người bạn mới được đăng quang là Đức Giáo
hoàng Urbanô VIII (1623). Vốn là người ủng
hộ thuyết vũ trụ nhật tâm, Đức Urbanô VIII đồng ý để Galileo tiếp tục viết miễn
sao là phải bao gồm lập luận Thiên Chúa là Đấng Toàn Tri, và con người không
bao giờ có thể đạt đến mức độ chính xác tuyệt đối về cách Thiên Chúa điều hành thế
giới tự nhiên. Sau đó, vì nạn dịch xảy ra, Galileo cho xuất bản tác phẩm “Đối Thoại
về Hai Hệ Thống Vũ Trụ Chính Yếu” (Dialogue Concerning the Two Chief World
Systems, 1632) tại
Florence. Cuốn sách này gây nên nhiều đàm tiếu ở Rôma, nhất là sự kiện Galileo
đặt lý luận của Urbanô VIII vào miệng của “kẻ khờ” ở cuối sách. Đức Urbanô VIII
nghĩ rằng mình bị đánh lừa, nổi giận và triệu tập Galileo về Rôma, cấm không được
bàn luận về thuyết Copernicus. Galileo trình thư của Hồng y Bellarmino cho phép
ông tiếp tục sáng tác và giải bày rằng ông chỉ đang tìm cách khai triển thuyết
vũ trụ nhật tâm cho dù chưa hoàn toàn tin vào nó. Trong khi Galileo và ban Điều
Tra Dị Giáo đang tìm một sự thỏa thuận, thì Đức Urbanô VIII ra lệnh tổ chức một
phiên tòa và kết án Galileo “cố tình vi phạm” dị giáo, buộc phải công khai từ bỏ
quan điểm vũ trụ nhật tâm và bị quản
thúc tại tư gia (1633). Có ba vị Hồng y không ký vào bản án này, vì cho
rằng nó chỉ để dằn mặt Galileo chứ không thật sự muốn giải quyết mọi sự cho tận
căn.
Điều kém may mắn là Galileo bị lôi cuốn vào cuộc tranh
chấp giữa hai quan điểm về khoa học: thực nghiệm và công cụ. Quan điểm thực
nghiệm cho rằng khoa học cung cấp tri thức chân thực về thế giới vật lý. Quan
điểm “công cụ” xem khoa học như là cách giải thích tạm thời về hiện tượng trong
khi tri thức con người còn đang tiến triển. Trong khi Copernicus và Galileo áp
dụng quan điểm thực nghiệm, thì Giáo quyền chưa sẵn sàng chấp nhận và thẳng tay
gạt bỏ tiếng nói của Galileo. Cho dù buộc phải từ bỏ thuyết vũ trụ nhật tâm,
nhưng khi ra khỏi phiên tòa Galileo tuyên bố là vẫn cảm thấy trái đất đang
xoay. Lệnh cấm của Galileo đã không ngăn cản được những nỗ lực đối thoại giữa
chân lý Kinh Thánh và chân lý khoa học trong các thế kỷ sau đó. Năm 1979, Đức Gioan
Phaolô II triệu tập một ủy ban nghiên cứu vụ án Galileo và đã khám phá nhiều lỗi
lầm chung quanh vụ án. Ủy ban đã củng cố nguyên tắc chú giải Kinh Thánh vốn giả
định sự hài hòa giữa đức tin và khoa học mà Augustine và Galileo đã dùng. Vụ án
Galileo cho thấy rằng nếu thần học là nỗ lực suy tư về thế giới vốn được tạo
thành bởi bàn tay huyền nhiệm của Thiên Chúa, thì thần học cần phải khiêm tốn
đón nhận những thử thách mới từ khoa học, và tránh bị đóng băng trong các phạm
trù tri thức cổ hủ.
“THỢ ĐỒNG HỒ” VÀ “THIẾT KẾ
THÔNG MINH”
Khoa học
cơ khí ở thế kỷ XVII đã giới thiệu mô hình vũ trụ như một chiếc đồng hồ vĩ đại
với Thiên Chúa là “Thợ Đồng Hồ”. Mọi biến dịch và vận hành trong vũ trụ đều có
thể được giải thích qua những chuỗi tác động tuân theo nguyên tắc cơ khí mà trí
khôn có thể nhận ra. Khi mọi bí ẩn trong chiếc đồng hồ vũ trụ được giải mã thì
sự hiện diện Thiên Chúa trong thế giới không cần nữa, vì Ngài chỉ là “Thượng Đế
từ cỗ máy” (Deus ex machina) vốn chỉ để giải thích khoảng trống mà khoa
học chưa có thể lấp đầy được trong hiện tại. Thuyết nguyên tử cổ đại của
Democritus được phục hồi để giải thích mọi thay đổi là do sự chuyển động của
các nguyên tử tồn tại từ vĩnh cửu theo bản chất vật lý của chúng. Khái niệm “Thợ
Đồng Hồ” tinh vi là nỗ lực cập nhật hóa ngôn ngữ thần học trong thế giới dựa
trên khoa học cơ khí. Tuy nhiên, nếu mọi sự vận chuyển trong thế giới được tất
định bởi năng lực và khối lượng có sẵn, thì sẽ không có chỗ cho ý chí tự do
cũng như trách nhiệm luân lý nơi con người. Hệ quả của khái niệm “Thợ Đồng Hồ” là
một Thiên Chúa “vắng mặt” và một não trạng duy vật, cắt bỏ mọi thực tại phi-vật
chất và thiêng liêng mà con người đang tìm kiếm.
Trước
nguy cơ này, nhiều học giả Anh quốc ở thế kỷ XVII đã phản hồi. Robert Boyle (1627–1691) khẳng định rằng khoa
học gia hay triết gia phải là tư tế của “Sách Thiên Nhiên” không khác gì hàng
tư tế của Kinh Thánh. Boyle nghiên cứu các hình thức phép lạ và sự bí ẩn của
phép luyện kim cũng như cho rằng các sự kiện này sẽ lôi cuốn thiên thần và tạo
cơ hội để thông tri với con người. Boyle dùng cơ cấu vận hành của hệ mặt trời
như chứng cớ cho thiết kế thánh thiêng và sự quan phòng liên tục của Thiên
Chúa. Richard Bently (1662-1742) tiếp tục khai triển viễn tượng khoa học của
Boyle và hỗ trợ cho luận đề dùng phát minh khoa học để chống lại chủ nghĩa vô
thần.[4]
Sang các thế kỷ XVIII-XIX, phản ứng về triết học cơ khí mang tính hộ
giáo và có hệ thống hơn. Luận cứ thiết kế của Tôma dựa trên nguyên nhân cứu
cánh (telos) giờ đây được chuyển qua sự điều hành chặt chẽ của vũ trụ mà
khoa học đang khám phá. Tác phẩm “Philosophiæ Naturalis Principia
Mathematica” của Newton củng cố chứng cớ về sự tồn tại của Thiên Chúa nơi
cuốn “Sách Thiên Nhiên”. Bộ sách “Bridgewater Treatises”[5] của Hội
Hoàng Gia Anh cũng thiết lập một luận cứ “thiết kế” dựa trên cách kết nối khoa
học với toán học. Cuốn “Natural Theology” của William Paley xem các thuộc
tính “nhân từ”, “hiệp nhất”, “quan phòng” là chứng cớ cho sự tồn tại của Thiên
Chúa.[6]
Tuy
nhiên, luận cứ thiết kế của các nhà thần học tự nhiên ở Anh quốc vẫn chưa thỏa
mãn được các yêu sách của thần học Kitô chính thống. Khái niệm “Thợ Đồng Hồ” loại
bỏ hoàn toàn khía cạnh luân lý cùng với tương quan cá nhân và nhiều thuộc tính
khác về Thiên Chúa. Khuynh hướng “nhân cách hóa” của Paley còn mơ hồ về bản thể
luận vốn là nền tảng của ngôn ngữ loại suy trong luận cứ thiết kế. Hơn nữa, khả
năng nhận thức của con người về “thiết kế” hay “trật tự” trong thế giới thì khó
tránh bị ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý và xã hội. Chúng ta không có một nhãn
quan tổng thể và khách quan để so sánh thế giới con người với một thế giới nào
khác. Cho dù hiệu lực của luận cứ thiết kế bị bào mòn, nhưng cách nào đó, nó đã
đáp ứng được sự tò mò về ảnh hưởng của khám phá khoa học trên tôn giáo, và trấn
an phần nào sự lo âu về nguy cơ vô thần trong thế kỷ XVIII. Đóng góp của thần học
tự nhiên và triết học cơ khí là sự chuẩn bị thần học cho sự tiếp nhận thuyết tiến
hóa của Darwin trong thế kỷ kế tiếp.
Một
phát triển gần đây hơn được gọi là “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent
Design, ID), vốn kết nối nguồn gốc và phác họa của vũ trụ với tính đa dạng
của sự sống[7].
Đầu thế kỷ XX, “Thiết Kế Thông Minh” là cách biện minh cho tính hợp lý của niềm
tin về sự tồn tại của Thiên Chúa như là “Trí Thông Minh” tối cao. Học thuyết
này khẳng định rằng sự kiện xảy ra trong vũ trụ không thể mãi giải thích bằng
các nguyên nhân đệ nhị (thứ yếu), do đó, cuối cùng chúng ta phải nại đến nguyên
nhân đệ nhất (tất yếu). Nhưng nguyên nhân đệ nhất vốn tự bản chất của nó là
không thể thông tri được bởi lý trí (tạo dựng từ hư vô), và dùng nguyên
nhân đệ nhị thì cũng như không dùng gì cả. Do đó, “Thiết Kế Thông Minh” lắp vào
khoảng trống này bằng cách minh chứng cho tính hợp lý của nguyên nhân đệ nhất.
Tuy nhiên, “Thiết Kế Thông Minh” vẫn còn mơ hồ trong cách nó loại trừ nguyên
nhân đệ nhị. Triết học tự nhiên không xem nguyên nhân đệ nhị như là một giải
thích cho thực tại mà chỉ là “tên gọi” (ngôn ngữ loại suy) cho biến cố mà chúng
ta chưa hiểu hoàn toàn. Sự mâu thuẫn nội tại này đưa đến hậu quả luận cứ ID bị xem
là vô ích. Nói cho cùng, trí khôn chỉ có thể nắm bắt nguyên nhân đệ nhị, vậy
khi “Thiết Kế Thông Minh” thay thế cho nguyên nhân đệ nhất tức là nó đang bỏ
rơi cuộc truy tìm cách giải thích tận nguồn của nguyên nhân tính. Đây chính là
lý do mà các nhà thần học thời Trung Cổ thường chọn luận cứ về bản chất tự
nhiên của thụ tạo.
ĐỊA CHẤT HỌC VÀ “CÁC NGÀY”
TRONG TẠO DỰNG
Thời Trung Cổ, không có lý do chính đáng nào để con
người hoài nghi trái đất chỉ khoảng vài ngàn năm tuổi. Kinh Thánh là bản văn cổ
xưa nhất, và không có chứng cớ nào khác mâu thuẫn với niên lịch của các sự kiện
trong Cựu Ước. Trong thế giới khép kín như thế, tuổi của trái đất hay vũ trụ
thì cũng tương đương với thời gian con người bắt đầu xuất hiện. Nhưng đến thế kỷ
XVII với sự bùng nổ của khoa học tự nhiên, không chỉ khoa học gia, triết gia mà
cả hàng giáo phẩm bắt đầu tò mò, muốn tìm hiểu về tuổi và nguồn gốc của vũ trụ.
Giám mục Anh giáo James Ussher (1581-1656) đã cẩn thận cộng lại tất cả tuổi dài
của các tổ phụ, các triều đại vua chúa, các ngôn sứ trong Cựu Ước, giai đoạn
Tân Ước và Giáo hội Kitô cho đến hiện thời. Ussher không chỉ kết luận tuổi của
trái đất là 6000 năm mà còn khẳng định là dựa trên các dữ liệu thiên văn, tạo dựng
đã xảy ra vào đêm tối trước ngày 23 tháng 10 năm 4004 BC.[8]
Như thế,
nhu cầu tìm hiểu địa chất đã củng cố mối liên kết giữa Kinh Thánh với tri thức
khoa học. Các nhà khảo cổ giải thích sự
kiện hóa thạch và tàn tích của sự sống nơi các tầng địa chất vốn bình thường nằm
theo chiều ngang và bị đẩy lên do tác động nào đó trong quá khứ. Từ đó, thần học
gia và nhà chú giải Kinh Thánh liên kết ngay đến biến cố Đại Hồng thủy. Thomas
Burnet (1635-1715) giải thích “sáu tầng địa chất” mà các nhà khảo cổ tìm thấy
là dấu vết của “sáu ngày tạo dựng” trong Sách Sáng Thế.[9] Edmond
Halley cho rằng nguyên nhân của vụ đại lụt Nôê là do một sao chổi làm cho trái
đất bị nghiêng khỏi trục quay của nó.[10]
John Woodward giải thích vụ lụt Nôê có thể được chứng minh bằng những tàn tích
hóa thạch mà khảo cổ học địa chấn đã tìm ra. [11]
Ở thế kỷ XVIII, quan điểm địa chất học có thể giải thích
cách khoa học về “các ngày của Sáng Thế” cũng đã ảnh hưởng đến sự ra đời của phương
pháp “chú giải tiền sử” (Urgeschichte) ở Đức quốc. Các nhà chú giải này cho
rằng Kinh Thánh đã được hình thành do sự đan xen của các “tầng lớp” văn hóa và
truyền thống tôn giáo cổ đại. Mục đích của chú giải là “khai quật” các tầng lớp
xuất xứ và nhận ra dòng chảy của những truyền thống văn hóa được đan xen qua mạch
văn của Kinh Thánh. Từ đó, họ đề nghị thuyết nguồn liệu JEPD[12]
để giải thích sự thành hình của sách Ngũ Kinh. Phương pháp chú giải này đòi hỏi
một trình độ học thuật cao, vì thế đã gây nên phản ứng tiêu cực nơi các tín đồ
bình dân ít học vốn chỉ muốn tìm những ý nghĩa từ nguyên và đơn sơ của bản văn
Kinh Thánh. Sự phản biện này đã cho ra đời chủ nghĩa duy cơ bản (fundamentalism)
vốn đã trở thành nền tảng tư duy cho thần học bảo thủ nơi giáo phái Tin Lành ngày
nay.
Ngoài
ra, vấn đề nguồn gốc và tuổi của vũ trụ cũng được tranh luận. Các Giáo phụ và học
giả thời Trung Cổ dựa trên giáo thuyết “tạo dựng từ hư vô” (creatio ex
nihilo) để loại bỏ quan điểm vật chất có từ vĩnh cửu vốn cho rằng thời gian
trước Ađam là rất ngắn, không đáng quan tâm. Nhưng khoa học nhận ra rằng vũ trụ
thì già hơn trái đất nhiều. Trong thế kỷ XX, tranh luận về nguồn gốc của vũ trụ
đã quy tụ quanh hai giả thuyết đối nghịch nhau: thuyết “Big Bang” của Linh mục Georges Lemaitre và
thuyết “trạng thái ổn định” của Fred Hoyle. Thuyết “Big Bang” được yêu
chuộng hơn vì nó giả định mọi sự xuất phát từ vụ nổ tiên khởi (gần như thuyết Tạo
Dựng). Hơn nữa, nếu vũ trụ còn đang giãn nở do năng lượng khởi đầu từ “Big
Bang” thì trên lý thuyết, khoa học có thể tính ngược thời gian của sự giãn
nở để biết được tuổi của vũ trụ. Đức Giáo hoàng Piô XII (1951) chấp nhận thuyết
“Big Bang” dựa trên sự hài hòa của nó với khái niệm “tạo dựng từ hư vô”.
Một khi tri thức về chiều kích của vũ trụ càng gia tăng, thì quan điểm quy nhân
của triết học tự nhiên thời Trung Cổ mất dần hiệu lực, và suy tư thần học hướng
về những yếu tố vốn bảo trì sự quân bình môi sinh mong manh trong vũ trụ.
THUYẾT
TIẾN HÓA VÀ NGUỒN GỐC SỰ SỐNG
Giống
như Galileo, Charles Darwin đã tạo nên một khúc quanh lịch sử về mối tương quan
giữa tôn giáo và khoa học. Hai tác phẩm nổi danh của Darwin, “Nguồn Gốc Các
Loài” (1859) và “Hậu Duệ Của Loài Người” (1871) đã gây nên nhiều làn
sóng phản ứng phức tạp. Thuyết tiến hóa giả định ba yếu tố nền tảng: (1) muôn
loài sinh vật tồn tại ngày nay đều có cùng tổ tiên (common ancestry),
(2) sự phân tách giữa các loài là do biến đổi ngẫu nhiên (random variation),
và (3) khả năng thích ứng với tự nhiên truyền lại qua các thế hệ là thiết yếu
cho “sự sinh tồn của đối tượng phù hợp nhất” (survival of the fittest)
hay còn gọi là sự chọn lựa tự nhiên (natural selection). Quan điểm tiến
hóa thì không xa lạ trong giai đoạn tân thời, nhưng cách mà Darwin áp dụng nó để
giải thích nguồn gốc của con người đã gây nên nhiều phản hồi nơi thần học Kitô
giáo.
Một số nhà chú giải Anh quốc chống lại thuyết tiến
hóa. Thế kỷ XIX đã quen thuộc với luận cứ thiết kế nhưng chưa sẵn sàng chấp nhận
khái niệm biến đổi ngẫu nhiên và chọn lựa tự nhiên. William Paley (1802) lý luận
rằng sự thích ứng của muôn loài sinh vật đối với thiên nhiên là dấu hiệu của
thiết kế nơi Trí Tuệ Khôn Ngoan. Thiên Chúa không cần phải tạo nên từng cá thể
của mỗi loài, nhưng chỉ đặt vào chúng khả năng thích ứng với thiên nhiên để
chúng tiếp tục phát triển. Charles Hodge (1797-1878) lên án giả định vô thần của
thuyết tiến hóa và cách nó loại bỏ khía cạnh luân lý trong tương quan nhân vị với
Thiên Chúa. Nếu thiên nhiên bị điều phối bởi bạo lực và các loài dã thú tiêu diệt
lẫn nhau để sống, thì nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” không thể là chứng cớ cho
một Thiên Chúa nhân từ và có lòng thương xót vốn là nền tảng cho luân lý. Công đồng
Vatican I (1870) lên án chủ nghĩa duy vật tiềm tàng trong thuyết tiến hóa, vì
nguồn gốc thấp kém của thú vật thì không xứng đáng cho nhân phẩm của con người
vốn được tạo nên qua hình ảnh của Thiên Chúa.
Mặc khác, cho dù con người thật sự tiến hóa từ loài
vật thì loài người vẫn không kém là “người”. Một số học giả Victorian
nhận ra nơi thuyết tiến hóa tiềm tàng một nền tảng sinh học cho quan điểm cấp
tiến của họ về tương quan xã hội và chính trị. Thuyết tiến hóa cũng có thể được
dùng để biện hộ cho sự “chọn lựa tự nhiên” và khả năng “sinh tồn của đối tượng
phù hợp nhất” trong chủ nghĩa thực dân và xã hội giai cấp. Nhiều học giả đề nghị
thuyết “Ngày-Tuổi” (Day-Age theory) cho rằng mỗi ngày của tạo dựng đại
diện cho một giai đoạn tiến hóa.[13] Đến cuối thế
kỷ XIX, chủ thuyết tiến hóa sinh học hầu hết được chấp nhận, tuy cơ chế “chọn lựa
tự nhiên” vẫn còn gặp nhiều chống đối. Trong phạm vi thần học, thuyết tiến hóa
hữu thần của Teithard de Chardin (1881-1955) khẳng định Thần Khí đang dẫn dắt
quá trình tiến hóa về điểm cùng kết “Omega Point” trong sự hài hòa hoàn hảo với
Đấng Tạo Hóa.
Tuy nhiên, không phải thần học Kitô giáo nào cũng
thân thiện với thuyết tiến hóa, nhất là từ các giáo phái Tin Lành bảo thủ. Nhóm
Duy Cơ Bản xuất hiện giữa các năm 1910-1915 ở Hoa Kỳ, qua vụ án “Scopes
Monkey” (1925), đã phản đối mọi nỗ lực giải thích Kinh Thánh từ nhãn quan
khoa học.[14] Nhóm này tuyên truyền “chủ
thuyết thiên niên” và nhắc lại lời các triên tri về hình phạt Thiên Chúa sẽ
giáng xuống trên con người trong ngày tận thế sắp đến. Họ cho rằng chúng ta
đang sống ở giai đoạn thứ sáu của lịch sử, và giai đoạn thứ bảy sẽ đến một khi
thiên niên thứ II chấm dứt. Họ dùng sách Khải Huyền để tính chính xác ngày tận
thế và gây ra cảm thức bất an về sự suy đồi xã hội, về quyền lực của Satan đang
ẩn nấu dưới các trào lưu văn hóa, về tri thức và lý tính hiện đại cũng như cách
mạng kỹ nghệ và làn sóng di dân.
Nói chung, thuyết tiến hóa có thể trở nên công cụ chia cắt
hay thăng tiến xã hội. Trong khi giới Tin Lành bảo thủ cho rằng Satan dùng hóa
thạch để đánh lừa con người khỏi niềm tin duy cơ bản, thì Giáo hội Công giáo cảnh
báo về các mặt nạ suy đồi của chủ nghĩa duy vật và hưởng thụ vật chất đang tiềm
tàng trong thuyết tiến hóa. Đức Giáo hoàng Pius XII (1950) chấp nhận một phần của
thuyết tiến hóa, và Đức Gioan Phaolô II (1996) tuyên bố tiến hóa còn hơn là một
giả thuyết nữa. Cả hai vị giáo hoàng này đều chống lại não trạng duy vật và khẳng
định rằng sự tồn tại của linh hồn thì không là sản phẩm của lịch sử tiến hóa.
NIỀM HY VỌNG CHO TƯ DUY THẦN
HỌC
Các khám phá khoa học đưa đến ảo tưởng rằng con người
càng ngày càng vượt trên những giới hạn vật lý, nhưng thật ra chúng ta chỉ đơn
giản vượt trên những hiện hữu vật lý khác mà thôi. Nhà hoá học biết chính xác
những yếu tố nào sẽ phản ứng trong các trường hợp nhất định, cách kết hợp những
hóa chất nào để tạo thành các hợp chất mới, hoặc làm cho phản ứng hóa học xảy
ra sớm hơn hay chậm lại. Nhưng tri thức này không thể hiện thực nếu không có sự
sắp xếp định hướng được thiết lập sẵn trong tự nhiên. Vũ trụ chúng ta đang sống
là hợp lý và có mục đích (telos), và khi nhận ra như thế thì mọi hoạt động
của con người trở thành nghệ thuật hài hòa với thiên nhiên.[15] Khám
phá các quy luật điều khiển tự nhiên giúp con người hiểu thêm về nguyên nhân-hậu
quả và khả năng tiên đoán sự vận hành của thế giới, nhưng điều này không có nghĩa là thế giới phải xuất hiện như cách thức mà chúng ta hiểu. Qua đức tin, chúng ta có thể hướng đến cái vô
hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của con người. Do đó, muốn tìm hiểu
vũ trụ cho tận gốc, chúng ta không thể loại trừ viễn tượng tôn giáo về cứu cánh
tối hậu của tự nhiên.[16]
Tri thức khoa học càng ngày càng tiến bộ thì ý thức con người về trạng thái giới
hạn và tùy thuộc của mình vào thế giới vật lý càng gia tăng. Những “genes”
đã tiến hóa qua hàng triệu năm trong vũ trụ để cuối cùng trở thành các yếu tố mặc
định cho cơ cấu thể lý của chúng ta. Vì là “đứa con của tự nhiên”, con người cũng
sở hữu những nét gì đó có thể được tìm thấy trong tự nhiên.
Mục tiêu của khoa học là tìm cho ra trật tự tiềm
tàng từ sự hỗn loạn và ngẫu nhiên để giải thích cho sự tồn tại của thế giới. Hơn
nữa, nếu khoa học loại trừ cứu cánh, thì không có cách nào giải thích cho sự
quân bình vốn làm cho vũ trụ tiếp tục tồn tại. Cho dù khoa học giả định sự sống
phát triển một cách ngẫu nhiên, nhưng khoa học vẫn không thể loại trừ hoàn toàn
sự can thiệp từ bên ngoài để có sự sống (Michael J. Behe).[17] Chúng
ta không thể hiểu tại sao một Thiên Chúa phải tận dụng cả bộ máy phức tạp và
bao la, gồm vô số thiên hà chỉ để tạo nên một hành tinh có khả năng bảo trì sự
sống, vốn chỉ là một khoảnh khắc nhỏ nhoi so với khoảng thời gian thành hình của
vũ trụ. Trong khi khoa học còn đang tiếp tục khám phá về nhiều “trái đất” khác
có dấu hiệu nuôi dưỡng sự sống, thì chúng ta có thể nghĩ về quyền năng vô hạn của
Thiên Chúa mà khoa học chưa nắm bắt được hết. Vô số loại “virus” hay “genes”
đơn sơ nhất, tuy chưa phát triển hoàn hảo, nhưng được ân ban khả năng biến dạng
đột phá ngoài sức tưởng tượng của con người.
Cho dù ngôi nhà trái đất của con người chỉ là một
hành tinh nhỏ bé so với chiều kích vĩ đại của vũ trụ, nhưng con người vẫn giữ một
vị thế đặc biệt giữa muôn loài thụ tạo. Khó mà lý giải một cách đầy đủ về nguồn
gốc của sự sống đầu tiên, nếu ta không giả định sự tồn tại của một nguyên nhân
thông minh nào đó. Nguồn gốc của thân xác có thể giải thích bằng quá trình tiến
hóa, nhưng chúng ta vẫn không thể tiếp tục giải thích như thế về nguồn gốc của
bản tính thiêng liêng và phi-vật chất của linh hồn. Thật vậy, chính linh hồn
làm cho con người hiểu biết, yêu mến, chọn lựa cách tự do, và tách biệt con người
ra khỏi mọi phần còn lại của thụ tạo. Trí thông minh giúp con người đào sâu vào
những bí ẩn của thiên nhiên, thấu hiểu các hoạt động của vũ trụ cũng như thuần
hóa các năng lực tự nhiên nhằm phục vụ cho mục đích của mình. Thiên Chúa đã mặc
định cho con người khả năng hiểu biết và yêu mến Đấng tạo nên mình. Bộ máy vũ
trụ bao la cách nào đó đang hỗ trợ cho sự sống và cùng đích của con người.
Thánh
Augustine cho rằng vũ trụ là một tác phẩm nghệ thuật mà vị Nghệ Gia “Vĩ Đại”
đang trình diễn trước mắt chúng ta. Nghệ thuật sống động này vẫn còn đang tiếp
diễn và minh họa cách tổng thể sự sống của muôn loài sinh vật qua lịch sử.
Từ giây phút thành hình của đơn bào đầu tiên cho đến sự sống của loài người, tất
cả đều chỉ thuộc cùng một cung điệu của “bài thơ lịch sử” mà thôi.
Sự huyền diệu của vũ trụ ở mức độ vi mô lẫn vĩ mô cho ta một cảm thức khiêm tốn
lành mạnh. Hành trình “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” cần phải đối thoại
với tri thức khoa học vốn đang được cập nhật hóa liên tục. Trong quá khứ, sự giao
thoa giữa niềm tin tôn giáo và tri thức khoa học đã nhiều lần mở rộng vòng tròn
tương giao giữa hai trục “tin để hiểu” và “hiểu để tin”, thì hiện
tại nó cũng sẽ tiếp tục là niềm hy vọng cho tư duy thần học trong thế giới chúng
ta ngày nay.
[1] Các tác phẩm tiêu biểu: “A History of Conflict between Religion and
Science” (John William Draper, 1874), “The Warfare of Science” (Andrew
Dickson White, 1876), “A History of the Warfare of Science with Theology in
Christendom” (Andrew Dickson White, 1896).
[2] x. (https://quizlet.com/701433084/philosophy-flash-cards/
). Truy cập 2/1/2025.
[3] x. (https://web.stanford.edu/~jsabol/certainty/readings/Galileo-LetterDuchessChristina.pdf).
Truy cập 2/3/2025.
[4] Richard-Bentley. Dissertation
upon the Epistles of Phalaris (1699).
[5] Bridgewater. The
Bridgewater Treatises on the Power, Wisdom and Goodness of God, As Manifested
in the Creation. Treatise 1-9 (1923).
[6] William Paley. Natural
Theology or Evidences of
the Existence and Attributes of the Deity (1802).
[7] x. (https://intelligentdesign.org/whatisid/).
Truy cập 3/1/2025.
[8] James Ussher. Annals of
the World (1650).
[9] Thomas Burnet. The
Sacred Theory of the Earth. Delhi open book, 2021. (Bản gốc Latin
1861)
[10] Edmond Halley: Genius
in eclipse. by Colin Alistair, London : Macdonald, 1970)
[11]
x. (https://en.wikipedia.org/wiki/John_Woodward_naturalist). Truy cập
12/3/2025.
[12] Đây là “Thuyết Nguồn Liệu”
(Sources Theory) do Julius Wellhausen và một nhóm học giả trong các thể
kỷ 17-19 khai triển để giải thích về bốn nguồn liệu của sách Ngũ Kinh:
"J" (Jahwist), "E" (Elohist), "D"
(Deuteronomist), and "P" (Priestly).
[13] x. (https://answersingenesis.org/genesis/gap-theory/).
Truy cập 23/3/2025.
[14] x. (https://en.wikipedia.org/wiki/Scopes_trial).
Truy cập ngày 21/3/25
[15] Alan Wolter, Cosmology
(Quincy University, Il., 1976).
[16] Joseph Tân Nguyễn, Triết
học Thiên nhiên (NXB Đồng Nai, 2021)
[17] Michael J. Behe. Darwin's
Black Box: The Biochemical Challenge to Evolution. Free Press, New York, 2001.

